Thứ Ba, 31 tháng 8, 2010

TỌA ĐÀM BÀN TRÒN VỀ HÌNH THÁI CỦA 9 CÂY LÚA MỌC TỪ NHỮNG HẠT THÓC LẤY TỪ HỐ KHAI QUẬT THÀNH DỀN 2010

Sáng nay tại Hội trường của Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, các nhà khoa học thuộc các ngành Nông học và Khảo cổ học, Cổ nhân học đã báo cáo một số kết quả nghiên cứu khoa học bước đầu về hình thái của 9 cây lúa mọc từ những hạt thóc thu thập (đợt 1 đầu tháng 5 năm 2010) từ hố khai quật địa điểm Thành Dền. Ba cây lúa mọc từ những hạt thóc thu thập đợt 3 (13.6.2010) do chưa làm đòng nên đang được theo dõi và sẽ được báo cáo sau.

Đại đa số các nhà khoa học tham gia buổi tọa đàm sau khi nghe ba báo cáo về khảo cổ và về nghiên cứu quá trình sinh trưởng, phân tích sinh học... đều đánh giá cao những nỗ lực nghiên cứu và thái độ khoa học nghiêm túc của các nhà khảo cổ và các nhà nghiên cứu của Viện Di truyền và cho rằng đây là vấn đề khoa học phức tạp và có tác động lớn tới cộng đồng. Nhiều nhà nghiên cứu cũng thẳng thắn nêu ra một số điều kiện khách quan và chủ quan có thể có tác động không tốt đến quá trình lấy mẫu của các nhà khảo cổ hay quá trình tiến hành gieo trồng thực nghiệm.

Những phương pháp nghiên cứu áp dụng cho tới nay là rất đúng hướng và đảm bảo tính xác đáng về khoa học, tuy nhiên nên ứng dụng thêm những phương pháp mới và nghiên cứu trên diện rộng và sâu hơn.

Đây là dịp hiếm hoi để những chuyên gia từ các ngành khoa học khác nhau ngồi lại bàn về một vấn đề khoa học rất thiết thực đối với một nước có nền nông nghiệp lúa nước lâu đời như Việt Nam. Nhiều nhà khoa học về lúa cho rằng cần chung tay xây dựng một ngành khảo cổ học nông nghiệp và những dấu tích thóc, gạo thu thập được từ các địa điểm khảo cổ học nói chung và từ Thành Dền nói riêng phải được quan tâm nghiên cứu một cách chuyên nghiệp, bài bản.

Các nhà khoa học cho rằng nên gọi tên là lúa Thành Dền!

Các nhà khoa học cũng nhất trí  đưa ra kết luận nghiên cứu ban đầu về hình thái 9 cây lúa Thành Dền và định hướng nghiên cứu trong tương lai.

KẾT LUẬN BUỔI TỌA ĐÀM BÀN TRÒN VỀ LÚA TỪ HẠT THÓC KHAI QUẬT TẠI THÀNH DỀN 2010

1. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI CHO THẤY VỀ CƠ BẢN LÚA TỪ 10 HẠT THÓC NẢY MẦM ĐỢT I KHAI QUẬT Ở THÀNH DỀN GIỐNG VỚI LÚA HIỆN ĐẠI (KHANG DÂN 18).
2. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH AND BẰNG CHỈ THỊ SSR VỚI 50 CẶP MỒI KHÔNG CHO THẤY SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI CÂY LÚA THÀNH DỀN ĐẠI DIỆN (SỐ 1 VÀ SỐ 8)* VỚI CÂY LÚA KHANG DÂN 18.
3. CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐỀ NGHỊ TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CÁC KHÍA CẠNH SAU:

i. Phân tích một số chỉ tiêu sinh hóa, sinh lý, hình thái của các dòng lúa Thành Dền
ii. Phân tích AND tất cả các dòng lúa Thành Dền
iii. Khớp với kết quả phân tích AMS từ Nhật Bản để có kết luận cuối cùng
iv. Khảo nghiệm DUS
v. Nghiên cứu khả năng kết hợp của các cây lúa Thành Dền

4. XÂY DỰNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU LIÊN NGÀNH (CẤP BỘ HOẶC CẤP NHÀ NƯỚC) ĐỂ KHAI QUẬT MỚI, THU THẬP THÊM MẪU LÚA THÀNH DỀN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LÚA CỔ CỦA VIỆT NAM.


* Theo TS. Phạm Xuân Hội (Viện Di truyền NN), chọn hai cây số 1 và số 8 đại diện vì về hình thái 2 cây này giống với lúa Khang Dân 18 nhất.

Một số hình ảnh của buổi tọa đàm
Hình ảnh của 9 cây lúa Thành Dền (TD) và những cây lúa trông đối chứng


TS. Phạm Xuân Hội thay mặt nhóm nghiên cứu của Viện Di truyền trình bày báo cáo về quá trình sinh trưởng  và đánh giá các cá thể lúa Thành Dền


Các nhà khoa học tranh luận về khả năng lẫn mẫu có thể xảy ra

Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2010

Hội chứng "NBC"

Viết chuyên đề giả nợ cho bác Tín mà chả nghĩ ra được ý tứ gì, chán quá, bật VTV1 ngó, trúng ngay chương trình Lễ Chào mừng GS. Ngô Bảo Châu!

Sân khấu hoành tráng vì có công ty SABECO  tài trợ. He he, trông mặt GS.NBC không rõ có làm nổi 1 lon 333 không? Hic, Lễ chào mừng GS Toán học mà lại có sự tham gia của công ty Bia rượu.  Khéo lại say cả chấy!

Bài nói của Thủ tướng dài lê thê, mà sao Thủ tướng lại đi kể lể tiểu sử của GS. NBC nhỉ, lại còn tỏ ra xúc động vì GS.NBC cùng gia đình đã đi viếng lăng Bác. Công nhận, TT nước mình quá giỏi chuyện gì cũng biết, cũng làm. Lại nhớ lời các cụ "Một người lo bằng kho người làm"!

Giọng của ông Bộ trưởng Bộ GD như hết hơi! Mà khổ ghê cơ, GS.NBC được giải  Fields có liên quan gì đến chuyện mừng thành công của đại hội Đảng sắp tới và các loại lễ kỷ niệm đầy rẫy ở Việt Nam hiện nay? 

Bài nói của GS. Ngô Bảo Châu rất hay, chỉ tội giọng mệt mỏi quá. GS có ý gì khi cứ nhắc đi nhắc lại "Môi trường khoa học lành mạnh" nhỉ, chả biết TT, PTT và BT ngồi dưới có hiểu thông điệp này của GS. Ngô Bảo Châu không?

Mình vô cùng ngưỡng mộ GS. Ngô Bảo Châu, nhưng cũng vô cùng kinh hãi kiểu "thấy người sang bắt quàng làm họ" như thế này.

Thứ Sáu, 27 tháng 8, 2010

Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ trong ký ức hai người con

Trang the Ridculous

Ở Việt Nam ta lâu nay, thường thường khi người nổi tiếng vừa nằm xuống, những tri âm tri kỷ của họ bỗng từ đâu xuất hiện đông như nấm mọc sau mưa. Sinh thời Trịnh Công Sơn có vẻ cũng kín tiếng với báo giới, người ta không biết đến nhiều bạn thân của ông, ngoại trừ vài người đồng hương và chắc chắn có mối thâm giao với ông từ rất lâu như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tuy thế sau khi ông qua đời, rất nhiều người quen của ông đã lên tiếng, trong số đó không ít người tỏ ra thân thiết với Trịnh Công Sơn.

Trước Trịnh Công Sơn 13 năm, chuyện tương tự cũng xảy ra sau cái chết của vợ chồng thi sĩ Xuân Quỳnh và nhà biên kịch Lưu Quang Vũ. Gần đây người con trai đầu của Xuân Quỳnh có lần bảo tôi: “Hồi ấy có những vị, ngày còn mẹ anh với chú Vũ, không qua nhà anh lấy một lần, không cho anh được cái kẹo, thậm chí anh không hề biết mặt biết tên; thế mà mẹ anh với chú vừa mất thì vị ấy lên báo kể đủ chuyện, cứ như là thân với Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ lắm ấy”. Theo chỗ tôi biết thì sau này có vị còn thủ thỉ cả chuyện chăn gối của Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ cho nhà báo.

Ngoài nhận thân trên mặt báo, còn một “thể loại” nữa là nói xấu, có thể trên báo hoặc chỉ là rỉ tai bên ngoài. Tôi cũng từng nghe không ít lời kể xấu kiểu này về người đã khuất, có khi cay độc như “bà Quỳnh dại trai, cum cúp gọt cam cho bồ”, hay chỉ rất hồn nhiên: “Bà Xuân Quỳnh ấy, từ thời còn bao cấp bà ấy đã loẹt quoẹt cái váy trắng đi đi lại lại trong sân khu tập thể rồi”. (Câu này chắc giống nói xấu hơn là có ý khen “bà Quỳnh” mặc váy đẹp.)

Nói chung thì tất cả các hình thức – nhận tri âm tri kỷ với người đã khuất, nói xấu họ, hay ngược lại, “bơm thổi” họ lên tầm vĩ đại - đều là bóp méo sự thực. Công chúng là người ngoài chỉ biết nghe, nhận được bao nhiêu hạt sự thật thì nhận.

Về phần mình, tôi cũng chẳng biết gì nhiều về cuộc đời, sự nghiệp và tính cách nhà thơ Xuân Quỳnh và nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Tuy vậy, qua cuộc phỏng vấn với người con trai cả của cặp vợ chồng nghệ sĩ bạc mệnh Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, tôi có niềm tin rằng người con như thế chắc chắn phải có một người mẹ tuyệt vời. Anh đã cho tôi thấy rất rõ một điều: Văn hóa ở một con người là những gì đọng lại ngay cả sau khi người đó đã mất đi.



++++++++++


XUÂN QUỲNH - LƯU QUANG VŨ TRONG KÝ ỨC HAI NGƯỜI CON


(bài viết nhân 20 năm ngày mất của thi sĩ Xuân Quỳnh và nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ, 29/8/1988 - 29/8/2008)

20 năm trôi qua không đủ để xóa hết nỗi đau trong lòng những người ở lại mỗi khi nhớ về đôi vợ chồng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ. Điều ấy càng hằn rõ với hai người con Lưu Tuấn Anh và Lưu Minh Vũ.

Lâu nay, cả Tuấn Anh và Minh Vũ đều không muốn nhắc lại chuyện của 20 năm về trước. Nhưng trong những ngày này, hai anh đã mở lòng để kể lại cho chúng tôi nghe về ký ức của “một thời rất đẹp”, trước ngày định mệnh 29 tháng 8 năm 1988.

Lưu Tuấn Anh là con trai của nhà thơ Xuân Quỳnh và người chồng trước của bà - nghệ sĩ violin Lưu Tuấn. Anh sinh năm 1966, lớn tuổi nhất trong ba người con trai của gia đình. Hiện anh là giám đốc kinh doanh của một công ty thiết kế đồ họa - in ấn - quảng cáo ở Hà Nội.

Lưu Minh Vũ (sinh năm 1970) có phần nổi tiếng hơn, anh là biên tập viên của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam, cũng là MC chương trình Hãy chọn giá đúng. Minh Vũ là con của nhà biên kịch Lưu Quang Vũ và người vợ trước - diễn viên Tố Uyên.

Thời thơ ấu, họ cùng sống ở 96A phố Huế (Hà Nội), tập thể của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật. Minh Vũ ở cùng mẹ và bố dượng tại tầng hai. Tuấn Anh và bố ở tầng bốn. Còn Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ và con trai chung của hai người - Lưu Quỳnh Thơ (sinh năm 1975) - thì ở tầng ba. Tuy nhiên, ba anh em cực kỳ thân thiết, không khác nào anh em ruột thịt. Như Lưu Minh Vũ có nói, thời gian anh sống với “má Quỳnh” nhiều hơn thời gian anh sống với "mẹ Uyên". Nói về thời thơ ấu, anh có nhiều kỷ niệm với má Quỳnh hơn là với mẹ. Do nghệ sĩ Tố Uyên thường phải đi xa, bận bịu với công việc diễn xuất, việc chăm sóc Minh Vũ gần như do Xuân Quỳnh đảm nhận.

Ký ức thời thơ ấu của cả Tuấn Anh và Minh Vũ đều tràn ngập hình ảnh một gia đình hạnh phúc: Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh và ba con trai. Cả ba anh em cũng đã là khuôn mẫu ngoài đời cho rất nhiều nhân vật trong các truyện ngắn dành cho thiếu nhi của nhà thơ Xuân Quỳnh.


* * *

Lưu Minh Vũ: “Tại sao cuộc sống ngày ấy có thể thanh bình đến thế?”

Hồi ấy chúng tôi ở chung một tập thể với nhiều văn nghệ sĩ, như Nguyễn Văn Tý, Phan Huỳnh Điểu, Ngô Huỳnh… Ba anh em không cùng cha mẹ, đúng là một trường hợp điển hình “con anh, con tôi, con chúng ta” đấy, nhưng chúng tôi thân nhau như anh em ruột, do được dạy dỗ rất kỹ. Bố và má luôn giáo dục các con phải nhường nhịn, không được đánh nhau.

Ngày ấy cả xã hội đều nghèo, văn nghệ sĩ cũng vậy, vất vả lắm. Cũng phải tem phiếu, xếp hàng như ai. Bố tôi làm phóng viên cho tạp chí Sân Khấu, do không có bằng cấp gì nên xét theo bậc thì lương của ông chỉ hơn lao công. Thời gian đầu, ông còn không có lương, chỉ có nhuận bút. Sống bằng nhuận bút thì cực lắm, vì có phải lúc nào cũng viết ra bài đều chằn chặn như đan rổ đâu. Nhưng cũng thời gian làm phóng viên ấy khiến ông quen nhiều nghệ sĩ sân khấu và hiểu họ, hiểu tính cách, điệu bộ, kỹ thuật diễn và nói chung là cái “chất” của họ. Sau này, khi viết kịch, có những vở ông viết theo đơn đặt hàng, và các nhân vật gần như được ông thiết kế dành riêng cho một diễn viên nào đấy. Tôi lấy ví dụ như vai ông Quých trong "Tôi và chúng ta", ông viết gần như chỉ để cho diễn viên Trần Kiếm đóng. Sau này, không diễn viên nào thể hiện được cái chất Quých ấy nữa, vai đó đã được đo ni đóng giày cho Trần Kiếm rồi.

Nói riêng về vật chất thì chúng tôi đã sống một thời kỳ khó khăn, trong cái khó khăn chung của đất nước. Bữa cơm thường có những món rất “kinh điển” như lạc, nhộng. Có thịt thì quý lắm lắm. Về sau, bố tôi bắt đầu sáng tác kịch và nổi tiếng, cuộc sống khá hẳn lên. Thỉnh thoảng cả gia đình lại đưa nhau đi ăn tươi.

Bố tôi tính rộng rãi, thoáng đạt, thậm chí bốc đồng. Nhiều khi má nấu cơm rồi, thức ăn có rồi, nhưng ông lại hứng chí đi mua ít thịt gà cho con. Nhìn các con ăn là bố thấy hạnh phúc. Tôi nhớ mãi cái ngày ba anh em được đưa ra bến Phà Đen chơi. Hôm đó bố tôi vừa lĩnh một khoản nhuận bút lớn, khao cả nhà một bữa thịt chó ở phố Lê Quý Đôn. Tôi cầm nguyên cái đùi mà ăn, sung sướng lắm. Cả ba đứa đều sung sướng. Chi tiết xuống bến Phà Đen chơi được má tôi đưa vào truyện ngắn nổi tiếng của bà, “Bến tàu trong thành phố”. Nhân vật Trung Hà và Hưng là anh Tuấn Anh và tôi.

Bố má tôi thương con vô cùng, không bao giờ đánh con dù chỉ một lần. Bác Tuấn (nghệ sĩ violin Lưu Tuấn, bố đẻ Tuấn Anh - NV) cũng yêu quý thằng Mí (tên thân mật của Lưu Quỳnh Thơ - NV), coi nó như con ruột.

Bây giờ nghĩ lại, đó là khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi. Tại sao ngày ấy cuộc sống lại có thể thanh bình đến thế? Yên ấm, đầy đủ, rất đầy đủ, không phải về vật chất mà là về tình cảm. Đùng một cái, việc dữ xảy ra. Bố má tôi và Mí đi chơi xa… rồi không bao giờ trở về nữa.

Tôi còn nhớ mấy ngày ấy trời Hà Nội cũng mưa nhiều. Tôi vừa có tin đỗ đại học (Minh Vũ học chuyên ngành quay phim, Đại học Sân khấu Điện ảnh - NV) với tổng điểm cao nhất trường, có chỉ tiêu du học. Bố, má và em đi chơi, tôi ở Hà Nội cũng đi chơi suốt ngày, vui lắm.

Tin báo về, tôi không hề biết vì lúc đó có ở nhà đâu. Buổi chiều tôi đi bộ ngang qua nhà diễn viên Kim Oanh ở phố Trần Nhân Tông, thấy cô Oanh chạy ra hốt hoảng hỏi: “Bố có bị làm sao không cháu?”. “Không, cháu chả biết”. Một cái gì đó như linh tính nổi lên, tôi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Nghe loáng thoáng có tiếng người bên đường bảo: “Thằng Kít (tên thân mật của Minh Vũ - NV) nó về rồi kia kìa”.

Tới nhà, tôi được báo tin bố má và em bị tai nạn, mà cũng chưa biết là cả ba đã mất. Tôi đòi xuống Hải Dương thăm, người nhà giữ lại không cho đi, ấn tôi ngồi xuống, bảo: “Kít ngồi đây. Không đi đâu cả!”. Lúc đó tôi mang máng hiểu. Từ phút ấy, tôi không nhớ gì nữa. Cả một cơn mê. Một cơn ác mộng.

Cuộc đời tôi thay đổi từ đó. Sau cái tang lớn, cả tôi và anh Tuấn Anh đều sa vào khủng hoảng. Ai cũng khuyên bảo tôi cố gắng lên, vực dậy đi, vươn lên mà sống, nhưng nghĩ lại, lúc đó tôi biết vươn lên kiểu gì? Cú sốc quá lớn.

Trước ngày ấy, cuộc sống của tôi như thể thiên đường. 18 tuổi, chuẩn bị đi học nước ngoài, bao nhiêu ước mơ sắp thực hiện – du học, trở thành nhà quay phim. Đời đẹp lắm. Thế rồi hẫng một cái. Tôi vẫn đi Nga, rồi sang Đức học, nhưng bị cảm giác chán chường đè nặng. Chán đến không chịu nổi. Được bốn năm, tức là đến năm 1993, tôi bỏ dở, quay về Việt Nam. Tôi không theo nghề quay phim nữa, chuyển sang học báo chí. Năm 1997, tôi ra trường và vào công tác tại Đài Truyền hình Việt Nam cho đến nay.

Nếu không có sự cố đó, chắc chắn cuộc đời tôi đã khác rất nhiều. Biết đâu tôi có thể ở lại nước ngoài chẳng hạn? Hay là tôi sẽ làm nghề khác chứ không làm MC và biên tập viên truyền hình. Điều chắc chắn là từ sau cú sốc ấy, tôi thay đổi nhiều về tính cách. Tôi không còn hồn nhiên và yêu đời được như xưa.

Đồng nghiệp có người bảo tôi lên hình trông buồn, ít cười quá. Không hiểu có phải mặt tôi đã buồn từ hồi bố má và em mất không. Cũng có thể do tôi không thích vừa nói vừa cười khi dẫn chương trình. Có lý do gì để cười nhỉ? Phụ nữ cười để cho xinh, chứ mình cười thì làm gì?

Bây giờ, tôi vẫn thỉnh thoảng mơ tới những ngày thơ ấu. Tôi mơ thấy bố, má tôi, thấy ngôi nhà 96A phố Huế. Tôi đã lấy vợ, sinh con, chuyển đến nhà mới 10 năm rồi, nhưng không một lần mơ thấy nhà mới. Tôi chỉ mơ thấy tập thể 96A phố Huế và ký ức thời xa xưa của tôi, lẫn lộn, mơ hồ, như một đám mây.


Lưu Tuấn Anh: “Mẹ mãi là người phụ nữ tuyệt vời nhất”

Tuổi thơ của tôi không thể gọi là yên bình vì tôi đã nghe tiếng bom gầm ở Hà Nội năm 1972, phải đi sơ tán và rồi chứng kiến bố mẹ tôi chia ly. Nhưng tôi lại không phải xa mẹ chút nào. Ngược lại, tôi có một gia đình thứ hai - gia đình mẹ và bố dượng tôi.

Tôi đã có những ngày thật đầm ấm bên mẹ, chú Vũ và các em. Tôi vẫn nhớ như in cái không khí của một gia đình tràn đầy tình yêu thương và nghệ thuật. Tôi nhớ ánh mắt mẹ và chú Vũ trìu mến khi thấy các con sum vầy. Tôi nhớ căn phòng của mẹ và bố dượng đầy sách, các bản thảo và các bức vẽ trên tường. Những bữa ăn có đủ cả nhà thì chẳng bao giờ thiếu chuyện, dẫu chỉ là cơm rau.

Còn những buổi tối cả nhà đi xem kịch của chú Vũ nữa, sao mà vui thế. Anh em chúng tôi luôn ríu rít bên nhau mặc dù không cùng cha cùng mẹ. Minh Vũ hồi đó béo tròn và rất thích chơi những trò tai quái. Tôi cũng nghịch ngợm chẳng kém, nhưng ít nói và lầm lì hơn.

Em trai út Lưu Quỳnh Thơ có tên ở nhà là Mí. Mí dễ thương lắm; da trắng, môi đỏ, mắt to mà tóc để dài như con gái. Mí rất thông minh, học cái gì cũng giỏi và nhanh tới mức kinh ngạc. Ở trường, nó thường ở trong nhóm 5 học sinh đứng đầu lớp.

Mí có năng khiếu bẩm sinh về hội họa. Trẻ ba tuổi thường cầm bút chưa vững, thế mà Mí đã vẽ thành thạo bằng cả bút chì lẫn màu nước. Ba tuổi rưỡi, nó được giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi vẽ quốc tế do UNESCO tổ chức với chủ đề “Năm 2000 em sống như thế nào”. Nó vẽ một cậu bé cưỡi ngựa đang bồng bềnh trong một vườn hoa trông như cái hồ sen. Bức tranh ấy bây giờ Minh Vũ vẫn giữ. Trong số các cuốn thơ “Bầu trời trong quả trứng” của mẹ từng xuất bản, có một cuốn do Mí tự minh họa.

Mí ít tuổi như vậy nhưng nó sống tình cảm và và rất biết quan tâm tới bố mẹ và các anh. Hồi đó nhà tập thể tôi chỉ có nước máy ở tầng một. Tôi và Minh Vũ có nhiệm vụ xách nước lên tầng ba cho mẹ nấu cơm và rửa bát. Mí mới 10 tuổi không phải làm việc nặng nhưng lại tự xung phong xách nước cho mẹ. Nó thương mẹ, sợ mẹ phải xách nước khi các anh mải chơi mà không làm. Nghĩ lại cảnh Mí nhỏ vậy mà cố xách hai cái bình nước bằng nhựa lớn đi lên cầu thang là tôi lại xót xa.

Hồi đó, tôi còn trẻ con, rất vô tư, ham chơi và chẳng nghĩ gì nhiều về gia đình. Tôi thấy mọi người khen mẹ làm thơ hay nhưng chẳng bao giờ đọc kỹ một bài thơ của mẹ. Điều quan trọng nhất với tôi là được mẹ thương yêu, còn thơ của mẹ ra sao thì chẳng phải chuyện tôi quan tâm. Tôi được bao bọc trong tình thương của mẹ và gia đình.

Với niềm tin của một đứa trẻ, tôi cứ nghĩ những ngày đầm ấm đó sẽ kéo dài mãi. Thế rồi cái ngày 29 tháng 8 định mệnh đó đến, thế giới quanh tôi sụp đổ hoàn toàn. Bỗng chốc tôi không còn mẹ, không còn bố dượng và không còn đứa em út. Lúc đó tôi mới hiểu rằng chẳng có điều gì trên đời này là vĩnh cửu, kể cả người thân và những niềm hạnh phúc.

Tôi khi đó đã tốt nghiệp đại học và đang làm biên tập viên cho Thông tấn xã Việt Nam. Mang tiếng là người lớn và đã đi làm, nhưng tôi vẫn còn quá trẻ con để chịu đựng một sự mất mát nghiệt ngã như vậy. Sau cái ngày đó, tôi ốm và suy sụp hoàn toàn. Tôi thay đổi hẳn và không còn là tôi trước đó nữa. Sự vô tư trong con người tôi biến mất, thay vào đó là sự suy tư và bất cần. Mọi thứ với tôi đều trở nên trống rỗng và vô nghĩa. Lần đầu tiên trong đời, tôi đặt câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người.

Tôi ngơ ngác tự hỏi: “Cuộc sống tại sao lại bất công như vậy? Tại sao những người, tài năng, nhân hậu và có ích cho đời lại phải chết? Vậy thì ta phấn đấu vì những điều tốt đẹp để làm gì? Mất bao nhiêu năm tháng để một ngày lại ra đi vô lý như thế ư? Em Mí của tôi chỉ là một đứa trẻ. Nó có tội tình gì? Nó ngoan hiền thế mà trời nỡ lòng nào bắt nó đi?”.

Mất nhiều tháng sau, tôi sống trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh với những ý nghĩ luẩn quẩn và bi quan. Tôi nghỉ làm, ở nhà giở thơ của mẹ và bố dượng và đọc từng bài. Đọc bằng hết, điều trước đây tôi chưa từng làm. Lúc đó tôi mới thực hiểu mẹ hiểu bố dượng và sự lớn lao trong tâm hồn của cả hai người. Mỗi lần đọc thơ là một lần tôi khóc. Tôi trách mình vô tâm với mẹ và chú Vũ quá và thật khó để tự tha thứ. Rồi sau bao dằn vặt, cũng đến lúc tôi tự nhủ mình: “Nếu mẹ, chú Vũ và em Mí còn sống, chắc chắn không ai muốn thấy mình chán nản và mất niềm tin như thế này”.

Vậy là tôi bắt đầu dùng lý trí để lấy lại thăng bằng. Tôi cố gắng sống vì mẹ tôi, bố dượng tôi, và em Mí. Tôi cố gắng sống vì những người thân yêu còn lại của tôi, trong đó có Minh Vũ - người bây giờ với tôi còn hơn em ruột. Tôi phục hồi dần dần.

Trong con mắt tôi, mẹ là một người phụ nữ vẹn toàn. Ngoài tài năng thơ, cho tới giờ mẹ tôi luôn là một hình mẫu sống cho tôi về lòng nhân ái và các giá trị làm người. Ngay từ những năm tôi còn rất bé, tôi đã nghe mẹ nói về trách nhiệm của người viết văn đối với xã hội. Mẹ nói với tôi rằng cuộc sống có cái thiện và cũng có nhiều cái ác. Nhưng mẹ chỉ viết về cái thiện mà tránh nói nhiều tới những điều xấu xa của cuộc sống.

Mẹ bảo tôi, một tác phẩm tốt phải khiến người đọc yêu và trân trọng cuộc sống hơn, hướng thiện hơn. Nếu đề cập quá nhiều tới những điều tiêu cực, kể cả đó là sự thật, nhà văn có thể làm người đọc mất niềm tin và nhìn đời một cách méo mó. Những truyện thiếu nhi của mẹ tôi thường có bóng dáng của ba anh em, như “Quà tặng chú hề” là về cu Mí đấy. Truyện nào cũng hướng tới giáo dục cho thiếu nhi tình yêu thương, bắt đầu từ yêu thương những người gần gũi nhất của các em trong gia đình là ông bà, bố mẹ hay anh em rồi tới bạn bè, hàng xóm, thầy cô giáo.

Thơ của mẹ tôi cũng phản ánh con người bà. Nó trong sáng, dung dị và chan chứa tình thương, tình yêu thiên nhiên, con người. Các bài thơ của mẹ có thể buồn nhưng không u ám, không bao giờ cay đắng và oán trách. Mẹ tôi là thế, hy sinh nhiều, chịu thiệt thòi rất nhiều nhưng tấm lòng vẫn luôn rộng mở và bao dung. Bởi bà có một niềm tin đặc biệt mãnh liệt vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống và trong mỗi con người.

Thú thật, tôi không để ý nhiều tới ngôn từ trong các tác phẩm của mẹ hay số lượng tác phẩm. Tôi nghĩ cái quý giá hơn cả là những giá trị nhân văn mà mẹ tôi để lại trong các tác phẩm đó. Chưa nói tới tác động xã hội, mà những gì mẹ tôi viết ra có tác động ngay trong gia đình chúng tôi. Đọc truyện "Bến tàu trong thành phố", tôi suy nghĩ nhiều lắm. Tôi bắt đầu có ý thức làm anh rõ ràng hơn với các em và biết nhường nhịn các em hơn. Tôi hiểu qua câu chuyện ấy, mẹ tôi muốn anh em chúng tôi yêu mến và gắn bó với nhau.

Nói về chú Vũ thì phần nhiều công chúng biết chú ấy qua các vở kịch với tư cách là người viết kịch. Nhưng không phải ai cũng biết chú ấy là một nhà thơ tầm cỡ. Có một số người trong giới văn đánh giá chú là tài năng thơ lớn và thuộc loại hiếm. Tôi cho rằng họ nói như vậy là rất có cơ sở chứ không phóng đại. Vấn đề là thơ của chú Vũ kén độc giả và không phải ai đọc cũng hiểu. Có thể vì vậy mà nó không mang tính đại chúng cao. Để cảm nhận được thơ của chú ấy thì độc giả phải là người có nội tâm khá đặc biệt.

Tôi thích thơ của chú Vũ vì cái tính lạ lùng vừa phóng khoáng vừa sâu thẳm của nó. Bài thơ khiến tôi xúc động nhất và cũng ám ảnh tôi nhiều nhất là “Bài hát ấy vẫn còn là dang dở”. Đọc đi đọc lại, tôi có cảm giác nó dường như là linh cảm của chú Vũ về ngày từ biệt. Nó vừa da diết luyến tiếc cuộc sống quá ngắn ngủi vừa mang sự mãn nguyện của một người đã làm xong nhiều việc lớn.

"Nắng đã tắt dần trên lá im
Chiều đã xẫm màu xanh trong mắt tối
Đường đã hết trước biển cao vời vợi
Tay đã buông khi vừa dứt cung đàn
Gió đã dừng nơi cuối chót không gian
Mưa đã tạnh ở trong lòng đất thẳm
Người đã sống hết tận cùng năm tháng
Sau vô biên sẽ chỉ có vô biên..."

Chú Vũ ra đi khi đang sung sức sáng tác nhưng cũng đã kịp hoàn thành rất nhiều tác phẩm. Chú ấy đi trong mãn nguyện sau khi để lại cho đời rất nhiều, đúng như câu kết của bài thơ vậy: “Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt”.

20 năm qua rồi. Tất cả những gì gợi nhớ chuyện ngày ấy đều làm cho tôi buồn. Tôi tránh đọc thơ và không muốn xem kịch, vì sợ những kỷ niệm ngày xưa quay về. Tôi không theo nghề báo mà đi làm công tác nhân đạo rồi chuyển sang kinh doanh. Cái thế giới thực tế của kinh doanh phần nào giúp tôi vượt qua cảm xúc của mình và vững vàng trong thực tại.

Tôi cũng đã có có gia đình yên ấm riêng của mình với nhiều niềm vui mới. Mỗi lần gia đình tôi và gia đình Minh Vũ tới thăm nhau, anh em tôi ngồi ngắm lũ trẻ chơi đùa trong cái cảm giác được chia sẻ và bù đắp. Nhưng sự thật là dù 20 năm có trôi qua và tôi đã có quá nhiều thay đổi, nỗi đau vẫn không mất đi. Mãi mãi không mất.

(Bài viết năm 2008)
http://trangridiculous.blogspot.com/2010/08/xuan-quynh-luu-quang-vu-trong-ky-uc-hai.html

Nghi vấn “lúa cổ Thành Dền” là lúa Khang Dân





Những cây “lúa Thành Dền” sắp thu hoạch - Ảnh: Q.D

TS Phạm Xuân Hội - Trưởng bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền nông nghiệp) cho rằng về mặt hình thái và đặc điểm sinh trưởng, nhiều khả năng “lúa cổ Thành Dền” là lúa Khang Dân.
Nhưng để có câu trả lời chính xác 100% thì cần những nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt là các nghiên cứu ở mức độ dưới tế bào như nghiên cứu về ADN và sinh hóa.

Chưa thấy khác biệt nhiều với lúa đương đại




TS Phạm Xuân Hội - Ảnh: Q.D


Trả lời Thanh Niên chiều qua 27.8, TS Hội cho biết: “13 cây lúa đặc biệt nảy mầm từ những hạt thóc do các nhà khảo cổ tìm thấy tại các hố khai quật thuộc khu khảo cổ Thành Dền (H.Mê Linh, Hà Nội), được cho là có niên đại cách nay 3.000 năm đã được chúng tôi chăm sóc chu đáo, quan sát và ghi chép đầy đủ, chính xác về các đặc điểm hình thái và sinh trưởng. Đến nay, 3 cây gieo đợt sau cùng chưa trổ bông, 1 cây không làm đòng, còn lại 9 cây đã trổ bông và lúa đã chín, sắp cho thu hoạch. Đến thời điểm hiện tại, chúng tôi vẫn chưa phát hiện thấy bất cứ khác biệt nào từ những cây lúa được cho là rất đặc biệt này so với lúa đương đại. Cụ thể, về mặt thời gian sinh trưởng, “lúa cổ Thành Dền” có tuổi đời khoảng 100 ngày; các đặc điểm về mặt hình thái có bản lá to, màu xanh đậm...”.

Theo TS Phạm Xuân Hội, so với những giống lúa trồng đối chứng, “lúa cổ Thành Dền” có nhiều đặc điểm tương đồng với lúa Khang Dân. Tuy nhiên vẫn có một số điểm tương đối khác biệt về chiều cao cây, thời gian trổ bông, và thời gian sinh trưởng. Một số cây “lúa cổ Thành Dền” đẻ nhiều nhánh hơn, bông lúa lại dài hơn nên năng suất có thể sẽ cao hơn so với lúa Khang Dân.

TS Phạm Xuân Hội cho rằng, những số liệu trên đây chỉ mang tính tương đối vì chưa có số liệu thống kê, thêm vào đó thí nghiệm gieo trồng “lúa cổ Thành Dền” và lúa đối chứng không cùng thời điểm nên không thể kiểm soát nghiêm ngặt được ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh.


Ngày 31.8 sẽ họp để đánh giá




Ông Nguyễn Trí Ngọc - Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN và PTNT) cho biết, lúa Khang Dân đã xuất hiện tại VN cách đây 18 năm. Hiện giống lúa này đang được bà con nông dân ở nhiều nơi gieo trồng.


* Thưa ông, các nhà khoa học có thể rút ra kết luận gì từ những đặc điểm hình thái nói trên của “lúa cổ”?


- Nếu xét về mặt hình thái, các nhà khoa học sẽ nhận định “lúa cổ” là lúa Khang Dân hiện đại, một giống lúa có nguồn gốc từ Trung Quốc, cho năng suất tương đối cao và hiện đang được bà con nông dân nước ta gieo cấy khá phổ biến. Dự kiến, ngày 31.8 này, khoảng 20 nhà khoa học, trong đó có 10 chuyên gia nông học, một số nhà khảo cổ và các nhà khoa học của Viện Di truyền nông nghiệp sẽ ngồi lại với nhau trong một cuộc tọa đàm bàn tròn để đánh giá về “tính cổ” của những cây “lúa Thành Dền”. Tuy nhiên, qua trao đổi với các chuyên gia đầu ngành về nông học, họ đều nghiêng về nhận định “lúa cổ” là lúa Khang Dân.

Ba cây lúa trồng đợt III (đợt sau cùng) (ảnh L.T.M.D)

* Trước đây, các nhà khoa học khẳng định phải dựa vào 62 chỉ tiêu về mặt hình thái, kết hợp với nhiều yếu tố khác trong đó có kết quả giám định niên đại những vỏ trấu lấy từ các “hạt thóc Thành Dền” thì mới có thể khẳng định chắc chắn đó có phải là hạt thóc 3.000 năm hay không. Bây giờ, mới chỉ dựa vào một số chỉ tiêu về hình thái, liệu câu trả lời đó là lúa Khang Dân đã hoàn toàn thuyết phục?

- Đúng là hiện nay chúng tôi mới chỉ đánh giá dựa trên một đặc điểm về hình thái của những cây lúa nảy mầm từ hạt thóc được tìm thấy dưới các hố khai quật ở Thành Dền. Tuy nhiên nếu có đánh giá đủ cả các chỉ tiêu hình thái thì tôi nghĩ là cũng khó có đột phá và vấn đề này không khó vì vậy nếu cần thiết sẽ hoàn thiện sớm. Các nhà khoa học nông nghiệp tham dự cuộc tọa đàm ngày 31.8 tới hầu hết là những chuyên gia về lúa chuyên nghiên cứu về mặt hình thái. Tuy nhiên, để có kết luận “tâm phục khẩu phục” thì phải có các nghiên cứu ở mức độ phân tử. Mặc dầu vậy, đến giờ phút này, cần phải khẳng định, khả năng “lúa Thành Dền” là “lúa cổ” là ít.

* Như vậy, theo ông thì vẫn rất cần những nghiên cứu sâu hơn để có thể đưa ra câu trả lời chính xác nhất về niên đại của những “hạt thóc Thành Dền”?


- Thực ra việc nghiên cứu về mặt hình thái cũng chưa có số liệu thống kê vì chúng ta mới chỉ làm 1 vụ lúa và tiến hành một cách bị động nên gieo hạt không cùng thời điểm. Vấn đề đưa ra quá hy hữu và vượt qua quan niệm, hiểu biết của con người, trong khi kết quả bước đầu nghiên cứu về hình thái và sinh trưởng thì lại không ủng hộ nên nếu có kết luận “lúa Thành Dền” không phải là “lúa cổ” thì cũng không phải là kết luận vội vàng. Tuy nhiên, nếu có nghiên cứu tiếp đặc điểm hình thái, sinh trưởng phát triển ở những vụ tiếp theo và đặc biệt là bổ sung các nghiên cứu bản chất ở mức độ dưới tế bào thì tôi cho cũng là hợp lý và phù hợp với bản chất của nghiên cứu khoa học.

* Liệu rằng chúng ta sẽ dừng các thí nghiệm về “lúa cổ” sau khi cuộc họp ngày 31.8 kết thúc?


- Tôi xin nhắc lại là, kết quả khảo nghiệm bước đầu ở Viện Di truyền hiện tại không ủng hộ điều mà tất cả chúng ta đang mong đợi: khẳng định “lúa Thành Dền” là “lúa cổ”. Và nếu đầu tư nghiên cứu tiếp thì khả năng cho ra kết quả “lúa Thành Dền” là “lúa cổ” không nhiều, nếu không muốn nói là cực ít. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra quá thời sự và quá quan trọng nếu như điều mong đợi của chúng ta là đúng. Vì vậy, việc có nghiên cứu tiếp hay không sẽ không phụ thuộc vào ý kiến của một cá nhân và thậm chí cả kết luận của cuộc tọa đàm sắp tới.

PGS - TS Lâm Thị Mỹ Dung, khoa Lịch sử (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), người trực tiếp chỉ đạo cuộc khai quật tại Thành Dền cho biết hiện vẫn đang chờ kết luận của các nhà khoa học nông nghiệp trong cuộc tọa đàm sắp tới liên quan đến “tính cổ” của những cây lúa nảy mầm từ hạt thóc được cho là có từ cách nay 3.000 năm. “Bây giờ, về mặt hình thái, ai cũng nói “lúa Thành Dền” giống lúa hiện đại, nhưng tôi nghĩ chưa thể đưa ra câu trả lời thuyết phục nhất rằng đó có phải là lúa ngày nay hay không. Về mặt khảo cổ chúng tôi vẫn chưa tìm thấy những yếu tố chủ quan và khách quan để hạt thóc ngày nay lẫn vào các hố khai quật. Chúng tôi vẫn đang chờ kết quả xác định AMS các mẫu hạt thóc từ Nhật Bản”, TS Dung nói.

Theo TS Dung, bà vẫn mong muốn tiếp tục thực hiện các nghiên cứu sâu hơn, cho đến nơi đến chốn và đưa ra kết luận thuyết phục nhất.

Quang Duẩn
(thực hiện)
http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/201035/20100828005304.aspx

Không chỉ mong muốn mà tôi cho rằng cần phải tiếp tục những nghiên cứu khoa học ở mức độ sâu hơn, hệ thống hơn. Tôi sẽ vẫn theo đuổi vấn đề này (dù biết sẽ có rất nhiều trở ngại, khó khăn về tinh thần và vật chất) cho tới khi có được những kết luận khoa học đa ngành xác đáng chứng minh TÍNH CỔ hay KHÔNG CỔ của những hạt thóc lấy từ tầng văn hóa khảo cổ Thành Dền!

Trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực giao lưu văn hoá và gìn giữ sự đa dạng văn hoá

Phan Hồng Giang

Sau một thời gian khá lâu tồn tại tương đối biệt lập với phần lớn thế giới bên ngoài, nhiều năm qua nước ta đã chủ động và tích cực tham gia vào tiến trình hội nhập quốc tế - từ các lĩnh vưc chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng... đến lĩnh vực giao lưu văn hóa và gìn giữ sự đa dạng văn hóa. Lĩnh vực liên quan đến văn hóa này ngày càng nhận được sự quan tâm của nhiều người. Đây là một chủ đề rộng lớn, bao gồm nhiều vấn đề từ quan điểm, chính sách đến các hoạt động cụ thể.Trong khuôn khổ một bài báo ngắn gọn, tôi chỉ xin phép đề cập sơ lược đến một số điểm chung quanh vấn đề trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực nói trên.

1. Ở vị thế dẫn dắt xã hội, nhà nước cần sử dụng mọi công cụ trong tay mình, từ giáo dục đến hệ thống truyền thông đại chúng vào việc tuyên truyền, quảng bá thường xuyên cho mọi người dân nhận thức được tầm quan trọng của giao lưu văn hóa và đa dạng văn hóa trong sự phát triển chung của xã hội. Giao lưu văn hóa là tất yếu, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Giao lưu văn hóa là sự bổ sung các giá trị văn hóa giữa các dân tộc. Thông qua quá trình này mà mỗi nền văn hóa dân tộc có dịp khuyếch trương các giá trị văn hóa của riêng mình ra ngoài phạm vi truyền thống và đồng thời tiếp nhận những giá trị mới từ các nền văn hóa khác.

Điều cần lưu ý ở đây là sự giao lưu văn hóa cần diễn ra mà không làm phương hại đến bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc : mỗi nền văn hóa dân tộc chỉ được giàu lên, phong phú thêm lên trong khi không đánh mất đi bản sắc độc đáo của mình. Nếu tiến trình giao lưu văn hóa diễn ra đem đến một kết quả ngược lại thì điều này sẽ là thảm họa đối với nền văn hóa chung của cả thế giới, bởi lúc đó vẻ đẹp của sự khác biệt trong văn hóa thế giới sẽ không còn.

Đa dạng văn hóa của thế giới, của mỗi quốc gia ở cấp độ dân tộc cũng như ở cấp độ một nhóm người, thậm chí là ở mỗi cá nhân, là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Đa dạng văn hóa là điều kiện tiên quyết để từng con người, từng nhóm người, từng dân tộc bộc lộ và phát huy hết năng lực sáng tạo độc đáo của mình trong quá trình sản xuất các giá trị mới về vật chất cũng như về tinh thần. Nhất thể hóa, đồng dạng hóa các giá trị văn hóa theo một khuôn mẫu cố định là triệt tiêu động lực phát triển, triệt tiêu năng lực sáng tạo. Biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình cũng có nghĩa là biết tôn trọng khoan dung với sự khác biệt văn hóa của các dân tộc khác. Điều này có ý nghĩa ngày càng quan trọng trong thế giới đang bị chia rẽ bởi những xung đột sắc tộc, xung đột tín ngưỡng, tôn giáo mang đậm màu sắc văn hóa (mặc dù cội rễ sâu xa mọi xung đột này, theo chúng tôi, có lẽ là bắt nguồn từ quyền lợi kinh tế, chính trị).

2. Nhà nước đóng vai trò không thể thay thế trong việc thay mặt quốc gia thương thảo với các nước khác mọi vấn đề giao lưu văn hóa và đa dạng văn hóa. Trong lĩnh vực này, một dấu mốc quan trọng là việc nước ta từ năm 2005 đã tham gia ký kết Công ước về đa dạng văn hóa có tầm pháp lý ngang với những công ước đã có về quyền dân sự và chính trị, về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.

Đối với một số nước mới gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) như Việt Nam, điều cần hết sức lưu ý là, khác với việc dần dần từ bỏ sự bảo hộ đối với các sản phẩm công, nông nghiệp, mở cửa các thị trường, riêng trong lĩnh vực văn hóa, Nhà nước cần kiên trì nguyên tắc bảo hộ đối với các sản phẩm của nền công nghiệp văn hóa của nước mình. Đây là một giải pháp tình thế cần thiết trong hòan cảnh cụ thể hiện nay. Bởi sản phẩm văn hóa không phải là một hàng hóa thông thường mà trước hết là một sản phẩm mang giá trị tinh thần đặc trưng cho mỗi nhóm người, mỗi dân tộc. Nếu chỉ coi sản phẩm văn hóa là một hàng hóa thuần túy, từ đó bắt nó phải tuân thủ hoàn toàn quy luật thị trường thì điều này vô hình chung sẽ dẫn tới sự độc tôn của các sản phẩm văn hóa từ các nước có nền công nghiệp văn hóa hùng mạnh; điều này gần như đồng nghĩa với sự triệt tiêu các sản phẩm văn hóa của các nền công nghiệp văn hóa non trẻ, cũng có nghĩa là triệt tiêu đáng kể sự đa dạng văn hóa các dân tộc.

Đây không phải chỉ là trách nhiệm cụ thể của ngành văn hóa mà còn là trách nhiệm của các ngành ngoại giao, thương mại và cần phải nhận thức thấu đáo tầm quan trọng sống còn của nguyên tắc này khi trở thành thành viên của WTO. Nghị định số 54 của Chính phủ ban hành tháng 5/2010 vừa qua quy định thời lượng bắt buộc phải chiếu phim Việt Nam ở các rạp cũng như trong khung giờ vàng của các đài truyền hình là một bứơc đi đúng đắn theo hướng này.(Tất nhiên những người làm điện ảnh Việt Nam đều hiểu rằng, không thể ỷ lại mãi vào chính sách bảo hộ này; để khẳng định vị thế xứng đáng lâu dài của mình, họ cần nỗ lực không ngừng nâng cao chất lượng các tác phẩm để có thể giành được chỗ đứng vững chắc trong lòng khán giả).

3. Nhà nước cần đóng vai trò xác lập và định hướng phát triển cho các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Điều cần thiết là phải phân biệt được những gì cần gìn giữ, phát huy và những gì đã lạc hậu, lỗi thời cần loại bỏ dần khỏi đời sống. Điều này đương nhiên cần được tiến hành một cách thận trọng trên cơ sở điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng dư luận xã hội và ý kiến các chuyên gia, tránh sự nóng vội khiên cưỡng. Ở đây cần phải thấy dù văn hóa các dân tộc có sự đa dạng, sự khác biệt đến thế nào thì ở cội nguồn của nó vẫn có sự thống nhất sâu xa ở tính nhân bản, ở sự mưu cầu hòa bình, hạnh phúc, công bằng, tự do. Bởi vậy vẫn có thể và cần áp dụng thước đo chung của những giá trị văn hóa vĩnh hằng cao cả nhất của cả nhân loại để căn cứ vào đó mà loại bỏ dần những gì là lạc hậu, lỗi thời, phản tiến hóa trong cái gọi là di sản văn hóa truyền thống riêng biệt của mỗi dân tộc, đại để như là cách trừng phạt nghiêm khắc (ném đá đến chết, chặt tay…) của một số nhóm người theo đạo Hồi đối với phụ nữ ngoại tình hay kẻ trộm cắp, hoặc như tục đốt vàng mã, bói toán nhảm nhí trong các dịp lễ hội mà Nghị định của Chính phủ về việc thi hành Luật Di sản văn hóa của Việt Nam đã cấm.

4. Với việc có trong tay một nguồn tài chính khổng lồ, Nhà nước (đặc biệt là Nhà nước ở một số quốc gia Châu Á) có điều kiện to lớn để chủ động đầu tư phát triển văn hóa của mình. Khuyến cáo của UNESCO đã nêu rõ Chính phủ các nước cần có sự đầu tư cho văn hóa không dưới 2% tổng thu nhập quốc dân. Đây là một yêu cầu rất cao mà không phải quốc gia nào cũng thực hiện được. Ở Việt Nam, Kết luận của Hội nghị Trung ương (7-2004) cũng chỉ ra sự cần thiết nâng dần tỉ lệ đầu tư cho văn hóa từ ngân sách Nhà nước lên ít nhất là 1,8%.( Chỉ tiêu này cho tới nay ta vẫn chưa đạt được).

Đầu tư của Nhà nước trong văn hóa cần tập trung vào các lĩnh vực đào tạo nhân lực cho văn hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho văn hóa, bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc (vật thể và phi vật thể), tạo điều kiện thuận lợi cho các nghệ sĩ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân ở mọi vùng miền của đất nước, xây dựng và phát triển nền công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, tiến hành các biện pháp "xóa mù kỹ thuật số" cho mọi người dân để họ có thể dễ dàng tiếp cận với các thành quả của nền công nghệ thông tin trong từng quốc gia và trên thế giới…


5. Điều cuối cùng tôi muốn nói - không phải là điều ít quan trọng nhất - ấy là Nhà nước cần phấn đấu đạt tới trách nhiệm cao nhất của mình trong lĩnh vực văn hóa là phải làm sao cho văn hóa thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi sắc tộc, mọi nhóm dân cư, của mọi người. Nhân dân phải thực sự trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là khách thể hưởng thụ các thành tựu văn hóa.

Và Nhà nước sẽ làm tròn trách nhiệm văn hóa cao cả của mình là không trực tiếp bao biện, làm thay các công việc cụ thể của sự nghiệp phát triển văn hóa mà chủ yếu đóng vai trò chủ thể xác lập định hướng đúng đắn cho sự phát triển văn hóa, hoạch định các chính sách văn hóa trên từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa nằm trong tầm kiểm soát sao cho có thể phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, toàn dân tộc và của mỗi nhóm người./.

Tác giả gửi viet-studies ngày 27-8-10


Thứ Năm, 26 tháng 8, 2010

VẺ ĐẸP CỔ XƯA


VẺ ĐẸP CỔ XƯA - ĐỒ TRANG SỨC ĐÁ VÀ TƯỢNG ĐẤT NUNG Ở DI CHỈ THÀNH DỀN

VỠ VẪN ĐẸP
MỘT NỬA KHUYÊN TAI 4 MẤU
MỘT NỬA CỦA LOẠI KHUYÊN TAI CÓ MẤU KHÁC
HẠT CHUỖI ĐẢM BẢO ĐÁ NGỌC XỊN

HẠT ĐEO BẰNG ĐÁ NGỌC TRẮNG NÀY MỚI ĐỘC!
VÀ ĐÂY LÀ NHỮNG HẠT CHUỖI ĐÁ NGỌC KHÁC!
VÒNG TAY CÓ BẢN ĐEO RỘNG
HÌNH NHƯ ĐÂY LÀ MỘT CHÚ BÒ U!

TƯỢNG NÀY THÌ CHỊU, CHẢ HIỂU CON GÌ?

Ảnh chụp của Th.s. Bùi Hữu Tiến (Bảo tàng Nhân học)

Thứ Tư, 25 tháng 8, 2010

100 mùa xuân

Những bức ảnh trường tồn cùng lịch sử







Nguồn ảnh http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/08/100825_vonguyengiap_birthday.shtml

Thứ Ba, 24 tháng 8, 2010

TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU CỦA TRUNG TƯỚNG KHÔNG QUÂN LƯU Á CHÂU TẠI CĂN CỨ KHÔNG QUÂN CÔN MINH, VÂN NAM (TRUNG QUỐC) *

Giới thiệu tóm tắt về Lưu Á Châu
Lưu Á Châu năm nay 57 tuổi, là người huyện Túc thuộc thành phố An Huy, tham gia quân đội năm 16 tuổi, lần lượt giữ chức vụ phó tiểu đội trưởng, tiểu đội trưởng, trung đội trưởng; năm 44 tuổi được thăng chức thiếu tướng không quân, bước vào hàng ngũ tướng lĩnh cấp cao của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA); năm 45 tuổi giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị không quân quân khu Bắc Kinh, năm 50 tuổi là chính ủy không quân quân khu Thành Đô; năm 51 tuổi là Phó chính ủy không quân kiêm Bí thư Ủy ban kiểm tra kỷ luật quân ủy, và được thăng chức trung tướng không quân. Hiện nay, Trung tướng Lưu Á Châu, nguyên Phó Chính ủy không quân của PLA giữ chức chính ủy của Đại học quốc phòng Trung Quốc thay Trung tướng Đổng Thế Bình đã được điều động làm Phó chủ nhiệm Tổng Cục chính trị kiêm Bí thư Ủy ban kiểm tra kỷ luật quân ủy. Đại học quốc phòng là trường quân sự cao nhất của Trung Quốc, trực thuộc sự lãnh đạo của quân ủy trung ương, là cấp đại quân khu; hiệu trưởng, chính ủy của trường này đều thuộc những chức vụ chính của đại quân khu.

TOÀN VĂN

Tôi là người kế thừa, cũng là người phê phán văn hóa Trung Hoa. Trong quá khứ, tôi trước tiên là người kế thừa văn hóa Trung Hoa, sau đó mới là người phê phán văn hóa Trung Hoa. Hiện nay, tôi trước tiên là người phê phán văn hóa Trung Hoa sau đó mới là người kế thừa. Lịch sử phương Tây là một bộ sử sửa cái xấu, cái sai thành cái tốt, cái đúng. Lịch sử Trung Quốc lại là một bộ sử sửa cái tốt, cái đúng thành cái xấu, cái sai. Thời cổ đại, phương Tây cái gì cũng cấm, chỉ không cấm bản năng con người. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, chỉ cấm mỗi bản năng. Người phương Tây dám thể hiện bản thân, tức là dám thể hiện tư tưởng của mình và còn dám phô bày thân xác lõa lồ của mình. Trung Quốc chỉ biết che đậy và che đậy tư tưởng của mình. Phương Tây đả kích mặt đen tối của mình do đó tìm được ánh sáng, tư tưởng của họ đang bay bổng. Chúng ta ca ngợi sự quang minh của mình, kết quả mang đến hàng nghìn năm u ám. Hegel từng nói: “Trung Quốc không có triết học”. Tôi cho rằng mấy nghìn năm nay Trung Quốc chưa sản sinh được nhà tư tưởng nào. Những nhà tư tưởng tôi nói là Hegel, Socrates, Plato, các nhà tư tưởng này đã có những đóng góp to lớn cho tiến trình văn minh của nhân loại. Lão Đan (tức Lão Tử), bạn nói xem ông ấy có phải là nhà tư tưởng không? Chỉ dựa vào “Đạo đức kinh” với 5.000 chữ là có thể làm nhà tư tưởng ư? Chưa nói đến là “Đạo đức kinh” của ông có vấn đề. Khổng Tử có thể coi là nhà tư tưởng chăng? Con cháu của chúng ta xem xét ông thế nào? Đánh giá các tác phẩm của ông ra sao? Các tác phẩm của Khổng Tử chưa từng cung cấp cho nội tâm người Trung Quốc một hệ thống giá trị có thể chống lại quyền lực thế tục, cái mà ông cung cấp chỉ là tất cả những gì xoay quanh quyền lực. Nếu Nho học là một tôn giáo thì đó là ngụy tôn giáo; nếu là tín ngưỡng thì là ngụy tín ngưỡng; nếu là triết học thì triết học của xã hội quan trường hóa. Xét từ ý nghĩa này, Nho học có tội với người Trung Quốc. Trung Quốc không thể có nhà tư tưởng, chỉ có các nhà mưu lược. Xã hội Trung Quốc là một xã hội binh pháp, dân tộc chúng ta chỉ tôn sùng các nhà mưu lược. Một Gia Cát Lượng bị người phản phúc chẳng mấy thành công trong sự nghiệp lại được người ta kỷ niệm nhiều lần. Ông ấy bụng dạ kém khoáng đạt, cách dùng người không thích hợp. Có tư liệu cho thấy Gia Cát Lượng cũng là kẻ lộng quyền. Nhưng chính con người như thế đã được cất nhắc lên tầm cao phát sợ, đây cũng là một sự khắc họa tâm hồn dân tộc ta. Dưới hình thái xã hội thế này, có ba loại hành vi thịnh hành ở Trung Quốc.

1 – Thuật ngụy biện. Con trai tôi năm nay thi vào khoa báo chí của một trường đại học. Khoa này là một trong những khoa báo chí tốt nhất của Trung Quốc. Tôi bảo con trai: mang giáo trình cho bố xem. Sau khi xem xong tôi bảo thứ này không đáng đọc. Trong giáo trình có một suy luận thế này: Trung Quốc đã phát minh ra thuốc nổ. Sau khi thuốc nổ truyền tới châu Âu đã phá tan dinh lũy phong kiến châu Âu thời trung cổ. Thật nực cười. Thuốc nổ anh phát minh ra đã phá tan dinh lũy phong kiến của người ta, thế sao dinh lũy của anh lại không bị phá vỡ? Ngược lại càng chắc hơn? Tại Đại học quốc phòng Trung Quốc, khi thảo luận về vấn đề Đài Loan, có một quan điểm được nhiều người tán đồng như sau: Đài Loan như một cái ổ khóa. Nếu không giải quyết được vấn đề Đài Loan thì cái khóa này sẽ khóa chặt cánh cổng lớn của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ không còn đường ra biển. Đó là sự ngụy biện. Tôi có thể nói thế này. Sau khi Tây Ban Nha trở thành cường quốc biển, cũng không thể ngăn chặn được nước láng giềng Hunggari trở thành cường quốc biển. Eo biển Dover của Pháp cách nước Anh chỉ có 28 hải lý, Anh có thể ngăn chặn Pháp trở thành cường quốc biển không? Trung Quốc đã mất biển chủ yếu là do tầng lớp thống trị Trung Quốc trong nhiều thế hệ chưa có quan điểm quyền lực biển.

2 – Đối ngoại lôi kéo vỗ về, đối nội tàn nhẫn. Văn minh châu Âu và văn minh Trung Quốc gần như đồng thời cất bước, nhưng châu Âu đã hình thành được khá nhiều quốc gia nhỏ, Trung Quốc hình thành một đại đế quốc thống nhất. Nói đến đây, chúng ta thường dương dương tự đắc. Kỳ thực, châu Âu hình thành nhiều quốc gia như vậy chính là một kiểu thể hiện tư tưởng tự do của họ. Tuy hình thành nhiều quốc gia nhỏ như vậy, nhưng bao nhiêu thứ có liên quan tới văn minh nhân loại lại sinh ra từ các tiểu quốc chia tách ra ấy, còn chúng ta đã làm được gì cho văn minh thế giới? Thống nhất giang sơn chắc chắn có một mối liên hệ tất yếu nào đó với tư tưởng thống nhất. Xã hội mưu lược là một xã hội mang tính hướng nội. Tôi đã từng nghiên cứu kỹ sự khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc: Trung Quốc về cơ bản mềm mỏng trong các công việc quốc tế, nhưng lại cứng rắn với các sự việc trong nước. Mỹ thì ngược lại, cứng rắn với các công việc quốc tế, mềm dẻo với các công việc trong nước. Tôi không nhớ rõ mình đã đề cập tới vấn đề này trong cuốn sách nào của tôi, có lẽ là cuốn “Đánh giá nguy hiểm tác chiến với Đài Loan”, và kết luận thế này: Chuyện này là do sự khác biệt về văn hóa. Văn hóa Trung Quốc có tính khép kính, kín đáo, hướng nội. Văn hóa Mỹ thì mở cửa, hướng ngoại. Tư tưởng đại thống nhất cũng là tư tưởng kiểu hướng nội. Điều này giải thích nguyên nhân vì sao chúng ta là bầy cừu trước những kẻ xâm lược nước ngoài, nhưng lại là lang sói trước đồng bào của mình. Gần một trăm lính Nhật là đủ để áp giải 50.000 tù binh của quân Quốc Dân đảng tới Yến Tử Cơ (địa danh thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) xử bắn. Chưa nói đến phản kháng, ngay đến dũng khí bỏ chạy, các tù binh này cũng chẳng có. Trong chiến dịch Lai Vu của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chỉ trong 3 ngày quân đội chúng ta đã tiêu diệt được 56.000 người. Sau chiến tranh, Vương Huy Vũ oán thán: 50.000 cái đầu lợn để quân cộng sản bắt, ba ngày cũng bắt không hết. “Còn người Trung Quốc muốn đánh người Trung Quốc thì mới gọi là dũng mãnh!”

3 – Hành vi hèn kém. Sự hèn kém về tinh thần ắt sẽ đem lại hèn kém trong hành vi. Sự cao quý tinh thần ắt sẽ mang lại sự cao quý trong hành vi. Khoảng 20 năm trước tiểu khu tôi sống có xảy ra câu chuyện như sau: một cặp vợ chồng cãi nhau đòi ly hôn, người chồng mang bồ về nhà, hai vợ chồng cãi nhau. Người vợ chạy lên gác đòi tự tử. Rất nhiều người vây quanh xem. Có kẻ vì hí hưởng khi thấy người khác gặp nạn mà hét to: “Nhảy đi, nhảy đi!”, sau đó cảnh sát đã cứu được bà kia xuống, những người xem thậm chí còn cảm thấy tiếc rẻ. Tôi thở dài một cái rồi trở về nhà, mở tivi xem. Trên tivi đang chiếu một bộ phim kể về một câu chuyện có thật ở châu Âu: Một nước nào đó, theo trí nhớ tí ỏi của tôi có là lẽ Hunggari thì phải, 70 năm trước có một người thợ mỏ trẻ sắp cưới vợ, trong lần cuối cùng xuống giếng mỏ trước khi kết hôn đã xảy ra sụp hầm, người thợ mỏ mãi mãi không trở về. Cô dâu không thể tin người yêu của mình đã ra đi mãi mãi, cứ thế đằng đẵng chờ 70 năm trời. Cách đây ít lâu người ta sửa lại hầm mỏ, phát hiện một xác người nằm ở chỗ sâu nhất của vũng nước đọng. Đó chính là chàng rể – thợ mỏ bị vùi dưới giếng 70 năm về trước. Vì dưới ấy không có không khí, xác lại ngâm trong nước có khoáng chất nên người đó vẫn trẻ như lúc chết. Còn cô dâu đã là một bà lão tóc bạc phơ. Bà cụ ôm lấy người yêu mình khóc nức nở. Bà quyết định tiếp tục hôn lễ với người yêu của mình. Một câu chuyện thật gây xúc động: Cô dâu hơn 80 tuổi mặc áo cưới trang trọng một màu trắng tinh như tuyết. Tóc cũng trắng như tuyết. Người yêu của bà thì vẫn trẻ như vậy, mắt nhắm nghiền nằm trên một cỗ xe ngựa. Hôn lễ và tang lễ đồng thời tổ chức. Không biết bao nhiêu người đã rơi lệ.

Một sự việc có thể thử thách trình độ đạo đức của dân tộc Trung Quốc chính là việc Mỹ xảy ra “sự kiện 11/9”. Sự kiện này tuy không làm thay đổi thế giới, nhưng đã làm thay đổi nước Mỹ. Đồng thời, thế giới sau ngày ấy rất khó trở lại như trước sự kiện này. Khi xảy ra “sự kiện 11/9”, ít nhất trong một quãng thời gian sau đó Trung Quốc đã bị bao phủ bởi một bầu không khí không lành mạnh. Tối ngày 12/9, các sinh viên của Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa khua chiêng gõ trống. Tôi bảo đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc còn chưa lọt vào vòng sau mà, phải đến ngày 7/10 độ Trung Quốc mới đấu trận đấu cuối cùng với các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất, nếu thắng sẽ lọt vào danh sách dự Word Cup. Một lát sau tôi mới biết là các sinh viên Trung Quốc đang chúc mừng việc Tòa tháp đôi của Mỹ bị đánh sập. Khi ấy có một đoàn nhà báo Trung Quốc đang ở thăm Mỹ, nhìn thấy tòa nhà Trung tâm thương mại thế giới bị đánh bom, các thành viên của đoàn nhà báo này không cầm được lòng đã vỗ tay. Đây là một dạng ngấm văn hóa, điều này không thể trách họ, bọn họ đã không thể kiềm chế bản thân. Kết quả là họ bị (Chính phủ Mỹ – ND) tuyên bố mãi mãi là những người không được hoan nghênh ở Mỹ. Hồi ấy, tôi đang ở không quân Bắc Kinh, mấy ngày đó đều có binh sỹ đến thăm tôi, gặp ai tôi cũng hỏi quan điểm của họ về “sự kiện 11/9”. Nhiều người nói: đánh bom hay lắm. Sau này tôi nói đây là một tình trạng rất đáng buồn. Nếu những người đó yêu mến Trung Quốc, thế thì Trung Quốc có nên cứu họ không? Về các phương tiện thông tin đại chúng thì càng không nên nhắc tới. Ở Trung Quốc, nơi không có tin tức nhất là báo chí. Năm 1997 Công nương Diana chết vì tai nạn giao thông. Bất kể Diana là người thế nào, hoàng gia Anh quốc ra sao thì ít nhất bà ấy còn có giá trị tin tức. Các tờ báo lớn trên thế giới đều đưa tin này ở trang nhất, duy nhất báo chí Trung Quốc không đưa tin này. Hôm đó tin tức đầu bảng của các tờ báo lớn ở Bắc Kinh là “Các trường trung, tiểu học Bắc Kinh hôm nay đã khai giảng”. Tin này chẳng khác gì tin: “Người Bắc Kinh hôm nay ăn sáng rồi”, giá trị thông tin là như vậy.

Đêm thứ 2 sau sự kiện 11/9 tôi ngồi xem chương trình “Bình luận điểm nóng” trên tivi. Tôi muốn thử xem “miệng lưỡi của đất nước” đánh giá điểm nóng sự kiện 11/9 như thế nào: Nhưng chương trình hôm ấy lại có nội dung nói về việc các chi bộ ở nông thôn tăng cường xây dựng lại chi bộ gì đó. Bạn muốn xem cái gì thì không có cái ấy. Cái bạn không muốn nghe thì người ta cứ nói cho mà nghe. Dĩ nhiên, miệng lưỡi của ông nhà nước thì vô tội.

Năm 1999 Mỹ tấn công Nam Tư. Trung Quốc đứng ra phản đối. Cái giá của lần ấy là Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị bắn phá. Suýt nữa thì Trung Quốc lại đứng ra lần nữa. Đoàn tàu văn hóa này của chúng ta có quán tính lớn, chở chúng ta, những kể có khiếm khuyết đạo đức, phóng như bay tới điểm chót. Hồi ấy có người còn đề xuất nhân dịp này tấn công Đài Loan, ra tay một lần là xong. Có thể thông cảm với nỗi lòng của các bạn ấy, nhưng bấy giờ quả thật không phải là thời cơ thích hợp. Hồi ấy tôi nghĩ, vụ 11/9 chết bao nhiêu người, đều là người vô tội. Cái mất đi là sinh mạng con người, thứ thiêng liêng nhất trên thế gian. Những sinh mạng ấy không có liên quan với Chính phủ Mỹ. Chúng ta đối xử với người ta với thái độ như vậy, nhưng người ta không dùng thái độ như vậy đối xử với ta. Thảm án Dover có sự tương phản rõ rệt với việc này. Năm 2000, một đoàn người Phúc Kiên vượt biên trái phép ngồi trong xe thùng bịt kín cập cảng Dover lên đất Anh. Vì ngồi mấy chục giờ trong thùng xe thiếu không khí, tất cả đều chết ngạt, chỉ có 2 người sống sót. Khi vụ này bị phanh phui, không một quan chức nào của Đại sứ quán Trung Quốc xuất đầu lộ diện. Cuối cùng dân chúng nước Anh vùng Dover tự phát làm lễ truy điệu và lễ thắp nến tưởng niệm những người đã chết. Rất nhiều trẻ em tham dự, chúng cầm trong tay những thứ đồ chơi chế tạo tại Trung Quốc. Nhân đây xin nói thêm, hiện nay 90% đồ chơi trên thế giới là Made in China. Nhà báo hỏi lũ trẻ: Tại sao các cháu dự lễ truy điệu? Bọn trẻ nói: Họ cũng là người cả mà; các thứ đồ chơi trong tay chúng cháu cầm đây có thể là do những người trong số họ sản xuất. Không một người Trung Quốc nào có mặt trong buổi lễ truy điệu ấy. Thế nào là văn minh, thế nào là không văn minh? Tôi đang suy nghĩ:

Thật là đáng sợ khi người ta ca ngợi khủng bố. Trung Quốc thoát thai từ nền văn hóa giáo dục Trung Hoa, trước hết thờ ơ coi khinh sinh mạng của chính mình, từ đó mới có thái độ coi tính mạng của người khác, nước khác như trò đùa của trẻ con. Bản thân không có quyền quý trọng sinh mạng mình, cũng không cho người khác có cái quyền ấy. Tâm trạng “khán giả” (người Trung Quốc xem hành hình người Trung Quốc) năm xưa từng bị Lỗ Tấn hồi trẻ phê phán chính là được tôi luyện như vậy đấy. Người Trung Quốc xem cảnh giết người khác, không ai không vui mựng phấn khởi. Giai cấp thống trị cố ý đem người ta ra giết tại nơi đông người. Kẻ bị thống trị thì hưởng thụ tại nơi đông người cái cảm giác khoái trá của kẻ thống trị. Nhất là khi xử tử bằng kiểu tùng xẻo, kéo dài ba ngày, người xem đông nghìn nghịt. Cả đến những chủ sạp hàng nhỏ cũng bày hàng ra bán tại đấy. Đao phủ còn bán bánh màn thầu dính máu. Trung Quốc ngày nay không có tục tùng xẻo nữa. Nhưng xử án tại nơi đông người cũng là sự mở rộng tập quán đó. Người nước ta năm nào đi xem giết 6 nhà chí sĩ của Đàm Tự Đồng (người lãnh đạo phong trào Duy tân cuối đời Thanh bị tử hình (N.D) như đi trẩy hội. Với những người như thế, trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ (Chiến tranh Trung – Nhật năm 1894), ta sao mà không mất Đâì Loan. Chúng ta là con cháu của những người như thế, nếu lại như cha ông mình thì làm sao mà giải phóng được Đài Loan.

Khi có kẻ xấu hành hung trên xe buýt, những người đi xe đều im thin thít. Dựa vào những con người ấy đi giải phóng Đài Loan ư? Dựa vào họ để thực hiện 4 hiện đại hóa ư? Bạn thực hiện 4 hiện đại hóa rồi thì có lợi gì nhỉ?

Sáng nay khi tập thể dục tôi tranh thủ xem truyền hình, chương trình quảng cáo “Tin tức buổi sáng”, sản phẩm nào bán chạy nhất? Đó là cửa chống trộm. Đây là nỗi buồn của một dân tộc. Bạn xem đấy, nhà chúng ta ở chẳng khác gì cái cũi. Tại Thành Đô, tôi ở căn nhà mấy vị chính ủy không quân tiền nhiệm từng ở. Tôi vào xem, ôi chao, cứ như vào nhà tù. Cửa sổ, ban công đều bao bọc bằng hàng rào chấn song chống trộm. Tôi bảo dỡ bỏ hết.

Hôm nọ đọc một cuốn sách có tên “Trung Quốc có thể nói Không”. Tôi bảo, anh có thể nói Không, nhưng anh đứng sau cánh cửa chống trộm mà nói Không; đó chẳng phải là dũng sĩ mà là kẻ hèn nhát. Kiều Lương (Thiếu tướng, nhà văn – N.D) nói chí lý: “Những người yêu nước khi gặp bọn trộm cướp thì lánh mặt nhưng lại dũng cảm dõng dạc nói Không với một cường quốc nơi xa xăm!” Cần nhìn nhận nước Mỹ một cách khách quan toàn diện. Nước Mỹ là một quốc gia như thế nào? Nhớ lại hồi trẻ từng nghe một câu nói hình dung thành phố Niu Yoóc: Cái tốt nhất trên thế giới và cái xấu nhất trên thế giới cộng lại với nhau thì là Niu Yoóc. Dùng câu ấy để hình dung nước Mỹ ngày nay có thích hợp hay không? Thế hệ quân nhân chúng ta, những quân nhân đảm nhận niềm hy vọng tương lai của tổ quốc, vừa không nên làm “phái thân Mỹ”, cũng chẳng thể làm “phái chống Mỹ” một cách đơn giản, mà nên làm “phái hiểu Mỹ” chín chắn. Hiểu địch thì mới chiến thắng được kẻ địch. Đánh giá thấp đối thủ tức là đánh giá thấp chính mình. Thác Bạt Đạo (vị vua giỏi thời Nam – Bắc Triều – N.D) đổi tên nước của Nhu Nhiên (thủ lĩnh nước Hãn của Mông Cổ (N.D) thành “Nhu Nhu” (loài dòi bọ), nhưng chính ông lại bị con dòi bọ ấy đánh bại. Như thế, ông chẳng bằng con sâu bọ nữa kia. Mỹ không muốn Trung Quốc hùng mạnh, hoàn toàn cũng như Trung Quốc không muốn Mỹ xứng bá. Mối quan hệ Trung – Mỹ có xung đột nhưng cũng có lợi ích chung nhất định. Làm thế nào hóa giải xung đột, phát triển lợi ích chung là việc các nhà ngoại giao Trung Quốc hiện nay nên cố gắng làm. Trung Quốc muốn phát triển thì không thể cắt đứt sự đi lại với thế giới. Thế giới hiện nay là đơn cực, chỉ khi nào Mỹ suy sụp thì mới có thể xuất hiện thế giới đa cực. Chúng ta vừa không thể cắt quan hệ với Mỹ lại vừa không thể có quá nhiều kỳ vọng về Mỹ. Hiện nay mà đối đầu với Mỹ chưa phải là thời cơ thích hợp nhất. Lợi ích quốc gia nên mãi mãi là nguyên tắc cao nhất cho hành động của chúng ta. Chúng ta cần kiên nhẫn; nhẫn nại không phải là mềm yếu, chỉ có khuất phục mới là mềm yếu. Dĩ nhiên Mỹ không từ bỏ dã tâm tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, không muốn Trung Quốc trỗi dậy, không muốn kinh tế Trung Quốc phát triển đi lên. Nhưng cần nhớ cho kỹ: Khi đấu tranh với đối thủ, nhất định phải làm cho đối thủ của anh nhìn thấy tình hình họ không muốn thấy nhất. Người Mỹ muốn người Trung Quốc nội chiến; chúng ta quả thật nội chiến rồi. Họ không trùm chăn mà cười đến nôn ruột thì mới là điều lạ. Lẽ đương nhiên cứ “Nằm gai nếm mật, giấu mình chờ thời” cũng không được. Là một nước lớn, Trung Quốc có thể làm theo cách như một võ hiệp thời xưa ẩn vào núi sâu khổ luyện võ công, chờ khi võ nghệ cao cường rồi tái xuất quyết thắng kẻ địch chăng? Với số dân và tài nguyên của Trung Quốc, đặc biệt là với nền văn hóa của mình, Trung Quốc không thể lớn mạnh như nước Mỹ được, huống chi Mỹ cũng chẳng dừng lại, mà đang tiến lên. Dù sao Mao Trạch Đông nói vẫn chí lý: “Đánh vẫn cứ đánh, đàm vẫn cứ đàm, hòa vẫn cứ hòa.” Con người cần khôn ngoan tài trí, đấu tranh ngoại giao lại càng cần khôn ngoan. Phải dắt mũi người ta mà đi chứ đừng bị người ta dắt. Khơrútsốp là một tay khôn ngoan. Tôi xin kể cho các bạn nghe chuyện này: Tại một đại hội nọ (Đại hội XX đảng Cộng sản Liên Xô – ND) Khơrútsốp ra sức vạch trần và phê phán chế độ chính trị tàn bạo của Stalin. Có người chuyển lên một mẩu giấy chất vấn Khơrútsốp: Bản thân Khơrútsốp cũng là một thành viên trong tập đoàn quyền lực nòng cốt khi Stalin nắm chính quyền.

Vì sao hồi ấy ông không đứng lên chống lại sự độc đoán của Stalin? Khơrútsốp cao giọng đọc nội dung mẩu giấy kia rồi lớn tiếng nói với mọi người: Đây là mẩu giấy của ai thế? Xin người đó đứng ra! Đứng ra nào!… Bên dưới nhốn nháo một lúc nhưng chẳng thấy ai đứng ra cả. Khơrútsốp nói: Mọi người xem đấy, chúng ta hiện nay dân chủ như thế này, trong tình hình chẳng có gì phải sợ hãi mà ngay cả đồng chí viết mẩu giấy này cũng không dám đứng ra. Vậy hãy nghĩ xem, trong bầu không khí dưới thời Stalin thống trị ấy có người nào dám đứng ra cãi lại Stalin không? Cả hội trường vỗ tay. Chúng ta đấu tranh với Mỹ nên có sự khôn ngoan ấy của Khơrútsốp. Khi cần giấu mình chờ thời thì giấu mình đến tận nhà. Như một câu đồng chí Đặng Tiểu Bình năm nào nói với Thủ tướng Canada Trudeau (đại ý): Sự giấu mình chờ thời mà chúng tôi nói bao gồm cả việc không cần giữ thể diện, nhất định phải giữ mối quan hệ với quốc gia phát triển nhất trên thế giới. Ý của đồng chí Đặng Tiểu Bình là Trung Quốc nhất định phải bước cùng nhịp với văn minh thế giới, không thể xa rời nền văn minh thế giới. Trong sự kiện 11/9, trừ một số quốc gia cá biệt, một bộ phận dân chúng Trung Quốc (chứ không phải là chính phủ) đã tỏ ra mình ở cách nền văn minh dòng chính của thế giới một khoảng cách xa nhất. Khi cần đáu tránh thì một tấc cũng không nhường. “Sùng bái Mỹ” là không đúng, “thân Mỹ” không đúng, “ghét Mỹ” cũng không đúng. Chính phủ và chính khách Mỹ vừa giống dân chúng Mỹ lại vừa không giống. Bạn cần phải có trí tuệ cao để phân biệt họ. Trong quá khứ, vì để giúp Trung Quốc không thoát khỏi ách thống trị thực dân mà Mỹ đánh bại Nhật Bản, họ có cống hiến lớn đối với tiến bộ văn minh của xã hội Trung Quốc. Hai nước Trung – Mỹ không có xung đột lợi ích căn bản. Ngày nay, do lợi ích của Mỹ rải khắp toàn cầu nên 2 nước có xung đột. Nhưng chúng ta vẫn phải lấy tấm lòng đạo đức để bình xét sự vật chứ không thể kích động. Tôi từng nói, đối với Nhật Bản – một nước từng tàn sát mấy chục triệu đồng bào ta mà không chịu nhận sai lầm, vậy mà chúng ta vẫn thường xuyên nói 2 nước “phải đời đời kiếp kiếp hữu nghị với nhau”. Nhân dân Mỹ giúp chúng ta đánh bại Nhật Bản, chúng ta có lý do gì để thù hận?

4 – Điều thực sự đáng sợ ở Mỹ là gì? Tuy Mỹ có lực lượng quân đội mạnh nhất, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới, nhưng tôi cho rằng điều này không đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của Mỹ bay qua bay lại Trung Quốc rất tự do, nhưng điều này cũng không có gì đáng sợ. Điều đáng sợ không phải là những thứ này. Năm 1972, khi tôi đang theo học ở trường Đại học Vũ Hán, trong giờ chính trị, thầy giảng: “Nước Mỹ là đại diện cho nhà nước tư bản chủ nghĩa thối nát, suy tàn, đã gần đất xa trời, đang thoi thóp”. Tôi – một sinh viên công nông binh, khoác trên mình bộ quân phục, lập tức đứng dậy, phản bác: “Thưa thầy, em thấy thầy nói không đúng ạ. Tuy Mỹ không giống như Trung Quốc là mặt trời mọc vào lúc 8,9 giờ sáng, nhưng nó cũng không phải là ánh chiều tà, mà là mặt trời giữa trưa ạ”. Thầy tái mặt, ấp úng nói: “Cậu sinh viên này, làm sao cậu dám nói câu đó?”. Thầy không hỏi tôi vì sao tôi lại nói thế, mà thầy lại dùng từ “dám”. Ai cũng có thể thấy được ý của thầy. Chính nhà nước tư bản chủ nghĩa thối nát, suy tàn ấy lại đã lãnh đạo một cuộc khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới vào những năm 90 thế kỷ 20. Tôi tốt nghiệp đại học đúng vào lúc cải cách mở cửa. Tôi lại có một quan điểm: Mỹ là nước do rất nhiều người không yêu tổ quốc mình tạo nên, nhưng họ đều rất yêu nước Mỹ. Lúc đó, rất nhiều nhà lãnh đạo vừa mắng chửi Mỹ, vừa cho con cái sang Mỹ. Điều này có sự tương phản rất lớn! Nói một thôi, một hồi, nhưng điều đáng sợ ở Mỹ là ở đâu? Bản thân tôi cảm thấy có 3 điểm:

Một là, không thể coi thường thể chế anh tài của Mỹ. Chế độ cán bộ, cơ chế tranh cử của Mỹ có thể bảo đảm chắc chắn các nhà quyết sách đều là anh tài. Bi kịch của nhà nước Trung Quốc chúng ta là lớn ở cấp nhà nước, nhỏ ở cấp đơn vị, trong đa số tình hình, người có tư tưởng thì không có quyền quyết sách, người có quyền quyết sách thì không có tư tưởng, có đầu óc thì không có địa vị, có địa vị thì không có đầu óc. Nước Mỹ ngược lại hẳn, cơ chế hình tháp của họ đưa những anh tài lên. Vì thế, thứ nhất, họ không mắc sai lầm, thứ hai, họ ít phạm sai lầm; thứ ba, nếu mắc sai lầm, họ có thể nhanh chóng sửa sai. Còn chúng ta thì mắc sai lầm, thường xuyên mắc sai lầm, nếu mắc sai lầm thì rất khó sửa sai. Mỹ dùng Đài Loan nhỏ bé để kiềm chế Trung Quốc đúng nửa thế kỷ. Nước cờ họ đi thật linh hoạt, thần kỳ! Một Đài Loan làm thay đổi tình hình chính trị quốc tế Đông Á. Điều khiến tôi lo ngại nhất là khung chiến lược phát triển của Trung Quốc trong thế kỷ mới sẽ vì Đài Loan mà thay đổi.

Hiện nay, đối với một dân tộc hùng mạnh, tầm quan trọng của lãnh thổ giảm mạnh, đã chuyển từ việc theo đuổi lãnh thổ sang theo đuổi sức mạnh quốc gia. Người Mỹ đều không có nhu cầu lãnh thổ đối với bất kỳ nước nào. Mỹ chẳng quan tâm đến lãnh thổ, tất cả những gì mà họ làm trong thế kỷ 20 là tạo danh thế, tại sao gọi là tạo danh thế? Ngoài kinh tế hùng mạnh ra, chính là lòng dân chứ còn gì nữa! Có được lòng dân thì nhà nước mới có sức hội tụ, lãnh thổ bị mất rồi có thể lấy lại được; không có lòng dân thì có thể khẳng định rằng lãnh thổ mà chúng ta có sẽ bị mất. Có nhà lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn một cách thiển cận, còn Mỹ luôn luôn có cách nhìn xa trông rộng. Chính vì thế, sau khi kết thúc cuộc Đại chiến thế giới thứ Hai, mỗi lần xảy ra sự việc mang tính toàn cầu quan trọng, vị thế của Mỹ đều được tăng lên. Nếu chúng ta bị họ dắt mũi, thì có thể mất hết mọi con bài chiến lược. Tôi nhiều lần nói trọng tâm chiến lược của Mỹ không thể chuyển sang châu Á, song điều đó không còn nghĩa là Mỹ không bao vây Trung Quốc. Rất nhiều bạn chỉ nhìn thấy Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như rất nhiều người chỉ thấy khoảng cách chênh lệch về khoa học kỹ thuật và trang bị vũ khí giữa hai nước, mà chưa nhìn thấy sự mất cân bằng về chiến lược lớn, nhất là trên tầng nấc ngoại giao nghiêm trọng hơn, so với sự lạc hậu về trang bị. Ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ hoặc là có biện pháp mà không có ranh giới, hoặc là có chi tiết mà không có toàn cục.

Sau vụ 11/9, Mỹ nhanh chóng chiếm Ápganixtan trong vòng 2 tháng, từ phía Tây bao vây Trung Quốc. Sức ép quân sự Nhật Bản, Đài Loan, Ấn Độ cũng chẳng giảm đi. Xem ra chúng ta đã giành được một số lợi ích trước mắt từ vụ 11/9, song các lợi ích đó không quá 1 – 2 năm có thể mất đi. Tôi cho rằng bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một điều khác, không phải là quân sự mà là siêu quân sự. Bạn xem đấy, mấy năm gần đây các nước xung quanh Trung Quốc tới tấp thay đổi chế độ xã hội, biến thành cái gọi là nhà nước “dân chủ”. Nga, Mông Cổ, Cadắcxtan đều đã thay đổi, cộng thêm các nước trước đây như Hàn Quốc, Philippin, Inđônêxia v.v…, đối với Trung Quốc, những đe dọa này còn ghê gớm hơn mối đe dọa về quân sự. Đe dọa về quân sự có thể là hiệu ứng ngắn hạn, còn việc bị cái gọi là các nhà nước “dân chủ” bao vây là hiệu ứng dài hạn.

Hai là, sự độ lượng và khoan dung của nước Mỹ. Bạn nên sang châu Âu, sau đó sang Mỹ, bạn sẽ thấy một sự khác biệt lớn: Sáng sớm, các đường phố lớn ở châu Âu chẳng có người nào cả, còn tại Mỹ sáng sớm các phố lớn, ngõ nhỏ đều có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày như thế. Tôi có một câu nói: Tập thể dục là một phẩm chất, tập thể dục đại diện cho một kiểu văn hóa khí thế hừng hực đi lên. Một quốc gia có sức sống hay không, chỉ cần xem có bao nhiêu người tập thể dục là biết. Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần lót để mặc. Hồi ở Mỹ, tôi có mua một chiếc quần cộc cờ sao vạch. Tôi thường xuyên mặc chiếc quần ấy. Tôi mặc nó là để khinh miệt, là để trút giận, làm một dạng trút sự bực bội và thỏa mãn về tâm lý. Người Mỹ mặc nó là sự trêu trọc bỡn cợt, bản chất khác. Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ nước mình ngoài phố. Đới Húc (đại tá không quân, người viết nhiều chuyên mục quân sự, chính trị) nói: Nếu một quốc gia có thể đốt cả quốc kỳ của mình thì anh còn lý do gì đi đốt quốc gia ấy?

Ba là, sức mạnh vĩ đại về tinh thần và đạo đức. Đây là điều đáng sợ nhất. Vụ 11/9 là một tai nạn. Khi tai họa ập xuống, thể xác ngã xuống trước tiên, nhưng linh hồn vẫn đứng. Có dân tộc khi gặp nạn, thể xác chưa ngã mà linh hồn đã đầu hàng. Trong vụ 11/9, có xảy ra 3 sự việc đều có thể khiến chúng ta qua đó nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ. Thứ nhất, sau khi phần trên tòa nhà Thương mại thế giới bị máy bay đâm vào, lửa cháy đùng đùng, tình thế ngàn cân treo sợi tóc, khi mọi người ở tầng trên qua cửa thoát thiểm chạy xuống phía dưới, tình hình không rối loạn lắm. Người ta đi xuống, lính cứu hỏa xông lên trên. Họ nhường lối đi cho nhau mà không đâm vào nhau. Khi thấy có đàn bà, trẻ con hoặc người mù tới, mọi người tự động nhường lối đi để họ đi trước, thậm chí còn nhường đường cho cả một chú chó cảnh. Một dân tộc tinh thần không mạnh mẽ đến mức nhất định thì dứt khoát không thể có hành vi như vậy. Đứng trước cái chết vẫn bình tĩnh như không, e rằng không phải là thánh nhân thì cũng gần là thánh nhân. Việc thứ hai, hôm sau ngày 11/9, cả thế giới biết vụ này do bọn khủng bố người Arập gây ra. Rất nhiều cửa hàng, tiệm ăn của người Arập bị những người Mỹ tức giận đập phá. Một số thương nhân người Arập cũng bị tấn công. Vào lúc đó, có khá nhiều người Mỹ tự phát tổ chức đến đứng gác trước các cửa hiệu, tiệm ăn của người Arập hoặc đến các khu người Arập ở để tuần tra nhằm ngăn chặn xảy ra bi kịch tiếp theo. Đây là một tinh thần thế nào nhỉ. Chúng ta thì từ xưa đã có truyền thống trả thù. Thành Đô nơi tôi ở, ngày xưa sau khi Đặng Ngải chiếm được Thành Đô, còn trai của Bàng Đức đã giết sạch già, trẻ, gái, trai gia đình Quan Vũ. Trả thù đẫm máu, lịch sử loang lổ vết máu không bao giờ hết. Việc thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 bị rơi ở Pennsylvania vốn dĩ bị không tặc dùng để đâm vào Nhà Trắng. Sau đó hành khách trên máy bay vật lộn với bọn khủng bố nên mới làm máy bay rơi. Vì lúc đó họ biết tin tòa Thương mại thế giới và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào nên họ quyết định không thể không hành động, phải đấu tranh sống chết với bọn khủng bố.

Cho dù trong tình hình ấy, họ còn làm một chuyện thế này: Quyết định biểu quyết thông qua có nên chiến đấu với bọn khủng bố hay không. Trong giờ phút giữa sự sống và cái chết ấy, họ cũng không áp đặt ý chí của mình lên người khác. Sau khi toàn thể mọi người đồng ý, họ mới đánh bọn không tặc. Dân chủ là gì? Đây chính là dân chủ. Quan niệm dân chủ đã thấm vào sinh mạng, vào máu và xương cốt của họ. Một dân tộc như thế mà không hưng thịnh thì ai hưng thịnh. Một dân tộc như thế không thống trị thế giới thì ai có thể thống trị thế giới. Tôi thường có ý nghĩ quái lạ như thế này: Những vũ khí và khoa học kỹ thuật tối tân nhất và lực lượng vũ trang mạnh nhất trên thế giới nếu nằm trong tay những người như thế là rất thích hợp. Đương nhiên là tốt hơn nằm trong tay người Nhật, người Libi, người Irắc. Cho dù nằm trong tay chúng ta thì chúng ta có thể làm gì, điều đó cũng chưa thể biết. Nước Mỹ, quốc gia có rất nhiều kinh nghiệm thành công, đáng để chúng ta tham khảo học tập. Sau vụ 11/9, Mỹ không thành lập Ủy ban 11/9, không lập Bộ Chỉ huy ứng phó tình trạng khẩn cấp. Tôi cực lực phản đối những thứ không thực tế. Sau khi đến không quân Thành Đô, tôi chủ trương hoặc không họp hoặc ít họp hành. Cuộc họp nào không thể không họp thì họp ngắn thôi. Tôi đến không quân Thành Đô, điều đầu tiên phải làm là thay đổi việc học tập của các ủy viên thường vụ thành tự học. Cầm văn kiện đọc thì học được cái gì kia chứ. Tôi đang đấu tranh với thế lực thói quen. Sức mạnh của cá nhân tôi có hạn, nhưng không thể không đấu tranh. Dù cho sứt đầu mẻ trán cũng không nản lòng. Chẳng hạn, khi xuống đơn vị tôi thường không ăn cơm, chỉ cần có thể về trong một ngày, tôi đều đem theo lương khô, tôi không ăn ở đơn vị. Khi tôi đến sư đoàn 33, ở quân khu không quân Bắc Kinh cũng như vậy. Nếu đành phải ăn, tôi chỉ ăn đơn giản thôi. Tuy nói uống một hai chén rượu chưa đủ làm đổ cờ đỏ, một bữa cơm chưa thể mất giang sơn, nhưng quá nhiều, sẽ rất lãng phí, dần dần tích tiểu thành đại thì khó nói. Có người nói đánh Đài Loan không cần dùng vũ khí gì mới cả, chỉ cần phái mấy “cán bộ … thực sự” lên đảo ăn nhậu ở đó 2 hay 3 năm gì đó, đảm bảo chắc chắn sẽ ăn hết của họ. Có một câu chuyện cười nói về chuyện họp hành, có một cục trưởng, bị bệnh sắp qua đời, nhưng không trút được hơi thở cuối cùng. Vợ ông nói, các con đều đến đông đủ rồi, ông yên tâm mà lên đường đi, không được, chưa chết được. Vợ ông lại nói, mọi việc đều thu xếp ổn thỏa rồi, ông yên tâm mà lên đường đi, không được, chưa chết được. Vợ ông lại nói, tài sản trong nhà đều thu xếp xong rồi, ông đi đi, không được. Sau đó có mỗi thư ký là tương đối hiểu ông, lại gần khẽ nói vào tai ông: “Cục trưởng, mọi người đến đông đủ rồi, họp thôi.” Cục trưởng mãn nguyện rồi nhắm mắt. Đương nhiên, câu chuyện này chỉ là bịa ra thôi, nhưng cho thấy sự chán ghét, phản cảm của mọi người đối với thói quen đó.

Sự kiện 11/9 không những là cơ hội của Mỹ, mà còn là cơ hội của Trung Quốc. Làm không tốt, Trung Quốc chính là vật hy sinh lớn nhất của sự kiện này. Mấu chốt là nắm bắt như thế nào, khi mà toàn thế giới đều đối mặt với việc lập lại trật tự. Nghiên cứu nước Mỹ, chúng ta nên nắm bắt nội hàm thực sự của nó. Không thể chỉ xem cái nhỏ, mà phải xem cái lớn. Có một câu nói hay: thường bàn luận về khuyết điểm của người khác, bạn là một kẻ có trình độ đạo dức thấp; thường bàn luận về khuyết điểm của nhân loại, bạn là một nhà tư tưởng.

Hôm nay, giảng cho các bạn hơn 3 giời đồng hồ, mục đích của tôi và mục đích mà tôi đang theo đuổi là sự giải phóng nhân loại. Tôi tin tưởng, hôm nay, tôi đến giản bài cho các bạn, thà là tôi quen các bạn, còn hơn, là các bạn quen tôi. Tôi rất rộng lượng, và muốn truyền đạt tất cả những gì tôi biết cho các bạn. Trước mặt các bạn, tôi giãi bày hết tâm tư của tôi. Đặc biệt ở phần cuối tôi có thể nói về cách nhìn nhận của tôi đối với phương Tây và Mỹ, nhưng không hề rời khỏi chủ đề chính của buổi nói chuyện hôm nay. Có hai điều tôi cần bổ sung thêm một chút, thứ nhất, tôi là kẻ chủ nghĩa dân tộc làm lợi ích cao nhất. Vì lợi ích đó mà tôi có thể đầu rơi máu đổ, thịt nát xương tan. Trong tâm trí tôi thường lưu giữ một hình ảnh của chiến tranh Triều Tiên; mùa Đông năm 1951, bố tôi và bộ đội ở đó tấn công quân Mỹ. Vì vũ khí không bằng quân Mỹ, cần phải mai phục để tiếp cận quân địch ở khoảng cách gần nhất trong đêm. Một đại đội lặng lẽ mai phục cả đêm. Đêm đó, tuyết rơi rất dày, trời lạnh. Đến sáng, tiếng kèn xung phong của quân ta nổi lên, hơn 100 chiến sỹ đang mai phục không ai bật dậy. Thì ra tất cả họ đều đóng băng mà chết. Đến chết họ vẫn giữ vững đội hình chiến đấu. Sau này, Chủ tịch Mao Trạch Đông nghe báo cáo về chuyện này, ông lập tức bỏ mũ xuống, đứng nghiêm, không nói rất lâu. Năm 1962, trong cuộc chiến tranh phản kích tự vệ biên giới Trung – Ấn, quân ta tiêu diệt một đội quân của Ấn Độ, năm đó, đội quân này từng đặt trong hàng lối quân đội Anh, từng tham gia Chiến tranh nha phiến lần thứ hai, từng đốt cháy vườn Nguyên Minh. Sau khi Chủ tịch Mao Trạch Đông nhận được điện báo, vô cùng tức giận, đập bàn đứng dậy, nói: “quốc nhục trăm năm!”. Đồng thời, các đồng chí còn cần nhận thấy, tình hình trong nước của Trung Quốc không giống với phương Tây. Tuy có một số sự việc vẫn chưa nhìn thấy. Ví dụ, mấy ngày trước, trong lúc đang tranh cử, Thủ tướng Đức Gerhard Schroeder chỉ vỉ một vấn đề nhỏ suýt nữa thua trận. Vấn đề là gì? Đó là ông ta đã nhuộm tóc. Ở nước ta, chuyện nhuộm tóc đã là gì? Yêu cái đẹp, ai chẳng yêu. Yêu sự trẻ trung, ai chẳng vậy. Dường như không có lãnh đạo nào của chúng ta không nhuộm tóc. Nhưng ở phương Tây thì không được. Bởi các lãnh đạo nhuộm tóc nghĩa là đang cho người ta xem vẻ bề ngoài, là biểu hiện của sự không chân thực, là lừa gạt, dối trá. Và chính trị gia làm như vậy, sẽ bị đặt dấu hỏi. Có thể thấy, họ khắt khe đến nhường nào!

Hôm nay, lần đầu tiên gặp mặt với các cán bộ cấp tiểu đoàn trở lên ở căn cứ Côn Minh, tôi nói nhiều như vậy với thái độ vô cùng thẳng thắn, mạnh dạn, đây đều là thành quả nghiên cứu của tôi, tôi tự chịu trách nhiệm trước lời nói của mình. Chỗ nào nói đúng, các bạn hãy ghi nhớ trong lòng, chỗ nào nói sai, các bạn coi như nghe tai bên này, cho ra tai bên kia, mủm mỉm cười cho qua, đừng cho là chuyện gì cả. Mỗi một con người đều là một cá thể, mỗi một cá thể đều là tự do. Tôi không thể áp đặt tư tưởng của tôi cho các bạn, và càng không thể yêu cầu thống nhất tư tưởng của các bạn vào một tư tưởng nào đó, đó là chuyện không thể, nhưng chúng ta vẫn muốn theo đuổi khả năng đó, đây là chuyện vô cùng hão huyền. Trên thực tế, không thể là được. Tôi xin tạm dừng ở đây. Xin cảm ơn các bạn!

—–

* Bài này đã được tóm lược, trích đoạn, đăng trên một số báo VN, theo TVN, ông còn là “con rể cố Chủ tịch nước Trung Quốc Lý Tiên Niệm, từng là giáo sư thỉnh giảng của ĐH Stanford Mỹ, đồng thời là một nhà văn có tiếng”. Ảnh:Tuần VN

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt