Sau khi Mã Viện rời Giao Chỉ, ông phải mất gần 6 tháng mới về được tới kinh đô Hán ở Lạc Dương (LoYang). Con đường bộ giữa Lạc Dương và Giao Chỉ dài khoảng 1.000 dặm. Quận Cửu Chân trải dài trên 200 dặm ở phiá Nam Giao Chỉ, còn Nhật Nam lại xa hơn nữa. Vào thời ấy, đó là những khoảng đường xa kinh khủng. Các quan chức Hán ở miền Nam, về vật chất và tâm lý đều bị cô lập với những người Trung Quốc được coi là thuộc thế giới văn minh. Nhiều người bị ghét bỏ, bị đổi đến đây và nhận nhiệm sở của mình như là kẻ bị đi đầy. Có người đến để vơ vét của cải nhân khi ở cái vùng biên cương vô luật pháp này.
Ông Ozaki Yasushi nghiên cứu chính quyền thời Hậu Hán ở Giao Chỉ Bộ đã kết luận rằng nhà Hán không bao giờ hoạch định một nền cai trị thành công ở đó. Tỉ lệ của cải vơ vét được cực kỳ cao vì các quan chức thường trở về Bắc sau khi họ đã vơ vét được khá nhiều trong một thời gian không dài. Lớp người di cư Trung Quốc mới nổi lên cộng tác chặt chẽ với các quan chức tham ô, và áp đặt gánh nặng hối lộ, bóc lột lên đầu người bản xứ.
Tình trạng ấy gây nên những vụ nổi loạn. Và những vụ nổi loạn lại đưa đến việc những sĩ quan quân đội có khả năng được gởi đến. Nhưng vì có khả năng, chẳng bao lâu họ lại được gọi về Bắc khi cần. Trong gần hết thế kỷ 2, chính phủ trung ương bị rối loạn không yên và việc đánh dẹp cũng lại theo đà ấy tăng lên với những đoàn quân được gởi đến theo định kỳ để thay thế các quan chức hành chánh. Chính trong những điều kiện đó mà những gia đình ở địa phương của những người Trung Quốc di cư tìm cách đứng ra đảm đương quyền hành khi nhà Hán sụp đổ.
Ông Goto Kimpei, trong những nghiên cứu về thời kỳ này cũng kết luận như thế. Ông còn cảnh cáo đừng nên tin bề ngoài của những hồ sơ về các "viên chức tốt" và "những viên chức xấu". Ví dụ, một viên Thái Thú ở Hợp Phố dưới triều vua Hoàn (147-67) bị cáo buộc đã cưỡng đoạt ngọc trai của dân và vơ vét của cải khác của họ : dân bị mất ngọc trai về sau chết đói, vì họ thuờng đem ngọc trai xuống Giao Chỉ đổi lấy gạo.
Chuyện này được chép trong tiểu sử của Thái Thú Mạnh Thường, người đã đến Giao Chỉ sau khi vụ việc trên xảy ra và rất lấy làm phiền lòng. Đồng thời, tiểu sử của Thứ Sử Cổ Tông, một trong những Thứ Sử trong những năm 180, đã được mô tả là một ông quan gương mẫu, lúc nào cũng chăm lo cho dân. Tiểu sử của ông chép rằng sự tham nhũng của người tiền nhiệm của ông đã khiến cho dân phải chết đói và nổi loạn.
Chuyện kể trên đều được ghi trong các tiểu sử khắc vào mộ bia của những ông quan để khen ngợi người đã chết. Cho nên chắc hẳn là không nói điều gì xúc phạm đến uy tín của Mạnh Thường và Cổ Tông. Chúng ta cũng có thể suy ra rằng để làm nổi bật những tính tốt của những quan chức này, những điều xấu của người tiền nhiệm của các ông lại càng được thêm thắt nhiều lên. Vì nghề làm quan nói chung là rất xấu trong thời kỳ đó nên khuynh hướng chép sử là chú trọng ghi chép về những quan chức tốt. Và sự trái ngược tốt xấu càng được tô điểm thêm lên. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng những thành tích của những ông quan được gọi là "tốt" chắc cũng chỉ to bằng hạt cát.
Có hai ông quan dưới triều Hoàng Đế Minh (58-75 SCN) là biểu trưng cho hai loại quan tốt xấu chép trong sử thời Hậu Hán. Lý Thiện, Thứ Sử Nhật Nam "đã cai trị với lòng nhân từ, bác ái, khoan dung đối với những phong tục lạ". Về sau, ông được thăng chức và được đổi về Bắc. Mặt khác, Trương Hối, Thái Thú Giao Chỉ đã "lợi dụng pháp luật để ăn hối lộ". Và của cải vơ vét được chất đầy một nhà kho. Về sau, ông bị xử trảm và những của cải của ông được đem phân phát cho mọi người.
Câu nói rằng Lý Nhiệm "rất khoan dung đối với những phong tục khác lạ" được coi như là một biện pháp cai trị thành công của ông và rất bổ ích. Nó cho thấy rằng, để cai trị được người Việt Nam, người Trung Quốc phải thích ứng với văn hoá địa phương, không được bắt dân địa phương phải theo lối sống của mình.
Nhưng trong khi người Trung Quốc không thể thay đổi được văn hoá địa phương, họ đã kiểm soát được nền kinh tế và bòn vét được của cải vật chất của địa phương. Sự tham ô của Trương Hối được ghi lại, vì nó đủ làm cho triều đình, dù ở mãi tận nơi xa, cũng phải chú ý. Thật vậy, ảnh hưởng chung của chính quyền Hán ở miền Nam đều có tính cách bóc lột. Và tham ô thành một hành động tiêu chuẩn.
Trong khi hiệu quả trừng phạt của cuộc viễn chinh của Mã Viện mờ dần, các hành động bóc lột vơ vét không còn được coi là tự nhiên. Và sự chống đối ngày càng công khai. Năm 89, Hoàng Đế Hồ phải ra lệnh chấm dứt việc đem trái cây tươi từ Giao Chỉ về tận kinh dô, chỉ vì tốn kém về người và ngựa cho những thứ chóng hỏng này. Ngoài ra, ngày đêm lại bắt dân phải è cổ mà chạy hết tốc lực. Chúng ta có thể cho rằng việc chấm dứt những chuyện hoang phí ấy là phản ánh áp lực của miền Nam.
Mặc dầu chế độ cai trị của nhà Hán ở Giao Chỉ có nhiều khuyết điểm, tình hình chính trị được ổn định một cách đáng kể trong gần một thế kỷ. Khi quyền lực của Hán bắt đầu lung lay, triệu chứng đầu tiên ở miền Nam không phải là một sự hỗn loạn, mà lại là sự thối nát của tình hình ở biên cương. Một loạt những cuộc xâm nhập và nổi dậy ở đó đã làm hao mòn chính quyền một cách quá sức. Nó gây nên một sự bất ổn trong nội bộ Trung Quốc và khuyến khích một tinh thần phản kháng nảy sinh.
Đầu năm 2 SCN, được biết có một xứ gọi là Hoàng Chỉ ở nam quận Nhật Nam đã gởi sừng tê giác đến tận Hán triều cống nạp. Theo lập luận, đó là xứ Kanci ở mãi gần xứ Conjeerveram ở miền Nam Ấn Độ. Nếu như thế, đây là chứng cứ của một sự tiếp xúc bằng đường biển rất yên ổn với vùng duyên hải ở Nam và Đông Nam Á. Việc buôn bán những đồ hàng xa xỉ vùng nhiệt đới là mối bận tâm chính của các quan cai trị địa phương. Và những cuộc tiếp xúc bằng đường biển là một lối thoát mạnh mẽ cho nền kinh tế của nhà Hán đang xuống dốc. Khi văn minh Trung Quốc tiến xuống miền Nam với các đạo quân viễn chinh, nền văn minh Ấn Độ bành trướng theo các đường thông thương buôn bán ở Đông Nam Á. Quận Nhật Nam, nơi mà 2 đường văn minh giao lưu đã trở thành một kho chứa đồ và bãi chiến trường văn hoá quốc tế.
Óc Eo, một khu khảo cổ học ở hạ lưu sông Mê kong, nơi bây giờ là miền Nam Việt Nam, đã cho rất nhiều bằng chứng phong phú về những cuộc tiếp xúc với Tây Phương. Ngoài số lớn những đồ vật gốc Ấn Độ, lại cũng đào được những đồng tiền đúc của La Mã nữa. Một trong những đồng tiền này mang hình Antonius Pius (138-61). Các tướng lãnh của người kế vị Antonius Pius như Marcus Aurelius (161-80) là người đã chinh phục một phần xứ Mesopotamis năm 162-65, và điều này là nguồn gốc của nhiều sự tiếp xúc với những đường giao thương đi về hướng Đông. Bởi vì năm 166, một nhóm thương nhân tự xưng là sứ giả của Marcus Aurelius đã tới Giao Chỉ bằng đường biển trên đường đến kinh đô nhà Hán. Con đường biển giữa Đông Á và Tây Á lúc đó là một mạch giao thương rất tốt.
Biên giới văn hoá của mạch giao thương ấy là Tượng Lâm ở cực Nam quận Nhật Nam, quanh vùng Huế ngày nay. Ở đây, các quan chức Hán đã tiếp xúc với những luồng văn minh Ấn Độ hoá khi chúng kéo tới dọc theo những đường thương mại Đông Nam Á. Vào khoảng năm 192, người con trai của một quan chức huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên đã giết viên Lịnh (thẩm phán) của huyện và tự xưng làm vua lập ra nước Lâm Ấp. Lâm Ấp đã tồn tại cho đến mãi thế kỷ 17, thành một láng giềng rất quan trọng của Việt Nam.(Chính xác hơn là Lâm Ấp - Champa).
Nước Lâm Ấp theo văn minh Ấn Độ; tuy nhiên Lâm Ấp lại bành trướng từ bên trong cơ cấu chính quyền Hán và bám chặt vào vùng bià của thế giới chính trị Trung Quốc trong 3 thế kỷ trước khi mở rộng được quyền lực sang những khu vực ở xa nữa về phiá Nam. Những vùng biên giới phát triển mau chóng này đã gây nhiều bất ổn cho Giao Chỉ bắt đầu từ thế kỷ 2.
Năm 100, vào đầu mùa hè, hơn 2,000 dân ở Tượng Lâm nổi lên cướp và đốt phá các trung tâm Hán ở trong huyện. Người Trung Quốc phản ứng bằng việc lập một đạo quân tuyển từ các huyện phiá Bắc. Sau khi thủ lãnh cuộc nổi dậy bị bắt và xử tử thì những người đi theo bèn xin quy hàng. Nhà Hán bèn thiết lập một bộ chỉ huy quân sự đặc biệt ở Tượng Lâm để đề phòng mọi biến động trong tương lai. Năm 102, Tượng Lâm được cho miễn không phải đóng 3 thứ thuế trong 2 năm: đó là để ban ơn khoan hồng cho cái tội đã dám nổi loạn.
Trong mấy chục năm sau đó, miền biên giới bề ngoài được yên ổn. Năm 124, bọn "man di ở bên kia biên giới Nhật Nam" kéo đến và xin quy thuận nhà cầm quyền Hán. Có vẻ như đó là một cuộc di dân và có thể là một nhóm dân tỵ nạn đi trốn những cuộc tranh chấp chính trị xảy ra ở bên kia biên giới. Sự thực không được biết vì không có đủ chi tiết. Mặt khác, ông Rolf Stein đưa ra một trường hợp rõ rệt để giải thích câu nói "bọn man di…" trên đây là có ý chỉ những dân nằm trong địa bàn quận Nhật Nam, nhưng ở ngoài tầm kiểm soát của quan chức Hán. Một cuộc tiếp xúc hoà bình với bọn "man di từ bên kia biên giới Nhật Nam cũng đã xảy ra vào năm 85.
Năm 136, bạo động lại bùng nổ ở biên giới gây tác động tới các quận ở xa tít về phiá Bắc. Và từ đó chính quyền Hán ở đó không bao giờ được hoàn toàn phục hồi. Nhiều ngàn quân gọi là quân Khu Liên từ "bên kia biên giới" kéo đến và tấn công Tượng Lâm. Chúng lại đốt các trung tâm người Hán và giết chết các quan chức Hán. Một nguời tên Cơ Xương kéo một đoàn quân vào Nhật Nam để dẹp loạn nhưng sau đó đã bị loạn quân bao vây một cách tuyệt vọng. Loạn quân lại kéo lên phiá Bắc và Thứ Sử Giao Chỉ là Phan Liên lập một đạo quân hơn 10.000 tuyển ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhưng những quân này lại không muốn đến nơi biên cương xa xôi, nên không những đã không chịu đi về Nam mà lại còn nổi lên đánh phá các trung tâm người Hán trong 2 quận nhà.
Khi tin về đến kinh đô Hán, triều đình lần đầu tiên quyết lập một đạo quân 40.000 người lấy ở 4 tỉnh miền Hoa Bắc và Hoa Trung để gởi xuống Nam. Nhưng kế hoạch bị hủy bỏ theo những khuyến cáo của một quan đại thần là Lý Cố. Lý Cố viện ra 7 lý do không nên gởi quân xuống Giao Chỉ :1) Những nơi định mộ quân cũng đang ở trong tình trạng bất ổn; 2) Gởi một đạo quân đi xa xuống Nam như thế sẽ đưa đến biến loạn và đào ngũ; 3) Khí hậu ở miền Nam sẽ gây bệnh tật và chết chóc; 4) Đi xa sẽ làm cho mọi người bị kiệt sức; 5) Chi phí để tiếp tế sẽ quá cao; 6) Một đạo quân viễn chinh phải có sẵn viện binh và sẽ gây ra oán hận; 7) Những binh sĩ ở Giao Chỉ và Cửu Chân đã không chịu đánh, làm sao quân từ ngàn dặm xa xôi đến lại làm cái việc mà họ sẽ không làm? Lý Cố khuyên nên dùng Chúc Lương và Trương Kiều mà ông cho là những quan chức có khả năng, có tinh thần và rất dũng cảm để trấn an quân phiến loạn bằng cách thuyết phục và cho hối lộ. Bảy điểm của Lý Cố nói lên thái độ của nhà Hán đối với miền Nam lúc đó. Tình hình thật khác hẳn với thế kỷ truớc khi Mã Viện được lệnh kéo xuống Nam mà không có gì phải nghi ngại cả. Giờ đây triều đình bị khống chế bởi một bầu không khí ở hậu trường và bởi những thái giám có quyền hành. Vua chỉ hơn bù nhìn một chút. Hơn thế nữa, nhà Hán lúc ấy lại còn phải bận tâm với một đe doạ nghiêm trọng hơn ở biên giới phía Tây. Hơn nữa, sự lựa chọn ngoại giao để đổi lại với đe doạ, cưỡng ép là sự thừa nhận những thực tế địa-chính trị ở vào thời điểm và địa điểm ấy. Giao Chỉ chỉ là một tiền đồn xa xôi của đế quốc Hán nhưng các quan chức Hán ở đó bị cô lập trong biển người "miền Nam man rợ". Khi triều đình Hán bắt đầu suy nhược và không còn khả năng chống đỡ sóng gió, sự thay đổi trong không khí chính trị được cảm nhận ngay ở tiền đồn Giao Chỉ, và những hậu quả cũng được thấy rõ ngay.
Những lời khuyên của Lý Cố đã được nghe theo. Thay vì một đạo quân, 2 người được phái đi. Trương Kiều được làm Thứ Sử Giao Chỉ Bộ và Chúc Lương làm Thái Thú Cửu Chân. Hai người đều thuộc phe Lý Cố, và họ tượng trưng cho cố gắng của Lý Cố để nâng cao địa vị, phe đảng của ông. Ông đánh bạc bằng khả năng của thủ hạ của ông đối với sự cứng đầu của bọn phản loạn. Và tiền đặt cọc chính là uy tín của ông ở trong triều.
Năm 138, khi Trương Kiều vào đến Giao Chỉ, ông bèn phổ biến những lời lẽ hòa giải và dân chúng phản ứng tốt. Còn Chúc Lương táo bạo, cho xe của mình chạy thẳng vào trong vùng bọn phản loạn đóng ở Cửu Chân vnói chuyện với họ một cách "oai vệ" khiến cho hàng chục ngàn tên xin về quy thuận. Trương Kiều lại gởi một sứ giả đến Nhật Nam với những lời lẽ "dịu dàng và khích lệ" và cũng được bọn phản loạn "hồi chánh". Thế là nhờ tư cách cá nhân, chỉ có một vài người đã bình định được Giao Chỉ.
Nhưng hoà bình được lập lại kiểu ấy rất mong manh và Thái Thú Giao Chỉ là Chu Cương yêu cầu cho Giao Chỉ được nâng lên quy chế "Châu" (tỉnh) để tăng cường uy tín nhà Hán. Lời yêu cầu bị bác, nhưng không lâu sau, Chu Cương được phong Thứ Sử khi Trương Kiều trở về triều. Đồng thời trị sở Giao Chỉ được dọn từ Luy Lâu về Long Biên, vì Long Biên phòng thủ được dễ hơn.
Năm 144, lại một cuộc nổi loạn nữa bộc phát ở miền Nam. Cũng gần giống như 8 năm về trước, cuộc nổi loạn bắt đầu từ Nhật Nam. Loạn quân chiếm cứ các trung tâm Hán, xúi dục những vụ nổi loạn như thế ở Cửu Chân và Giao Chỉ. Thái Thú Giao Chỉ là Hà Phương cố thuyết phục loạn quân quy phục và hứa sẽ khoan hồng.
Sau biến cố này, tình hình ở đây tương đối được yên tĩnh trong hơn 10 năm. Tuy nhiên, quyền hành của Hán yếu dần và ý tưởng nổi loạn chỉ chực đợi thời cơ để nổi lên.
Với những biến cố vừa kể, chúng ta có một số câu hỏi. Năm 100, cuộc nổi loạn ở Tượng Lâm bị dẹp yên bởi những binh sĩ được mộ từ các nơi xa ở miền Bắc, có lẽ là ở Bắc Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ. Một bộ chỉ huy quân sự đặc biệt được lập tức thành lập ở Tượng Lâm. Ba mươi sáu năm sau, khi Nhật Nam lại tái phát bạo loạn, các binh sĩ được mộ ở Cửu Chân và Giao Chỉ không chịu xuống miền Nam nữa. Thay vào đó, quay lại chống đối nhà cầm quyền Hán ngay tại trong quận. Kết quả là các quan chức Hán không dám héo lánh tới khu vực ấy trong hai năm. Và khi họ quay trở lại, trở lại với những cử chỉ hòa giải rồi vội vã dời hành dinh đến chỗ an toàn hơn. Vậy điều gì đã gây ra sự khác biệt ấy trong phản ứng của Cửu Chân và Giao Chỉ đối với Nhật Nam trong thời gian cách nhau chỉ có khoảng hơn một thế hệ?
Câu hỏi bắt chúng ta phải xét xem đúng ra ai là người ở Cửu Chân và Giao Chỉ mà năm 100 đã quyết định theo Hán; rồi đến năm 136 lại chống Hán? Không còn sót lại những chi tiết nào cho biết về những đơn vị ở địa phương đã được tuyển mộ và tổ chức như thế nào; những công tác này tất được giao cho những người có dấu hiệu trung thành với Hán, nhất là những người có mang dòng máu Bắc. Đám binh sĩ là những người gốc địa phương, không có gì phải nghi ngờ cả. Và họ phục vụ bao lâu khi lãnh đạo Hán đoàn kết và đáng được tin cậy. Lớp sĩ quan trung gian giữa những binh sĩ ấy và quan chức cấp trên có thể là con cháu của lớp binh sĩ Mã Viện đang phục vụ những đại gia đình Hán-Việt vẫn nắm giữ quyền hành địa phương.
Trong tình trạng khẩn trương của năm 100, chắc chắn là con cháu của các binh sĩ lớp Mã Viện đã lãnh đạo những người được tuyển mộ để đi dẹp cuộc nổi loạn ở Tường Lâm. Và những người ấy rồi sau phục vụ trong bộ chỉ huy quân sự được thành lập ở đó. Mẹ của họ có thể là những người phụ nữ địa phương, nhưng những người cha họ đã chiến đấu cho nhà Hán. Và nay hành động của họ như thế là điều tự nhiên.
Còn trong tình trạng khẩn cấp của năm 136, con cháu của những người năm 100 được gọi đến. Và họ thấy rằng làm loạn là điều tự nhiên, hơn là phục vụ. Dĩ nhiên vào năm 136 thì ở khắp nơi trong Trung Quốc, ý niệm trung thành với nhà Hán đã kém hơn năm 100. Điều có ý nghĩa hơn cả là vào lúc đó, lớp các quan chức Hán ở hạng trung và thấp ở Việt Nam và có quyền hành; có thể đã có 3 thế hệ người ông thuộc dân địa phương. Và chỉ có 1 ông cố là nguồn gốc Bắc. Tính chất Hán của những người ấy đã bị phai mờ nghiêm trọng vì những cuộc hôn nhân qua lại giữa 2 giống.
Những cuộc nổi loạn năm 136 và 144 giống nhau ở chỗ cả 2 đều được dẹp yên bằng thuyết phục. Như thế nghiã là trong khi những người lãnh đạo nổi loạn có thể đã bị thúc dục nổi lên chống Hán do ảnh hưởng của các bà nội, bà ngoại, bà mẹ, hay vợ họ. Lòng trung thành với Hán của cha, ông họ cũng đủ cảm nhận để khuyến khích họ quay trở lại trung thành với Hán. Nhất là khi có các quan chức Hán cấp cao xuất hiện.
Trương Kiều và Chúc Lương năm 138 và Hạ Phương năm 144 có lẽ đã gây lại được lòng trung thành của phản loạn bằng cách tỏ ra như thế là đứng về phía họ mà căm thù bọn Thái Thú và quan Lịnh hay ức hiếp nên có thể đã gây ra những rối loạn ấy. Họ đưa ra những lời lẽ hòa giải và cam kết sẽ khoan dung cho mọi người. Đó là những " lời lẽ xoa dịu và đầy khích lệ " đã đem lại cho dân địa phương lý do để họ tin rằng sự bất công rồi sẽ được sửa chữa. Cách nói như thế trở thành một kiểu cách của các quan chức Hán đáp ứng với những vụ nổi loạn hay bất bình ở Giao Chỉ. Nhưng chúng ta sẽ thấy sau đây, Chu Thừa và Cổ Tông, vào cuối thế kỷ lại cũng được tiếng là có tài dẹp yên được các cuộc nổi loạn và bất bình của dân chúng: các ông sa thải những quan chức tham ô, cải tổ hành chánh và hứa sẽ có 1 chánh quyền lương thiện để phục vụ dân. Tuy nhiên các ông chỉ là những ngoại lệ đối với tính tham ô đã thành như luật lệ.
Cuộc nổi loạn kế tiếp bắt đầu ở huyện Cự Phong, nằm trong vùng đất cao, phân chia đồng bằng sông Mã với sông Cả ở Cửu Chân. Năm 157, một quan Lịnh đáng ghê tởm ở Cự Phong làm cho dân chúng tức giận. Một người dân Cự Phong là Chu Đạt đã nổi lên giết viên quan Lịnh, rồi kéo thẳng lên phiá Bắc với khoảng 4-5 ngàn người. Thái Thú Cửu Chân là Nghê Thức bị giết ngay ở ngoài mặt trận. Chỉ huy quân sự Cửu Chân là Ngụy Lang về sau đem binh tấn công lại, bắt và giết được 2.000 người. Ông dùng phương pháp đe doạ và cưỡng ép để lấy lại quyền kiểm soát ở Nhật Nam, nơi trước kia cũng vì thế mà có loạn.
Đấy là một kiểu nổi loạn mới, do một viên "quan Lịnh Hán đáng tởm" gây ra, thay vì là 1 sự bạo động như ở Tượng Lâm. Chu Đạt, người đã giết viên quan Lịnh và lãnh đạo cuộc nổi loạn ngắn ngủi nhưng đẫm máu, đã không hề dược các sử gia Việt Nam nói đến. Chỉ thấy ông đã được nhắc đến trong các sử liệu Trung Quốc. Nếu như thế, vụ này nói lên cái tính chất dịa phương của lớp dân lai Hán-Việt đang lớn lên. Chu Đạt đánh phá các trung tâm Hán ở Cửu Chân với khoảng 4-5 ngàn người. Cuối cùng y đã bị đánh bại bởi một đội quân cũng gồm những người địa phương. Và điều này hàm ý lớp dân lai Hán-Việt đã được phân cực sau những biến cố năm 138 và 144, chia ra người thì chống Hán, người trung với Hán.
Cuộc nổi loạn của Chu Đạt giới hạn trong quận Cửu Chân và Nhật Nam lại cho ta thấy sự phát triển của xã hội lai Hán-Việt theo điều kiện địa lý. Những khu vực cách xa các trung tâm chính của Hán nhất, công khai chống Hán rất sớm. Sự thành công của Chu Đạt khi giết được không những một quan Lịnh người Hán mà cả viên Thái Thú Cửu Chân lúc lâm trận cho thấy ông ta là người rất rành về quân sự. Huyện Cự Phong là 1 vùng đất cao ở biên giới. Trước khi nổi dậy, có lẽ ông đã được phụ trách vùng biên này. Công tác ở vùng biên, như sau này lịch sử chứng minh, thường là một kinh nghiệm cải cách bởi vì những quan chức nào không được tin cậy hoặc tham nhũng thường hay bị đổi ra biên giới, như một hình thức giáng cấp. Làm việc ở biên giới có nhiều bấp bênh, đưa đến nhiều cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc với những người được gọi là man di. Vì thế, lẽ tự nhiên là những người thuộc lớp lai Hán-Việt bị đổi ra biên giới lại thường là những người đầu tiên nêu cao cờ nổi loạn. Biên giới là nơi kinh niên gây bệnh bất mãn vừa bởi vì những người bị đổi ra đấy thường hay bị ghét bỏ. Vừa vì văn hoá của người bản xứ ở biên giới ngược lại với văn minh Hán, từ nếp sống gia đình đến quan niệm về quyền lực. Mặt khác, những người cầm quân đánh Chu Đạt chắc phải là xuất thân từ những cộng đồng nông nghiệp ở gần các trung tâm Hán trong đồng bằng sông Hồng và sông Mã.
Chu Đạt và 2.000 người đi theo đã bị chặt đầu. Như vậy là tạm thời loại được một số cứng đầu, bướng bỉnh ra khỏi lớp dân lai Hán-Việt. Ba năm sau, vào năm 160, Cửu Chân và Nhật Nam lại nổi loạn, nhưng những người cầm đầu đã được thuyết phục để quay trở về trung thành với nhà Hán bởi những người đã từng dẹp được cuộc nổi loạn năm 144. Đó là Hạ Phương. Hạ Phương áp dụng một chính sách "vừa nhã nhặn vừa oai nghiêm" và riêng ở Nhật Nam đã có hơn 20.000 người quay về hồi chánh.
Một lý do chính yếu làm những dân lai Hán-Việt nổi loạn, ngoài việc các quan chức Hán tham ô, là sự tin tưởng họ có thể tự bảo vệ hiệu quả hơn nếu họ có cơ hội tự đảm nhiệm lấy mọi việc. Ngày càng rõ rệt là ở đấy, người Hán không bảo đảm nổi an ninh cho họ. Đối với họ, phải có sự lựa chọn giữa sự hỗn loạn của chính quyền đang suy yếu và sự ổn định do chính họ đảm nhiệm mà không có sự can thiệp của các quan chức Hán từ phương Bắc đến.
Biên cương phía Nam không phải là nơi duy nhất có rối loạn ở Giao Chỉ Bộ. Trong những vùng núi non ở Quảng Tây và Quế Châu bây giờ cũng có những cuộc nổi loạn. Những sự rối loạn ấy cũng ảnh hưởng đến Việt Nam vì chúng phát xuất ở giữa vùng ấy và trung tâm hành chánh của Giao Chỉ Bộ tại Thương Ngô. Năm 163, một tướng quân là Cát Kỳ được sai đến dẹp loạn, nhưng lại bị giặc bắt. Chuyện về sau ra sao, không thấy ghi lại; nhưng cách hành xử của Thứ Sử Chu Thừa có thể là một yếu tố quan trọng. Sự hiểu biết của chúng ta về Chu Thừa bị hạn chế trong một đoạn đề cập đến ông trong sách An Nam Chí Lược. Tuy [chuyện Cát Kỳ bị giam bắt] không được ghi chú ngày tháng trong An Nam Chí Lược, nhưng dường như phù hợp với những biến cố lịch sử xảy ra vào thời đó.
Là một quan ngự sử của triều đình, Chu Thừa đã tranh biện với vua và bị đổi đi làm Thứ Sử Giao Chỉ. Sau khi đến miền Nam, ông báo cáo về triều đình như sau :
Giao Chỉ là một đất ở xa; tham ô và hối lộ là điều thường có. Những gia đình có thế lực thông đồng lừa gạt; các quan chức địa phương khinh xuất và áp bức; dân chúng bị bóc lột và ức hiếp. Thần được đội ơn triều đình và sung sướng được là bề tôi của bệ hạ. Ý thần muốn xin bệ hạ cho phép được quét dọn sạch sẽ nơi này".
Ông bắt đầu bằng cách sa thải hơn 30 quan chức. Sữ ghi ông được tiếng là đã "bình định" đuợc Giao Chỉ. Nhưng cũng cần phải nghiên cứu về chuyện Chu Thừa bởi vì chuyện nằm trong khuôn mẫu của sử liệu vẫn hay nói là "quan tốt" đến sau khi "quan xấu" đi. Tuy nhiên, những thay đổi quan trọng đã được thực hiện ở Giao Chỉ Bộ, trong giới cầm quyền. Trưóc kia, các Thái Thú được bổ nhiệm từ Bắc xuống, nhưng vì triều đình còn lo các chuyện tranh chấp trong cung đình và những quan có tài lại hiếm; nên có sẵn người nào, bổ nhiệm nguời đó, bất kể tài năng ra sao. Vì thế nên Giao Chỉ phải bổ những người địa phương vào chức Thái Thú. Thay vì là quan chức của triều đình, nay các Thái Thú lại dần dần thành người đại diện cho quyền lợi địa phương. Cứ như thế, ở Giao Chỉ đã xuất hiện một phong trào địa phương mạnh được dân chúng ủng hộ. Và chính nhờ như vậy mà gia đình họ Sĩ thành nổi tiếng và giàu có.
Dưới thời Hoàng Đế Hoàn (147-67) nhà Hán, Sĩ Tư được bổ Thái Thú Nhật Nam. Năm thế hệ trước đó, tổ tiên họ Sĩ bỏ quê hương ở Sơn Đông để tị nạn Vương Mãng. Họ định cư ở Thương Ngô, nơi đặt phủ Giao Chỉ, tức Quảng Tây ngày nay. Gia đình họ Sĩ và những gia đình khác cùng hoàn cảnh lại được Hán công nhận là những người trọng tài cho quyền lực địa phương. Và những người này lại đến lượt phát triển thêm quan hệ chủ-khách với dân bản xứ. Cho nên họ dần dần thành trọng tâm của nền chính trị địa phương khi chính quyền của triều đình lu mờ dần.
Một trong những người con của Sĩ Tứ là Sĩ Nhất, lúc đó là một sĩ quan quân đội cấp quận. Thứ Sử Giao Chỉ là Đinh Cung rất có ấn tượng với tài mẫn cán của Sĩ Nhất, nên về sau, khi được bổ nhiệm về triều, ông đã mang Sĩ Nhất đi theo. Sự liên kết giữa Sĩ Nhất với một người cỡ Đinh Cung cho thấy những đức tính của những người họ Sĩ và giải thích vì sao họ Sĩ sau được nắm quyền.
Năm 178, quận Nam Hải (Quảng Châu) nổi loạn, sách động cả Hợp Phố và Giao Chỉ cùng nổi lên theo, dưới quyền chỉ huy của một người là Lương Long. Cuộc loạn lại lây cả xuống Cửu Chân và Nhật Nam. Và cũng được cả những bộ lạc ở Quảng Tây bây giờ theo nữa. Đây là lần thứ nhất mà tất cả các quận ở Giao Chỉ cùng đứng lên một loạt. Và cũng là lần đầu tiên việc chống Hán được khởi xướng bởi một quan chức của triều đình. Đó cũng là lần đầu tiên, người Việt Nam nổi dậy chống Hán do những biến cố trên miền Bắc. Thứ Sử Chu Ngung không làm gì được.
Năm 181, Chu Tuấn được triều đình sai xuống Giao Chỉ. Ông là một vị tướng có tài, hành động bán độc lập và nổi tiếng trong lúc Hán triều suy yếu đang mất dần thế lực ở vùng quê. Trên đường đi xuống Nam, Chu Tuấn ghé qua quận nhà, mộ thêm một số quân bản hộ, thêm vào số 5.000 của triều đình. Ông chia quân ra làm 2 đạo, tiến theo 2 đường. Ông lại phái những sứ giả đi trước đến tiếp xúc, nói chuyện với loạn quân và tìm hiểu tình hình. Khi tới nơi, ông tập hợp những thành phần Hán lại, rồi tấn công quân nổi loạn. Lương Long bị bắt và bị chặt đầu. Tình hình được yên. Chu Tuấn là vị tướng có tài, nhưng hoà bình mà ông lập lại không được lâu, không quá thời gian ông trú đóng ở miền Nam. Ba năm sau, năm 184, những quân sĩ đi khẩn hoang lại về hùa với loạn quân nổi dậy và giết Thứ Sử Chu Ngung. Tình hình được chép như sau :
Giao Chỉ có nhiều đồ hiếm mà quý. Từ đầu đến cuối, các Thứ Sử đều vơ vét được nhũng tài sản khổng lồ. Các quan chức và dân chúng uất hận nên nổi loạn.
Chuyện này cũng không mới ở Giao Chỉ. Tham ô và áp bức đã là lẽ thường của chính quyền Hán ngay từ đầu. Tuy nhiên, điều mới chính là những lực lượng địa phương bấy giờ đang thử sức mình và thành công đối với những quan chức mà dân ghét. Cuộc nổi dậy này duy nhất có liên quan trực tiếp đến các binh sĩ đi khai hoang ở miền Nam. Nhũng người này có lẽ là ở Thương Ngô, nơi có dinh Thứ Sử.
Các đường lối hoà giải không còn hiệu quả nữa. Triều đình lại bổ nhiệm Cổ Tông, người có tiếng thanh liêm, lảm Thứ Sử Giao Chỉ Bộ. Khi đến nhiệm sở, Cổ Tông phát hành một tờ bố cáo ghi 5 điều sau đây: 1) tất cả mọi người đều được quyền làm ăn trong thái bình; 2) những người vô gia cư và lưu lạc sẽ được đón nhận và chăm sóc; 3) thuế sẽ được miễn cho những ai gặp khó khăn; 4) những kẻ ác ôn và bóc lột sẽ bị chém đầu; 5) người lương thiện sẽ được lựa chọn, bổ nhiệm làm quan chúc.
Với chính sách ấy, hoà bình đã được nhanh chóng lập lại. Nếu như tiểu sử sau này của Cổ Tông là đúng, dân chúng có bài ca tụng ông như sau:
Cha Cổ dến muộn nên chúng con phải nổi dậy.
Giờ đây đã thấy người tốt và được sống yên ổn.
Chúng con không dám phản bội một người bạn.
Tiếng tăm Cổ Tông là một nhà cai trị nhân từ tùy thuộc một phần lớn vào tâm lý lịch sử, thường gán tất cả những đức tính của một quan chức tốt cho ai thành công trong việc thâu được thuế và giữ được trật tự trong địa hạt thẩm quyền. Nhìn vào mặt trái của những gì gọi là hùng hồn trong những việc ông làm, có thể bảo là ông đã giảm thuế, và giết bọn nổi dậy để vãn hồi trật tự. Đây là một phương pháp bình định thông thường. Nhưng đức tính cá nhân của ông là một yếu tố. Những ý định của ông là làm sao vãn hồi hành chánh quận và huyện, có nghĩa là làm sao thu thuế được bình thường. Bằng cách diệt hết các hành động tham ô sách nhiễu và thu thuế không chính đáng, có thể ông đã nổi tiếng theo như nói trong bài ca trên. Nhưng khi làm như vậy, chính ông cũng khiến cho việc thâu các thuế hợp lý được dễ dãi hơn. Theo ông Goto Kimpei, Cổ Tông nổi tiếng nhờ sự thành công thu được thuế ở Giao Chỉ và đó là một bực thang để sự nghiệp ông được thăng tiến. Sau 3 năm, ông được thăng lên chức vụ cao hơn trên miền Bắc. Không phải là không thể có chuyện những thành tích của ông được bịa đặt ra cho ông được thăng chức. Chúng ta có thể cho rằng những chánh sách và hệ thống kiểm soát của quận, huyện đều được ghi rõ trong những nguồn tài liệu.
Thành công của Cổ Tông ở Giao Chỉ là nhờ chánh sách tạo ra cho dân tham gia nhiều hơn vào vào công việc chính quyền. Chính sách lựa chọn và tuyển mộ quan chức từ những người trong các gia đình địa phương chắc chắn đã là niềm vui cho những người di cư có học và có khả năng lãnh đạo. Theo các tài liệu của Việt Nam, Cổ Tông được kế vị bởi một nguời ở địa phương là Lý Tiến làm Thứ Sử. Tài liệu đã thuật lại 1 tờ tâu của Lý Tiến về triều, xin bổ nhiệm thêm nhiều người miền Nam nữa vào các chức vụ ở khắp nơi trong nước. Và tờ tâu cũng nói đến những chuyện về 2 ngưòi con của 1 gia đình ở Giao Chỉ đã nổi tiếng tại triều Hán.
Chuyện về Lý Tiến đáng nghi ngờ vì không thấy nói đến trong các sử liệu Trung Quốc. Hơn nữa, việc ấy đi ngược lại chính sách của triều đình là không bổ nhiệm người địa phương cai trị địa phương mình. Tuy nhiên, chính quyền Hán ở Giao Chỉ trong phần tư cuối thế kỷ 2 không có một nền hành chánh biên chế hẳn hoi, nên do chính sách của Cổ Tông đề nghị tuyển chọn quan chức ở ngay nơi các gia đình địa phương, và cũng do triều đình muốn duy trì sự ổn định, một người địa phương có lẽ đã được bổ nhiệm làm Thứ Sử.
Dù sao, vào những năm cuối thập niên 180, ảnh hưởng của Hán ở Giao Chỉ phần lớn là hư danh. Đến khi huyện Tượng Lâm trở thành trung tâm của Vương Quốc Lâm Ấp độc lập năm 192, những cấp thẩm quyền ở Bắc đã điều hành mọi việc qua quyền hành của gia đình họ Sĩ. Nhà Hậu Hán đã lập lại được trật tự ở miền Nam và tình hình được hết sức ổn định. Trong khi gia đình họ Sĩ, tuy được coi như là một sắc thái của nền chính trị Trung Quốc, trên thực tế đi theo truyền thống hùng mạnh của thế giới vùng biển Đông Nam Á, mà trong đó, Lâm Ấp là một thí dụ điển hình.
Sự phồn thịnh của Giao Chỉ Bộ dưới thời họ Sĩ, một phần là do vị trí của gia đình ấy nằm ở vùng biên giới gần biển ở phía Nam Trung Quốc. Nhờ đó, họ có được một sức mạnh kinh tế hậu thuẫn cho vị trí chính trị của họ khiến họ có thể đối phó hữu hiệu được với tình hình thay đổi nhanh chóng ở phía Bắc. Giai cấp dân lai Hán-Việt bắt đầu có kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực chính trị qua những cuộc nổi loạn trong thế kỷ 2. Trong lúc quyền hành nhà Hán biến dần đi, lớp người này đứng ra đảm đương chuyện thống trị, và dưới sự lãnh đạo của gia đình họ Sĩ, đã thành lập một trung tâm chính trị vững chắc tại miền Bắc Việt Nam. Những người Hán di cư thuộc lớp thượng lưu vẫn công nhận chính thức nền văn minh Trung Quốc, nhất là qua việc họ dùng những sách giáo khoa Trung Quốc để dạy dỗ con cái. Nhưng nói chung, xã hội lai Hán-Việt đã hướng theo những ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Độ đến từ đường biển. Cho nên, vào cuối thế kỷ 2, nền văn minh Ấn Độ trở thành một thay đổi khả quan hơn ảnh huởng Hán đang tàn tạ; tác động sự hưng thịnh của Vương Quyền Lâm Ấp và Phật Giáo Việt Nam.
Kết quả và vinh quang của xã hội Việt Nam chính là thời đại Sĩ Nhiếp. Vì trong suốt 40 năm, những đại gia đình Hán-Việt đều được sống không bị ngoại bang kiểm soát. Điều ấy đã trở thành một thời đại đáng ghi nhớ trong sự hình thành nền văn minh Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét