Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2010

Trích Nhật ký Cải cách Ruộng đất

TRẦN HUY LIỆU

Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Văn Bính, tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ ngày 18/5/1953

Nhưng mình không dự hội nghị, mà đi dự cuộc đấu địa chủ Nguyễn Văn Bính tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ…
Theo lối rẽ vào xã Trung Thần, đã thấy từng tốp người từ các ngả đường kéo đến… trong đó có cả những bà bồng bế con thơ… đôi người đàn bà mặc quần mới. Lũ trẻ con giành nhau chạy trước. Một thanh niên leo lên cây me vệ đường rung cây cho quả rơi xuống để mọi người nhặt… Mình có ấn tượng như đi xem hội ở vùng quê. Họ không nói chuyện gì về đối tượng sắp đem tranh đấu cả.

Vào một nhà tập hợp.
Những ủy viên chấp hành nông hội xã và cán bộ đội công tác đương tíu tít về những công việc tổ chức.
Ban tiếp tế nấu từng chảo cơm, bày từng dãy mâm cơm cho những “tân khách”, ai muốn ăn thì ghi tên vào với giá tiền 3.000 đồng một bữa. Mình mặc dầu đã mang cơm nếp đi theo cũng ngồi vào ăn.
Dọc đường đi đến trường sở ở trong rừng, có dân quân du kích và công an xã vác súng đi lại canh gác. Từng chòm người ngồi xúm xít dưới gốc cây hay trong một chiếc nhà trống. Một chị phụ nữ bán xôi và bánh khúc tha hồ đắt hàng.
Nhưng cho mãi đến gần 11 giờ, cuộc đấu mới bắt đầu. Vì thôn nọ phải chờ thôn kia, xóm nọ phải chờ xóm kia. Có người đi từ sáng sớm, chưa kịp ăn cơm. Có người gần trưa mới tới.
Ban tổ chức đã không giao trách nhiệm chặt chẽ những người phụ trách các khu vực hướng dẫn quần chúng đến cho được đúng giờ hay ít nhất là không chậm trễ quá.

Mình cố ý ngồi lẫn vào từng đám quần chúng để nghe ngóng dư luận, nhưng không thấy gì.
Một anh bạn hỏi người ngồi bên thì y nói: “Tôi đối với ông ấy (chỉ địa chủ Tổng Bính) cũng không có chuyện gì”.
Ban tổ chức đi gọi người nào có “vấn đề” với địa chủ thì vào trước.
Một số lững thững đi vào.
Có người không chịu vào trước, nói: “Tôi có ít thôi, để nói vào cuối cùng”.
Nhưng có ai biết được người tố cuối cùng sẽ là ai?

Trường sở tranh đấu tại một khu rừng thưa, gần cánh đồng, bên một cái đình.
Không có hầm hố tránh máy bay gì cả.
Cũng may trời nắng ráo. Mưa thì sẽ ra sao?
Ngoài lá quốc kỳ và ảnh Hồ Chủ tịch, những khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”, “Triệt để giảm tô, kể cả thoái tô. Thực hiện giảm tức, phát triển sản xuất. Thực hành tiết kiệm” và một chiếc băng dài đề “Đả đảo và trừng trị xứng đáng tên địa chủ cường hào gian ác Nguyễn Văn Bính”.
Mình nhận thấy không có một khẩu hiệu phản đế nào.
Một thói quen trong lúc này là người ta mải nhìn vào địa chủ phong kiến mà quên kẻ thù đương phải tranh đấu bằng vũ trang là đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ.

Trước mấy chiếc bàn để dành cho chủ tịch đoàn và ban thư ký, một chiếc bục kê lên cho địa chủ quỳ và đằng sau có những biển quy định chỗ ngồi: “địa chủ ngoan cố”, “địa chủ đã thanh toán”, “phú nông nói láo”, “phú nông chưa thành khẩn” và “những người phú nông”.
Số quần chúng đến dự độ 700 trở lại. Có cả một số bộ đội và nhân viên cơ quan ở gần. Ban điện ảnh Nha Thông tin có đến quay phim.
Theo lời căn dặn của chủ tịch đoàn, thì, khi máy quay phim kêu sè sè, mọi người không nên nhìn vào, mà phải “căm thù địa chủ”.

Lễ khai mạc bắt đầu.
Trên ghế chủ tịch đoàn là ban chấp hành nông hội, nghĩa là bần, cố, trung nông. Có cả một phụ nữ và một thương binh.
Phát ngôn nhân của chủ tịch đoàn cũng dõng dạc mạnh bạo, không kể vô số những sai lầm về danh từ cũng như về văn phạm. Nhưng những lời tuyên bố đầu tiên đã lộn xộn giữa phú nông và địa chủ.
Người ta không nói ngay đến địa chủ thủ phạm, mà đã kể đến từng “tên” phú nông thuộc các loại, do du kích áp giải “mời” đến hội trường.
Chủ tịch truyền lệnh cho cử tọa hễ thấy địa chủ vào thì hô đả đảo.
Một việc làm không cần đến mệnh lệnh.
Đến lượt địa chủ vào. Hai tay bị trói quặt ra sau, nhưng vẫn phải bò từ ngoài vào, đeo bên mình những gói quần áo.
Ngoài tiếng hô đả đảo, những người ngồi gần lối y vào cũng với tay ra đánh tát tơi bời. Không đợi để quỳ lên bục, một người đã túm lấy tóc mà “tố”.
Trận vũ bão bắt đầu.

Mình đã đọc hồ sơ của B., biết rõ tội ác của B.
B. trước làm Lý trưởng rồi Phó tổng hồi Pháp thuộc.
Sau Cách mạng tháng Tám, B. làm chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến xã rồi UBHCKC huyện.
B. cũng là đảng viên cộng sản đầu tiên ở đây.

Một số người vào tố đầu tiên buộc tội B. đã làm tay sai cho Cung Đình Vận, Tuần phủ Thái Nguyên ngày trước, để lùng bắt Việt Minh và đồng chí Chu Văn Tấn.

Tuy vậy, ngoài một người ra, hầu hết những người khác đều không đem được ra những bằng chứng cụ thể.
Có người không nói được rõ cả việc xảy ra ở đâu ngày tháng nào.
Kết quả là B. chỉ nhận sau cuộc Nhật đảo chính Pháp, có nhiều trộm cướp xảy ra, mình làm Tổng lý phải đem lính dõng và tuần phiên đi canh gác, thế thôi.

Đến lượt tố các vấn đề kinh tế.

Một điểm đáng chú ý là trong khi đấu tố địa chủ mà không nổi bật lên cái gì là chiếm đoạt ruộng đất hay tô tức. Người ta chỉ len vào những việc phụ khác như ăn hối lộ, quỵt tiền công, tham ô, đánh người…
Có một số người mà phần nhiều là phụ nữ tố tên B. bằng một giọng kể lể tự nhiên thì được công chúng nghe rõ ràng và thấm thía.
Một bà đau xót vì chồng bị B. đánh 3 cái ba toong và khi B. vào nhà bà sục bắt cán bộ thời bí mật, cán bộ chạy làm vỡ một rổ bát để nhà bà không có cái bát mà ăn.
Một chị ở giơ cái chân khấp khểnh vì bị sâu quảng để truy nguyên vì B. mà què chân. Một anh ở khác tố cáo vì B. không cấp thẻ thuế thân trong thời Pháp thuộc nên không đi đâu được.
Tuy vậy, có bà kể lể vì bị quỵt 3 nồi thóc, đi tới kết quả là con ốm bị chết để kết luận bằng câu: “Vậy mày có trả tao 3 nồi thóc không?”. Cũng một bà khác có anh ở cho B. ốm chết, rồi cũng suy luận theo kiểu trên để đi tới đòi mấy nồi thóc tiền công.
Một chị Chấp hành Nông hội, ngồi ghế chủ tịch đoàn là chị Bân đã tố B. cướp một con trâu với tinh thần căm tức dào dạt, nhưng chị vừa nói vừa vỗ tay xỉa xói vào mặt B. khiến mình có cảm tưởng như nghe cuộc cãi nhau của một mụ bán hàng chua ngoa ở chợ Đồng Xuân.

Ngoài ra, không thiếu những điều vô lý đến phì cười.
Có người tố B. đã quyên tiền của mình để đóng cho Việt Minh trước cuộc Cách mạng tháng Tám mà không nói rõ B. đe dọa nếu không quyên thì sẽ bị giết.
Có người tố B. đã làm chết hai du kích chỉ vì B. đã phái đi bố trí trong khi quân Pháp tiến lên Thái Nguyên năm 1947.
Có người còn tố B. đã làm thịt lợn đãi du kích mà con lợn đó là lợn nhà của B.
Một anh tự xưng là bộ đội Anh Bắc trước cuộc cách mạng trong khi tố B. đã không quên “quảng cáo” cho B. là B. đã đốt bằng sắc của thời Pháp thuộc.
Một anh phu phà nhắc lại chuyện năm xưa đã bị B. đánh một cái tát vì té nước vào quần B. rồi cứ sừng sộ mãi: “Mày có phải là cán bộ không?”.

Nhiều người tố giác B. đã thừa cơ ăn cắp vải, đồng hồ, súng lục… khi quân ta đánh chiếm Thái Nguyên tháng 8-1945.
Rồi sau khi nghe B. phân trần, người ta vẫn cứ truy mãi: “Thế còn đạn mày lấy ở đâu?”.

Cuộc tranh đấu càng kéo dài, những vấn đề đem ra tố càng trở nên lung tung, tản mạn.
Một chị phụ nữ là y tá của một cơ quan cũng lăng xăng chạy vào hỏi chiếc bút Pắc-ke bị mất năm trước khi cơ quan còn đóng ở nhà B.
Một người khác kể tội B. khi dạy học đã dùng thước đánh mình.
Nói tóm lại, người ta không còn thấy gì là tính chất giai cấp đấu tranh của nông dân chống địa chủ nữa.

Nếu mình hôm ấy chỉ là một người xa lạ đến dự thì sẽ không biết B. có phải là địa chủ cường hào gian ác không và vì sao phải đem ra đấu tố?
Khuyết điểm là chủ tịch đoàn, trước khi đem tố, không giới thiệu tóm tắt những tội trạng của y rồi mọi người đem bằng cớ ra để chứng thực.
Những phần tử cốt cán đem ra tố, đã bị bồi dưỡng theo một kiểu cách sai lệch đến lố bịch.
Đại đế anh nào chạy ra cũng đầu tiên vỗ ngực bằng một câu hỏi: “Mày có biết tao là ai không?” và “Mày đã dựa vào thế lực nào?”, “Đéo mẹ tiên sư mày, không nhận tao đánh bỏ mẹ bây giờ”… bằng những cử chỉ hùng hổ và quát tháo om sòm, lại không có lý lẽ gì cũng như không đem được ra chứng cứ.
Ngu ngốc đến nỗi khi nhắc đến những việc làm thời Pháp thuộc của B, rồi hỏi: “Mày đã dựa vào thế lực nào?”, là có ý chỉ vào thế lực đế quốc cái đó đã đành.
Tới khi hỏi những việc làm của B. bằng danh nghĩa chính quyền của ta, cũng cứ gạn hỏi: “Mày đã dựa vào thế lực nào?”.
Và nếu quên hỏi câu này thì lại có người nhắc hỏi.
Đã thế, không cho “phạm nhân” được trả lời, vì trả lời tức là “ngoan cố”.

Những tiếng quát tháo: “Mày còn chối tao đánh bỏ mẹ bây giờ” và những tiếng hò hét của công chúng ở ngoài: “Không cho nó nói”, “Không cho nó phân trần” chỉ tỏ ra những hèn kém, yếu ớt không tin được vào lý lẽ của mình.

Sau khi chủ tịch đoàn đọc bản cáo trạng, mình phải lấy làm ngạc nhiên là cuộc tố đã không nêu ra được tội trạng của B.
Chẳng những thế, người ta bắt tội nhân phải quỳ trên sàn gỗ tính ra từ 11 giờ đến 4 giở rưỡi chiều.
Mỗi khi tội nhân run rẩy gục xuống thì những tiếng thét từ xung quanh lại vang lên: “Quỳ cao lên!”.
Anh du kích đứng sau lưng thỉnh thoảng lại dọi một báng súng mỗi khi thấy phạm nhân quỳ thấp xuống, nghĩa là đặt đít vào hai gót chân.
Có lúc chủ tịch đoàn ra lệnh cho B. được ngồi xuống một tí thì người tố và quần chúng lại bắt quỳ cao lên.

Ngoài hình phạt bắt quỳ thường xuyên, người ta đã đánh đập tội nhân rất tàn nhẫn. Mỗi người ra tố, theo thói quen và bắt chước lẫn nhau, đều nắm tóc tội nhân để giật hỏi.
Sau mấy câu hỏi không đi đến đâu, người tố thấy mình trơ trẽn nên phải kết thúc bằng một cái tát để xuống đài.
Có người đã thoi vào mang tai tội nhân.
Có người đã đá phốc lên bụng.
Trong khi ấy, chủ tịch đoàn hay một vài người ở ngoài chỉ khuyên bằng một câu nhè nhẹ “Không cần đánh nó!” hay “Đánh nó thêm bẩn tay!”.

Trước mắt mình đã có một ấn tượng rất xấu: một anh, cứ cách năm, mười phút lại lên nắm tóc tội nhân hay xen vào cuộc đấu tố của người khác để hỏi một vài câu trống rỗng, rồi theo đó một cái tát.
Mình không thể thấy được ở y một căm thù giai cấp mà chỉ thấy ở y một hèn nhát của một kẻ đánh hôi trong trận đòn hội chợ. Mình còn thấy ở y, cũng như một số khác trong khi đánh đập tội nhân còn có ý biểu dương tinh thần trước mặt cán bộ.
Cũng hôm nay, mình còn thấy hai đứa trẻ con trong đám quần chúng cốt cán cũng luôn chạy ra bắt địa chủ phải quỳ cao và túm tóc đánh tát theo kiểu này.
Họ hiểu lầm hai chữ “đấu lực” bằng cách dùng nhục hình vô nhân đạo.
Họ không biết sức mạnh của giai cấp không phải đánh hôi một cách hèn nhát, có tính chất báo thù cá nhân.
Hiện tượng xấu xa này còn do ở những cán bộ của chúng ta, trong khi huấn luyện trong lớp cũng như nói ngoài quần chúng, là: “Kỷ luật thì cấm đánh ẩu, giết ẩu, nhưng nếu nông dân người ta căm thù quá độ mà đánh tát một vài cái thì cũng không sao”. Câu nói này đã trở nên như một châm ngôn.
Nó gợi bảo quần chúng là có thể đánh một vài cái được, miễn là đừng đánh chết.
Rồi đó, những kẻ lưu manh đã thừa cơ đánh để trả thù hay đánh để chơi, đánh cho thích.
Mình thật không muốn thấy nhục hình khôn nạn còn diễn ra dưới chính quyền dân chủ nhân dân này!

Hôm ấy, còn diễn ra một cảnh tượng nữa là người trong gia đình tên B. cũng được áp giải ra hội trường.
Trong đó có một bà cụ già khọm, mẹ của B, và một đứa trẻ độ 3, 4 tháng nằm trên bàn tay vợ của B.
Chủ tịch đoàn gọi vợ B. lên khuyên chồng thú nhận tội lỗi.
Cảnh này chỉ gây cho công chúng rủ lòng thương những kẻ mặc dầu đã sống vào bóc lột và áp bức đương bị trả thù!

Sau trận đấu, chủ tịch đọc bản cáo trạng và cho phép B. được ngồi nghe.

Đến lượt cho nói, B. phân trần là trước kia làm tổng lý thì sự áp bức bóc lột nông dân là điều không tránh khỏi.
Nhưng sau khi giác ngộ thì B. đã thấy rõ cuộc cách mạng của ta là đánh đổ phong kiến và đế quốc, làm cách mạng ruộng đất.
Trên con đường tiến của Liên Xô vĩ đại, B. không dại gì đi vào con đường chết. Từ sau Cách mạng tháng Tám, B. đã tích cực phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Nếu có những việc lặt vặt xảy ra, thì nó chỉ là bột phát, không chủ ý.
Nếu nhân dân giết y thì y chịu, chớ y không chịu nhận là phản cách mạng, mưu bắt cán bộ.

B. nói có thực không, đó là một chuyện.
Điều đáng ghi ở đây là cuộc đấu hôm nay đã không đạt được mục đích yêu cầu và không làm cho B. khuất phục.
Tuy vậy B. vẫn phải ký vào bản cáo trạng kể trên.

*

Đến lượt Phùng Thái Ký, một Hoa kiều địa chủ kiêm công thương nghiệp.
Từ sáng, Phùng vẫn ngồi dưới tấm biển đề “địa chủ ngoan cố”.
Thực ra Phùng không phải mục tiêu định đem đấu hôm nay. Nhưng chủ tịch đoàn vừa gọi ra chất vấn, Phùng nói líu tíu khó hiểu, thì mấy nông dân Hoa kiều đã ồ lại thoi đánh túi bụi con của Phùng.
Đến đây thì trật tự bị mất hẳn.
Chủ tịch đoàn bị động.

Cuộc chất vấn trở thành cuộc đấu. Những việc đem ra tố đều thuộc về hiềm thù cá nhân, xích mích xóm giềng giữa một số Hoa kiều, không có gì là tính chất của nông dân đấu địa chủ.
Hầu hết mọi người lại chỉ nhằm vào thằng con của Phùng, một thanh niên ngỗ ngược. Khác với Nguyễn Văn Bính, thằng con của Phùng không thể quỳ cho người ta đánh, mà lăn ra khóc hu hu.
Cuối cùng, hai bố con Phùng cũng phải ký vào bản cáo trạng, nhận bồi thường cho nông dân.

*

Ngoài hai địa chủ, đến lượt một số phú nông. Từ sáng, một số phú nông đã phải ngồi theo từng loại.

Khi mà cuộc đấu tố B. đến lúc quyết liệt nhất thì chủ tịch đoàn truyền lệnh cho đem những “phú nông” chưa chịu thanh toán ra một chỗ bắt phải nhận bồi thường cho nông dân. Mà ai cũng thấy rõ là một hình thức uy hiếp phú nông rõ rệt, vượt quá phạm vi “trung lập phú nông” theo sách lược của Đảng.

*

Sau cùng là những lời tuyên bố không phải của chủ tịch đoàn, mà của anh NQC, trưởng đội công tác xã Dân Chủ.
Anh hoan hô cuộc thắng lợi của nông dân và nhắc nhở về việc củng cố nông hội.

Nhưng cái điệu lệch của cán bộ là chỉ nhắc đến Hồ Chủ tịch, đến Đảng, mà không nói đến chính quyền dân chủ nhân dân.
Những khẩu hiệu hô trước khi mít tinh giải tán cũng thiếu hẳn khẩu hiệu chống đế quốc.

*

4 giờ rưỡi, mít tinh giải tán, mình ra về trong đám quần chúng, nhưng không nhặt được một dư luận nào thêm.
Nhọc mệt.
Bực bội.
Một vài ấn tượng xấu trong cuộc mít tinh vẫn ám ảnh trong đầu mình.

Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long ở hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ ngày 22/5/1953

Số người tới dự độ 1 vạn trở lại, ngồi chen chúc trong một khu đất dưới lùm cây hai bên là núi.
Hôm nay nắng nhiều, ánh mặt trời rọi vào khiến nhiều người phải cầm cành cây vừa che cho đỡ nắng, vừa để ngụy trang chống máy bay.
Nhưng làm thế thì hàng trước sẽ che lấp hàng sau, không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ cành lá đi và khi nắng quá thì dồn người sang hai bên…

Hôm nay cũng như hôm trước, chủ tịch đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa!
Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả đảo vang dậy và đòi phải đứng lên cao quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo.
Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên với một tràng lý lịch tư pháp mà không nêu tội ác. Tuy vậy quần chúng cũng chấm dứt từng đứa bằng một làn sóng đả đảo.
Quần chúng ghét nhất là đội Hàm, vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt đầy khiêu khích. Nhiều người hô bắt nó phải cúi mặt xuống.

Rút kinh nghiệm lần trước, chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò.
Bọn mẹ con và tay sai địa chủ được ngồi trên một cái bục dưới gốc cây.
Quần chúng lần lượt vào tố, từ loại vấn đề kinh tế đến chính trị và sau hết là chống chính sách chính phủ và nói xấu cán bộ.

Những người đấu tố hôm nay cũng có một phong độ và một nghệ thuật khác hôm đấu Tổng Bính. Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai không?”, “Mày dựa vào thế lực nào?” kèm theo cái tát để xuống đài không còn nữa.
Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người ở với Thị Năm lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với một giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm cho ai cảm động.

Còn anh Cò, một người thiểu số đã bị Hoàng Công (con Thị Năm) bắt vì có tài liệu Việt Minh, trước cuộc Cách mạng tháng Tám, bị tra tấn rất dã man, rồi trốn thoát trước giờ Công định lấy đầu nộp cho Cung Đình Vận.
Bằng một giọng chân thành đến ngây ngô, anh đã làm cho Công không chối cãi được nửa lời.


Cũng có không ít những người nói không đạt ý, không rõ việc.
Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội Thị Năm ở đâu?
Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm.
Ông Giồng tố cáo Thị Năm đã cướp gánh cỏ của ông cho ngựa nó ăn và giỏ củ mài làm cho cả nhà nhịn đói. Câu chuyện của ông đã được một văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ tràng thiên rất cảm động Nhưng hôm nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo. Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét.
Chị Lý, con nuôi của Thị Năm, được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị Thị Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Chị vừa nói vừa khóc. Nhưng không ai rõ chị nói gì.


Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ.
Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra.
Trong khi tố tên Công, nhiều người hỏi những câu vô ý thức: “Mày có xứng đáng là cách mạng không?”, “Mày nói mày là cách mạng mà như thế à?”.
Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”.
Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”.

Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”.
Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?”
Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên.

Về phía quần chúng, thì, khi nghe người tố không chịu bình tĩnh lắng nghe cho rõ sự việc cũng như luận điệu tố cáo, cứ việc “đả đảo” bừa đi. Nhiều lúc ầm ĩ quá làm không nghe gì được.
Một người trong chủ tịch đoàn cũng phạm một lỗi quá nặng.
Trong khi quần chúng đòi đem bày ổ thủ phạm ra ngồi ngoài nắng, lại trả lời: “Đem ra ngoài nắng ngộ nó lăn ra chết thì lấy gì mà tố?”. Đây là lời dặn của cán bộ với những phần tử cốt cán là không nên đánh đập địa chủ. Nếu lỡ tay đánh chết nó thì lấy gì mà tố. Hôm nay, vị chủ tịch ngốc nghếch kia đã theo ý đó nói toạc ra một cách công khai cho địa chủ biết.

Đến lúc đọc bản cáo trạng kết thúc, hội trường im lặng để lắng nghe trong một bầu không khí trầm nghiêm. Nhưng một vị chủ tịch đã đọc chữ nọ thành chữ kia. Có câu đọc đi đọc lại. Có lúc phải ngừng lại để lẩm nhẩm. Rồi mỗi lúc mỗi ngập ngọng thêm. Kết cục là nửa chừng phải thay người khác.
Về việc này, mình hỏi một cán bộ phụ trách thì được biết là trước khi đọc, bản chữ viết đã chú ý viết rõ ràng và vị chủ tịch nọ đã đọc đi đọc lại, đảm bảo là đọc được.

… Tính ra suốt ngày hôm nay không được uống nước dưới trời nắng. Trời tối, nhiều lúc lạc đường, về đến cơ quan một cách mệt mỏi.

Nhật ký ngày 31/5/1953

Sáng sớm, mình xuống xã Dân Chủ cùng hai người trong tổ kiểm tra để kiểm tra việc thoái tô, thoái tiền công và chia quả thực.
Nằm ở nhà một bần nông, sáng và chiều vùi đầu vào trong đám giấy tờ của đội công tác để tìm ra vấn đề.
Một điều nhận thấy là giấy tờ lộn xộn quá, vì kém văn hóa và thiếu khoa học. Thiếu đến cả những hình thức thông thường. Nhiều tài liệu phải vừa đọc vừa hỏi mới biết rõ sự việc.
Trong khoản nông dân bắt địa chủ và phú nông bồi thường có cả khoản trâu bò phá hoại hoa màu từ mấy năm trước. Đến cả bần, cô nông với trung nông cũng thanh toán cả món nợ từ năm nảo năm nào.
Có anh cố nông năm nay 39 tuổi khai bị một địa chủ quỵt công ở 25 năm, sau đem bình nghị phải giảm xuống 15 năm. Sau cùng là 9 năm.
Có người đòi công ở 2 năm tới 86 nồi thóc (mỗi nồi 22 cân) trong khi công ở mỗi người nhiều nhất trong một năm chỉ có 20 nồi.
Hơn nữa có anh bần nông bắt đến địa chủ bắn chết một con lợn 15 cân từ năm 1935 là 8 nồi thóc. Nếu tính theo giá hiện thời: 300 đồng bạc ngân hàng một cân thóc thì con lợn 15 cân ấy (kể cả lòng lẫn cứt), giá bồi thường mỗi cân tới 3.520 đồng, trong khi thời giá chỉ có 2.700 đồng. Ấy là chưa kể con lợn hồi ấy, địa chủ, người bắn chết, có ăn thịt không hay con lợn vẫn về nhà có lợn.
Đại để những việc như thế đã nói rõ sự lạm quyền thế mới lên và sự tham lam trắng trợn của một số bần, cố nông chưa được giáo dục.

Buổi tối, mình dự một tổ nông hội bàn về mấy nguyên tắc chia ruộng công.
Trong gian nhà bức, nóng, người đến dự vừa đau mắt, vừa buồn ngủ, mỏi mệt, uể oải sau một ngày làm việc dưới nắng hè để sáng mai lại phải dậy sớm đi làm.
Trong khi ấy, chủ tọa buổi họp là một cố nông không biết điều khiển gọn ghẽ, cứ hỏi đi hỏi lại, bắt mọi người đều phải phát biểu ý kiến. Có nhiều vấn đề trở đi trở lại mãi. Thêm vào đấy, mấy phần tử cốt cán cứ nói theo giọng cán bộ, tuôn một tràng dài những lý luận và danh từ không cần thiết.
Rồi, sau đó, cũng làm đủ mọi phương thức: phê bình hội nghị, duyệt y biên bản, kéo tới 11 giờ khuya.

Nguồn: Trần Huy Liệu – Cõi người. Tác giả: Trần Chiến. Nhà xuất bản Kim Đồng, 2009

Bài liên quan:
Thêm một số thông tin về bà Nguyễn Thị Năm và tỉ lệ địa chủ trong Cải cách Ruộng đất

Nguyễn Văn Kiến

Bà Nguyễn Thị Năm bị đấu tố và xử bắn lúc nào?

1. Theo cuốn Trần Huy Liệu – Cõi đời của Trần Chiến, Nhà xuất bản Kim Đồng 2009, thì ông Trần Huy Liệu, lúc đó là uỷ viên Thường trực Quốc hội, thanh tra Cải cách Ruộng đất tại hai xã Đồng Bẩm, Dân Chủ (Thái Nguyên). Ông dự cả hai buổi xử Nguyễn Văn Bính (ngày 18-5-1953) và bà Nguyễn Thị Năm (22-5-1953).

“Số người tới dự độ 1 vạn trở lại… của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên.”
( Xin lược bớt vì đã có ở trên)

2. Ông Vũ Hưng, năm nay 77 tuổi, năm 1953 là công nhân quốc phòng ở gần Đồng Bẩm, là đại diện công nhân trong “Công Nông Binh” dự cả hai lần đấu tố bà Năm cho biết: bà bị đấu tố hai lần. Lần đầu có cả chồng là Nguyễn Sơn Hà, và hai con trai. Bài ông Liệu tả chắc là lần thứ hai, vì không thấy nói đến chồng Nguyễn Sơn Hà. Sau đó vài tháng là xử tử bà.

3. Ông Đức Phú, con bà Năm sống ở Hải Phòng như ông nói là người cho bố mẹ tôi thuê nhà ở Hải Phòng từ 1947. Ông ít tuổi hơn bố tôi, và tôi sinh ra tại căn nhà đó, nghe nói ông cũng hay bế tôi. Tôi có tấm hình ông Đức Phú chụp với anh trai thứ hai của tôi. Bố tôi rất quý chú Đức Phú, nhưng ông chưa hề hé răng cho chúng tôi biết thân phận của bà Năm. Tôi biết được chú Đức Phú là con bà Năm cũng chỉ hơn một năm nay thôi, do anh cả tôi (75 tuổi) tình cờ kể lại. Gia đình nhà tôi cũng gặp chuyện không may trong Cải cách Ruộng đất nên bố tôi không muốn cho chúng tôi biết về những gì đã xảy ra thời đó, chắc để tránh cho chúng tôi “nhìn lệch”, ảnh hưởng tới việc học hành. Tiếc là bố tôi qua đời, không thì tôi sẽ biết thêm nhiều về chuyện này, vì anh cả tôi cho biết chú Đức có đưa hai em gái về Hải Phòng nuôi dịp 1953, rồi chú đi vào Nam trước khi Hiệp định Genève ký kết, chắc chú ấy cũng linh cảm trước những gì sẽ xảy ra.

4. Cách đây vài năm, gia đình bà Năm nhận “Tổ quốc ghi công” tặng bà danh hiệu liệt sĩ “hy sinh vì sự nghiệp quốc tế”. Hôm nào rảnh tôi sẽ tới gặp gia đình bà. Nghe nói một trong hai người con của bà bị đấu tố năm 1953, sau được phục hồi, về hưu với chức đại tá quân đội nhân dân, hiện còn sống ở phố Hàng Bạc, Hà Nội.

5. 5% số hộ hay số dân là địa chủ?

Theo ông Hoàng Nhật Tân (sinh 1928, con trai ông Hoàng Văn Hoan) lúc đó là phó ban Cải cách Ruộng đất ở Thái Nguyên (Hoàng Quốc Việt là trưởng ban) thì:

“Từ Uỷ ban cải cách trung ương truyền xuống một quy định miệng là mỗi xã phải có từ 3 đến 5 phần trăm số hộ là địa chủ thì mới tránh khỏi lọt lưới”. (trích Cái quan định luận, hồi ký của Hoàng Nhật Tân)

Năm 1981 tôi được ông Vũ Đình Địch (em ruột ông Vũ Hoàng Chương), người tham gia Cải cách Ruộng đất cũng cho biết là theo “kinh nghiệm của cố vấn Trung Quốc thì trong làng có 5% số hộ là địa chủ”.

Làng quê tôi sát Hải Phòng, là một làng nghèo, thế mà cũng phải đủ 5% số hộ là địa chủ, tìm ra được chừng 40 địa chủ. Nếu là 5% số dân là địa chủ thì còn nhiều gấp bội, phải tới con số hàng vài trăm. Ngay cả 40 địa chủ cũng đã nhiều rồi, nên những người đủ ăn, có ruộng đất cũng bị quy vào địa chủ cho đủ 5%, chứ 5% dân số trong làng là địa chủ thì có khi cả bần nông cũng bị quy thành địa chủ. Trong 40 chục địa chủ trên, có cả ông nội tôi, và đầu 1956 xử bắn 4 người cùng một lúc, trong đó có hai bố con. Ông bố là anh ruột mẹ tôi. Mẹ tôi phải đau lòng chứng kiến từ những ngày họ bị giam cho đến lúc xử tử. Hiện bà chị dâu, vợ của người con ông bác tôi vẫn còn sống, gần 90 tuổi.

——

Tin thêm và đính chính:
Ông Hanh, một trong hai người con của bà Năm bị quỳ khi đấu tố, hiện vẫn còn sống ở Hà Nội, gần 80 tuổi, năm 2009 ông nhận bằng "Tổ quốc ghi công" cho bà Năm “hy sinh vì sự nghiệp ngoại giao”.


Để Hương Ly tham khảo, làm tư liệu nghiên cứu.
Được đăng bởi NGUYỄN HỒNG KIÊN

Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2010

Thuyết trình "Các trường phái khảo cổ học lý thuyết trên thế giới"

Sáng ngày 25 tháng 9 năm 2010 tại phòng Multimedia của Bảo tàng Nhân học
TS. Nguyễn Gia Đối, Trưởng phòng Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học thời đại Đồ đá, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã mở đầu chương trình thuyết trình và ngoại khóa của Bảo tàng Nhân học năm học 2010-2011.

Chủ đề thuyết trình: Các trường phái khảo cổ học lý thuyết trên thế giới

Loài người ngay từ thời xa xưa đã rất quan tâm tới đồ cổ, nhưng trên thực tế Khảo cổ học với tư cách là một ngành khoa học mới xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XIX và được đánh dấu bằng hai sự kiện nổi bật, một ở Đan Mạch và một ở Anh. Cống hiến của Đan Mạch đó là lý thuyết về "Ba thời đại" đồ đá - đồ đồng - đồ sắt của J. Thomsen trong phân loại, sắp xếp theo tuổi - thời gian của chất liệu hiện vật công cụ hay vũ khí. Gắn với nước Anh lại là phương pháp địa tầng.
Thế kỷ XX là thời kỳ hình thành và phát triển ngành khảo cổ học hiện đại. Đối lập với xu thế thiên về khai thác tính đồ cổ và hiện vật đơn lẻ của khảo cổ học cổ điển, khảo cổ học nhân học ngày nay đề cập đến văn hoá lịch sử (tức là niên đại của sự kiện và truyền thống văn hoá) và diễn giải các quá trình văn hoá.
Từ giữa thế kỷ XX một số nhà khảo cổ học châu Âu và Mỹ đã khai sinh ra Khảo cổ học Mới (New Archaeology). Khảo cổ học Mới gắn liền với khoa học nhân học, hay khảo cổ học nhân học. Hiện nay đã hình thành nhiều trường phái khác nhau của khảo cổ học mới như khảo cổ học biểu tượng, khảo cổ học phê phán, khảo cổ học nhận thức, khảo cổ học kinh nghiệm, khảo cổ học quá trình, khảo cổ học hậu quá trình…. Những trường phái này giải mã và tiếp cận di tích, di vật khảo cổ học từ nhiều góc độ khác nhau và chú trọng đặc biệt tới diễn giải văn hoá-xã hội.

Từ kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn và kết hợp với những kiến thức thu thập được trong quá trình tu nghiệp ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, TS. Nguyễn Gia Đối đã có một số bài giới thiệu về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu khảo cổ học trên tạp chí Khảo cổ học. Trong bài thuyết trình tại Bảo tàng Nhân học trong thời gian khoảng 4 tiếng TS. Đối đã phác họa một cách khái quát quá trình hình thành, đặc điểm và đại diện của một số trường phái khảo cổ học tiêu biểu trên thế giới:

1. Khảo cổ học Lịch sử- Văn hóa ( tư tưởng cốt lõi (key concept) là tiến hóa luận đơn tuyến và truyền bá luận (diffusionism)
2. Cấu trúc-Chức năng luận (tư tưởng cốt cõi (key concept) là tiến hóa luận đa tuyến
3. Khảo cổ học Mác xít/ Khảo cổ học Xô Viết
4. Khảo cổ học Quá trình
5. Khảo cổ học Hậu quá trình

Một chủ đề quan trọng khác của nội dung thuyết trình là đánh giá vị trí và vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam.
Việt Nam là một đất nước phát triển muộn về khảo cổ học. Khoa học khảo cổ ở nước ta được hình thành từ thời Pháp thuộc với ảnh hưởng mạnh của trường phái Khảo cổ học Lịch sử-Văn hóa mà đặc biệt là truyền bá luận. Từ sau năm 1954, nền khảo cổ học Việt Nam chịu ảnh hưởng của khảo cổ học Xô Viết, tuy nhiên điểm khác biệt căn bản giữa khảo cổ học Việt Nam và khảo cổ học Xô Viết đó là khảo cổ học nước ta không có truyền thống và việc tiếp cận khảo cổn học lý thuyết vẫn còn mang nặng tính hình thức.

Có thể đồng ý hoàn toàn với đánh giá của TS. Nguyễn Gia Đối và nhiều người khác rằng những nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam vẫn mang nặng tính tự phát, thời vụ và rất khó để xác định thuộc trường phái lý thuyết nào.

Xin nhắc lại ý kiến của GS.Hà Văn Tấn: “Trong các tác phẩm về khảo cổ học Việt Nam, chủ yếu vẫn là tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước” và “cần phải xây dựng một lý thuyết khảo cổ học Mác xít thật sự, đồng thời có kết hợp tinh hoa của các trường phái khác nữa”!

Bước chân vào khoa học, bất cứ là ngành khoa học nào mỗi người nghiên cứu cần phải trang bị cho mình những hành trang tối thiểu về kỹ năng, về lý thuyết và phương pháp. Đối với khảo cổ học, cả lý thuyết và cả thực tế đều có tầm quan trọng như nhau. Không thể làm khảo cổ học nếu chỉ có lý thuyết suông cũng như không thể làm khảo cổ học nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm thực tế!

Đa phần sách về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu khảo cổ học bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Đối với những sinh viên mới bước chân vào ngành khoa học này, một số tài liệu dịch sau đây sẽ rất hữu ích

1. Colin Renfrew, Paul Bahn, 2007: Khảo cổ học Lý thuyết, phương pháp và thực hành, Bản dịch của Đặng Văn Thắng, Lê Long Hồ và Trần Hạnh Minh Phương, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tư liệu Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXHNV - ĐHQG Hà Nội.
2. David J.Meltzer, Don D.Fowler, Jeremy Sabloff (Chủ biên), 2006: Khảo cổ học Mỹ, quá khứ và tương lai. Bản dịch của Lâm Thị Mỹ Dung và Chu Hương Ly, tư liệu Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Hà Nội.

3. Hà Văn Tấn, 1996: Khảo cổ học lý thuyết, Giáo trình sau Đại học, tư liệu Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Hà Nội

Hình ảnh của buổi thuyết trình

Vẫn có người cho rằng khảo cổ học chỉ cần thực tiễn, không cần lý thuyết. Minh chứng cho điều này TS. Đối kể một câu chuyện cười về sự đồng âm trong tiếng Anh giữa nhà lý thuyết (theorist) và tên khủng bố (terrorist)

Rất khó để thuyết trình một cách hấp dẫn những vấn đề lý thuyết. Bằng những ví dụ minh họa cụ thể, TS.Đối đã thuyết phục người nghe và dẫn sinh viên đi vào lĩnh vực khô khan này một cách từ tốn mà chắc chắn. 

Thứ Tư, 22 tháng 9, 2010

"Phong phú" như… thầy, cô chửi trò!

PN - Hiệu trưởng một trường THCS thừa nhận, tại trường của cô đã từng xảy ra chuyện GV mắng học trò: “Học ngu như em thì mai mốt có nước đứng đường”. Vì câu nói đó mà HS đã có ý định tự tử, may là PH can thiệp kịp.
Ngoài kiến thức, khi đến trường, học sinh (HS) còn học được ở thầy cô giáo những điều hay lẽ phải để sống ở đời. Nhưng trong nhiều trường hợp, cách ứng xử phản giáo dục của giáo viên (GV) đã để lại những vết sẹo trong tâm hồn HS.


Phản sư phạm


Chị Hoa (Q.5) ngao ngán kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện mà chị xếp vào loại “nhắc lại là thấy giận đùng đùng” vừa xảy ra chưa đầy một tháng. Là người chăm chút cho chuyện học của con nên chị đã bao quyển vở nháp của cháu đẹp như những quyển vở khác. Vì vậy, khi cô giáo bảo lấy vở nháp ra, cháu luống cuống tìm không thấy, cứ tưởng đã để quên ở nhà. Chuyện này khiến cô giáo tức giận, khẻ luôn mấy thước vào tay con bé, kèm theo câu: “Mất trí rồi hả, cho chừa cái tật đuểnh đoảng!”. Phản ứng của cô khiến con bé vô cùng bấn loạn, vừa tan trường là leo tót lên xe ôm đi một mạch về nhà, trùm mền nằm khóc, nhất định không chịu ra khỏi phòng, cũng không chịu đi học. Chị nói: “Để quên vở là chuyện nhỏ, GV có lời nói và hành vi như vậy là phản sư phạm quá!”.



Chị Hiền, một phụ huynh (PH) có con học lớp 2 tại Q.9, kể: “Đầu năm cháu được các bạn bầu làm lớp trưởng. Nghe chuyện này tôi rất lo vì cháu học không giỏi, không học trước, cũng chẳng học thêm, sợ không cáng đáng nổi. Y như rằng, chỉ được vài ngày là cháu có biểu hiện “lo ra”. Rồi cháu kêu đau bụng, không ngủ được, nửa đêm ngồi dậy thở dốc. Dỗ mãi, cháu mới khai: đã hai lần bị cô giáo chê trước lớp “lớp trưởng gì mà chậm như rùa!”.


Chuyện GV hoặc vô tình hoặc cố ý trong cách cư xử, lời nói, gây stress cho HS là khá phổ biến. Hiệu trưởng một trường tiểu học ở Q.4 kể: có GV không kiềm chế được tức giận đã gọi HS là “con mọi đen” khiến cả HS, PH đều bị sốc và phản ứng dữ dội. “Không được trắng trẻo, xinh xắn như các bạn khác đã là thiệt thòi với trẻ, GV không chia sẻ thì thôi, ai nỡ gọi trẻ đầy “miệt thị” như vậy, khiến trẻ càng bị tổn thương” - vị hiệu trưởng nói.


Lại có trường hợp, PH chưa kịp đóng tiền bán trú, cô giáo đã nêu đích danh HS trước lớp. Đến giờ cơm trưa, HS này còn được “đặc cách” cho ngồi chờ “bố mẹ đến đóng tiền thì mới được ăn”. Đáng nói là khi PH phản ánh với Ban giám hiệu, thay vì rút kinh nghiệm, an ủi HS, GV này lại xuống lớp… đôi co: “Tại cha mẹ cô (gọi HS bằng cô) không đóng tiền nên tôi mới cho cô về! Họp PH, cha cô ngồi ngay bàn đầu, sao không biết!”.


Hiệu trưởng một trường THCS khác thừa nhận, tại trường của cô đã từng xảy ra chuyện GV mắng học trò: “Học ngu như em thì mai mốt có nước đứng đường”. Vì câu nói đó mà HS đã có ý định tự tử, may là PH can thiệp kịp.


Giáo viên cũng cần có... kỹ năng sống


Trường học luôn được xem là “pháo đài” vững chắc của đạo đức nên lẽ ra phải là môi trường an toàn cho trẻ, nhưng thực tế vẫn có những “cơn sóng ngầm” do chính những thầy cô giáo đáng kính tạo ra. Cô H., một GV ở Q.3, lý giải: “Thầy cô giáo cũng là những người bình thường, cũng phải chịu áp lực bởi cuộc sống cơm áo hàng ngày nên có những lúc không kiềm chế được lời nói, hành động”. Đó cũng là một cách lý giải. Nhưng, phải nhìn nhận một thực tế là ban giám hiệu nhiều trường thường đánh giá năng lực sư phạm của GV thông qua điểm số mà HS đạt được cao hay thấp, GV có “trị” được HS, có cách buộc HS phải “vâng lời” không, mà không cần biết biện pháp thực hiện của GV như thế nào. Khi GV để xảy ra “sự cố”, HS bị stress, PH thưa kiện, sự việc cũng không được tìm hiểu và rút kinh nghiệm đến nơi đến chốn… Đó mới là nguyên nhân chính khiến những lời nói, hành động xúc phạm nhân phẩm HS vẫn còn “đất sống”.


Tiến sĩ tâm lý Võ Văn Nam (ĐH Sư phạm TP.HCM) ví von: “Tâm hồn trẻ thơ như “tờ giấy trắng” và người lớn chúng ta là “họa sĩ”. Nếu ta vẽ lên đó những nét vẽ đẹp thì tâm hồn của các em sẽ đẹp, còn ta vẽ lên đó những nét u tối thì sự u tối đó sẽ lưu lại trong tâm hồn các em đến suốt cuộc đời”.


Đã có ý kiến của PH cho rằng: phải có cách “bồi dưỡng” tâm hồn cho GV, phải giáo dục, tập huấn lại kỹ năng sống cho họ. Nghe có vẻ... sốc nhưng nhiều hiệu trưởng rất đồng tình, vì “nhiều GV trẻ (nói riêng) còn thiếu trải nghiệm, nhiều GV (nói chung) lại không có kỹ năng nhận khuyết điểm và rút kinh nghiệm”.


Minh Nhật - Hồng Liên
http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/www.phunuonline.com.vn/Phong-phu-nhu-co-chui-tro/4894532.epi

Mấy hôm nay Trường mình mất điện liên tục, nóng nực và không thể chiếu hình minh họa nên cô trò ngồi chuyện vãn với nhau, kèm theo ít hoa quả, bỏng ngô gọi là có tí ăn Trung Thu.  
Chuyện nọ sang chuyện kia, sở dĩ mình thân với sinh viên lớp này vì mình đã dẫn các em đi thực tập khảo cổ từ năm thứ nhất, nhiều đứa còn í ới gọi "u ơi " to tướng giữa sân trường mỗi khi gặp. Tâm sự với các em mới biết, thầy cô nhiều lúc vô tình hay cố ý đã xúc phạm các em ghê gớm.  
Sinh viên bức xúc rât nhiều chuyện từ chuyện khó nói như có một vài thầy "dê" hay thầy cô thích sinh viên "đi chùa", đến chuyện thầy cô khoa này chê bai nói xấu thầy cô khoa kia! 
Chuyện mắng mỏ, kỳ thị sinh viên xem ra không ít. Những câu kiểu "thằng béo", "con béo", "đồ đầu đất", "mặt mày mà cũng đòi..." lẽ ra không có chỗ trong môi trường học đường nhưng được một vài thầy cô phát huy hết tần xuất. Có bé nói như khóc:"Cô ạ, hồi năm thứ nhất, chúng em chân ướt, chân ráo lên Hà Nội học. Buổi học đầu tiên trên giảng đường, một cô giáo đã bắt đầu bài giảng bằng những lời miệt thị dân nhà quê chúng em ra làm cho Hà Nội tắc đường, thiếu nước, thiếu điện..." 

Có lẽ, cần phải tổ chức những lớp tập huấn về văn hóa ứng xử cho giảng viên đại học!

Không tôn trọng học trò thì bắt học trò tôn trọng sao được!  

Chân lý của Bờm và mối tương quan với cá tính người Việt đương đại

NGUYỄN HOÀNG
(Posted by CuongDC)


… Bởi tôi cũng ham mê các lọai làm ăn đánh quả kiểu chụp giật mì ăn liền, chỉ cần được lợi trước mắt cái đã, bất chấp hậu quả lâu dài dù có tồi tệ đến đâu cũng chẳng sao, rồi ta sẽ tính sau…



Một câu ca dao cổ với những hồn cốt của thằng Bờm sao lại có thể vận vào cuộc sống đương đại của chúng tôi đơn giản, dễ dàng như vậy sao? Quả thật tôi rất không muốn tin rằng có một sự thật cay đắng như thế!


Các giả thiết tư duy thằng Bờm
Tôi có một người bạn ngoại quốc tên quen gọi là Bill, chuyên nghiên cứu về văn hoa dân gian Việt Nam. Ông muốn tìm hiểu sâu về thằng Bờm, một hình tượng làm ông khá ngạc nhiên và thích thú. Ông thuộc lòng và thường nghêu ngao hát bằng cái giọng ngoại quốc lơ lớ vui nhộn bài thằng Bờm nổi tiếng mà người Việt mình có lẽ ai cũng biết:


“Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi
Bờm cười!”




“Thằng Bờm” được lưu truyền từ rất lâu, được coi là một trong số những nhân vật tiêu biểu nhất của ca dao Việt, của dòng văn học dân gian Việt thuộc một nền văn hóa cả nghìn năm rực rỡ mà dân Việt Nam ta thường lấy đó làm nỗi tự hào. Ông ngoại quốc này quan tâm cũng là phải!


Rồi một hôm ông bạn ngoại quốc này hỏi tôi một cách khá nghiêm túc : “Này ông Hoàng, từ thực tiễn đòi sống Việt ông có thể lý giải như thế nào về phương pháp tư duy thằng Bờm?”
Bài ca “Thằng Bờm” đọc lên ngồ ngộ, có vẻ ngây ngô nữa, đọc cho vui vậy thôi. Đã có khi nào tôi và các bạn băn khoăn suy nghĩ về phương pháp tư duy của nhân vật Bờm nổi tiếng này đâu! Câu hỏi làm nhân vật Bờm trở nên quan trọng và phức tạp quá nhỉ!


Với người nước ngoài, lại là một học giả, mình đâu có thể trả lời qua loa cho được. Tôi còn mỗi một cách là đưa ông bạn này đến gặp giáo sư Trí Việt mong được nghe những kiến giải xác đáng từ nhà học giả thông thái khả kính của chúng ta.
Tại nhà giáo sư Trí Việt, sau khi nghe chúng tôi trình bày,vị giáo sư khả kính gọi người phụ tá của mình ra dặn dò tìm cho chúng tôi một bản thảo lưu trước đấy của giáo sư rồi ân cần nói: “Rất cám ơn ông Bill đã nêu ra một điều rất thú vị, đáng phải suy nghĩ về thằng Bờm. Người Việt chúng tôi thường tiếp nhận các hiên tượng sự việc dễ dãi theo cảm tính, ít khi lật ngược lại vấn đề. Đáng buồn là phải để một người nước ngoài như ông đặt vấn đề giúp.
Văn hóa dân gian theo tôi là những gì được chắt lọc từ đời này qua đời khác, luôn phản ánh cái hồn, cái tâm thức của một đất nước, của một dân tộc. Vậy có mối tương quan nào đó giữa nhân vật Bờm với nếp nghĩ nếp cảm của người Việt hay không?
Về trường hợp cụ thể này, cách đây trên 20 năm tôi có một phác thảo nhỏ mới nêu được 4 giả thiết về cách tư duy thằng Bờm.


Vừa lúc đó người phụ tá của giáo sư Trí Việt mang ra cho chúng tôi một bản đánh máy chữ theo kiểu mổ cò trên loại giấy pơ-luya rất mỏng đã ố vàng mà giáo sư tự đánh máy những năm đầu thập niên 90 khi bắt đầu một thời kỳ “Đổi mới”.
Đưa bản phác thảo cho chúng tôi, vị giáo sư còn cẩn thận căn dặn thêm: “Tôi cũng phải nói lại một lần nữa rằng đây chỉ là các giả thiết chưa được minh chứng, cũng mới chỉ là các suy tư ở dạng phác thảo, không phải là kết luận khoa học. Không biết có giúp được gì cho khảo cứu của ông?”


Tôi nhanh nhẩu xin phép giáo sư Trí Việt được copy lại một bản cho mình và cho cả các bạn nữa. Sau đây là phần trích từ bài viết của giáo sư Trí Việt:”Các giả thiết về phương pháp tư duy thằng Bờm” để bạn đọc gần xa có thể chia sẻ và cùng chiêm nghiệm:


Giả thiết 1: Bờm bản năng gốc:
Trong trường hợp này, Bờm tư duy bản năng như con nít, không hơn gì các loài là bao, không trưởng thành trong suy nghĩ , chưa phát triển được các kỹ năng so sánh. Vì vậy Bờm hành sử theo nhu cầu bản năng gốc của tự nhiên: Không phải nghĩ, phàm là cái gì thỏa mãn được cái bụng cậu, cái tính ham ăn của cậu là quan trọng nhất! Ngoài cái ăn được ngay ra, mọi thứ khác đối với Bờm đều vô nghĩa, đều không quan trọng chút nào.
Ở đây dân gian vốn đã có câu “Dĩ thực vi tiên” !


Giả thiết 2 : Bờm “tồn tại hay không tồn tại “
Bờm ở trong môt hoàn cảnh cùng quẫn, bị đói khát bệnh tật, triền miên giữa cái sống và cái chết Không biết có tồn tại được đến ngày mai hay không. Trong hòan cảnh sống bữa nay, chưa lo được bữa mai ấy, Bờm không thể nghĩ dến một cái gì cao xa, dài hơi hơn quá ngày hôm nay. Trong cuộc vật lộn vì sự tồn tại trước mắt, người ta đâu có thể tính chuyện mai này.
Vì sự tồn tại trước mắt. Bờm đành chấp nhận nắm xôi và bỏ qua những trâu bò, bè gỗ lim, ao sâu cá mè bởi “Nước xa không cứu được lửa gần” vậy!


Giả thiết 3 : Bờm phận nghèo tự ti
Bờm rất nghèo, cả gia tài chỉ có cai quạt mo là đáng giá và cái quạt mo ấy chẳng thể che đậy được cai nghèo của Bờm trươc đôi mắt tinh tường của lão Phú ông biết làm ăn giàu có. Trong cái tương quan thất thế ấy, Bờm đâu dám tơ tưởng đến một cái gì cao xa vượt quá giá trị cái quạt mo của mình. (Với bản tính tự ti và thiếu óc tưởng tượng, Bờm đâu có biết rằng trước khi trở nên giàu có, nhiều lão phú ông kia cũng bắt đầu từ một thời nghèo khó, cũng chỉ có một chiếc quạt mo như Bờm vậy!).
Thôi thì hãy bằng lòng vậy, đành lòng vậy, vì đã nghèo thì cũng phải hèn thôi! Mà cái quạt mo đổi được cả nắm xôi để giải quyết sự đói nghèo trước mắt Bờm thấy cũng đã là tốt lắm rồi!
Có câu:”Cái khó nó bó cái khôn ” làm điều an ủi cho phận nghèo của Bờm!


Gỉả thiết 4: Bờm sống gấp, vô trách nhiệm với hiện tại và tương lai.
Các quyết định của Bờm không cần tính đến hiệu quả, tính đến ngày mai cho bản thân và tương lai của con cháu. Có của nả gì trong nhà, ngoài vườn, Bờm đều chăm chăm đem đổi lấy miếng ăn nóng trước mắt cho riêng mình tiêu sài mặc sức. Bờm không suy nghĩ phải làm việc có hiệu quả và làm ra của cải thật sự cho xã hội, “trời sinh voi, trời sinh cỏ” cơ mà!
Vả lại nhà Bờm “rừng vàng biển bạc”, cơ nghiệp đất đai tổ tiên ông bà để lại mênh mang, thiếu gì!
Trong đầu Bờm không có tư duy phát triển vì tương lai. Cứ như vậy Bờm bỏ qua các cơ hội mà thời cuộc đem lại, dửng dưng với các phương tiện sản xuất như trâu bò, ao sâu cá mè hoặc cả bè gỗ lim của Phú ông. Bờm ích kỷ, chỉ bận bịu với chính sự tồn tại của mình!
Với thế hệ mai sau, Bờm nói : Các con ạ, các cụ ta có câu “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”, nay ta tặng lại câu này cho các con đó. Hãy coi đây là tài sản thừa kế vô giá duy nhất mà Bờm ta để lại cho hậu thế các con !…
Và còn có thể có nhiều giả thiết khác nữa cần được tiếp tục bổ xung vào đây.


Hà Nội, ngày 15 tháng 2 năm 1992 , GS Trí Việt.


Chẳng nhẽ tôi và Bờm có những điểm giống nhau…?


Đọc kỹ vài lần, tôi càng thấy ngờ ngợ như đã gặp rất nhiều những anh chàng Bờm này hàng ngày trong cuộc sống ở đâu đó quanh tôi. Rồi tôi lại như thấy những anh chàng Bờm này đang ở ngay trong chính con người tôi, chính là một phần cuộc đời tôi.
Một câu ca dao cổ với những hồn cốt của thằng Bờm sao lại có thể vận vào cuộc sống đương đại của chúng tôi đơn giản, dễ dàng như vậy sao? Quả thật tôi rất không muốn tin rằng có một sự thật cay đắng như thế!
Mà chẳng nhẽ tôi và Bờm có những điểm giống nhau, như là anh em ruột thịt của nhau? Chẳng nhẽ tôi cũng kém cỏi, tồi tệ đến thế sao! Và rồi tôi cũng thấy buồn và rợn cả cho chính bản thân mình luôn.

 - Bởi tôi cũng ham mê các loại làm ăn đánh quả kiểu chụp giật “mì ăn liền”, chỉ cần được lợi trước mắt cái đã, bất chấp hậu quả lâu dài dù có tồi tệ đến đâu cũng chẳng sao, rồi ta sẽ tính sau;
- Bởi tôi cũng có tinh thần cam chịu thẳng tưng, chấp nhận cái phận mình nghèo thì hèn là nhiên dĩ nhiên, đành lòng vậy, cầm lòng vậy có sao! Được tồn tại như thế này là quá tốt rồi, làm nữa làm gì cho nó khổ vào thân, chết có mang đi được gì đâu!
- Bởi cũng như Bờm từ khi còn trẻ, tôi đã học được phương pháp luận ngụy biện chứng hùng hồn: Cái nghèo tinh thần và vật chất của ta có nguyên nhân sâu xa trong sự giàu có của những lão phú ông kia. Và để rồi từ đó không bao giờ ta phải tự vấn bản thân, lương tâm về cái nghèo, cái dốt của mình nữa, cứ vô tư mà sống trôi tuồn tuột theo bản ngã vô thức của mình đi!
- Bởi tôi rất ngại suy nghĩ, can dự vào các vấn đề thời cuộc và tương lai. Tôi tâm đắc với cách người làng Vũ Đại xử lý vụ Chí Phèo chửi ầm ĩ cả làng, mọi người không ai bảo ai đều biết im lặng tự nhủ “Chắc nó trừ mình ra”.
Tôi luôn biết cách tự an ủi mình trước các vấn nạn của xã hội mà thường tôi cũng góp phần tạo dựng theo tinh thần văn hóa đổ lỗi của đám đông thời nay; “Do hoàn cảnh khách quan xúi bẩy, tôi đâu muốn thế!”.


Ngoài ra, tôi luôn đề cao tinh thần tự ti vô can vô trách nhiệm: “Em kém cỏi, em bất lực, em xin nhường hết cho các bác đứng ra đứng ra giải quyết” ngay cả khi tôi biết chắc rằng sẽ chẳng có bác nào đứng ra cả!


Hoặc nhờ có năng lực kiên trì trông đợi, tôi sẽ nhắm mắt lại để cố tin vào một phép màu nhiệm là một ngày đẹp trời nào đó, khi mở mắt ra các vấn đề tự nó rồi sẽ được giải quyết tốt đẹp;
- Bởi tôi bao lâu nay vốn chỉ quen “ăn xổi ở thì”, vô lo vô nghĩ và cũng vô trách nhiệm luôn trên cuộc đời này;
- Bởi tôi v.v… và v.v…
Và rồi tôi ngạc nhiên không biết từ khi nào mình trở nên vô cảm, hành xử ngây ngô và đầy chất bản năng đôi lúc mất cả tình người giữa cuộc đời này?
Vậy đâu là phần CON, còn lại bao nhiêu là phần NGƯỜI trong con người của tôi hôm nay?


Để giải thoát cho mình khỏi những nỗi ám ảnh đáng sợ đó, có lẽ tôi phải chờ xem các kết quả khảo cứu và ý kiến của anh bạn Bill sẽ như thế nào. Hy vọng người nước ngoài nhìn vấn đề của người Việt mình khách quan, tích cực và bao dung hơn chăng.
Và biết đâu ông bạn Bill lại có thể chỉ cho các loại chàng Bờm và tôi một giải pháp tích cực hơn các giả thiết mà giáo sư Trí Việt khả kính đã nêu ra trong phác thảo đầy thất vọng của ông!
Và biết đâu vào cái thời hiện đại của số hóa và toàn cầu hóa, các giả thiết trên cùng các chiêm nghiệm đáng sợ của tôi có thể được một nhân vật kiệt xuất nào đó trên internet chứng minh là đã không còn tồn tại trong thực tiễn khách quan tươi đẹp của chúng ta nữa thì lại càng may mắn chứ sao!


Chả thế mà hôm nay lần đầu tiên tôi và các loại chàng Bờm mạnh dạn rủ nhau cùng xuất hiện giao lưu trên internet để giãi bày tâm sự của mình như các bạn đã thấy ở đây!


NGUỒN: http://www.cuongdc.com/2010/05/chan-ly-cua-bom-va-moi-tuong-quan-voi.html#comment-form

Lời của bác Gốc Sậy
Lang thang tự nhiên vớ được bài này.
Không muốn CHÉN 1 mình MÓN NGON nên tôi BÊ về đây để chia sẻ với pàkon. Hóa ra nhiều khi tôi cũng BỜM lắm, còn các bác ?

Được đăng bởi NGUYỄN HỒNG KIÊN.
http://nhkien.blogspot.com/search?updated-max=2010-09-22T03%3A24%3A00%2B07%3A00&max-results=7

Thứ Hai, 20 tháng 9, 2010

GS Mỹ nói về tật xấu trong giao tiếp của người Việt

(VNR500) - Một trong những rào cản lớn nhất trong giao tiếp là đối phương không thể biết khi bạn nói "có" thì thực lòng bạn có nghĩ đúng như vậy không.


Bài viết dưới đây được David Pickus - Giáo sư đến từ ĐH Arizona (Mỹ) viết và gửi riêng cho VNR500.




Thông điệp khác nhau đằng sau mỗi nụ cười


Ai đã từng ngắm cảnh bình minh chắc đều nhận thấy một điều là, ban đầu, bạn sẽ không nhìn thấy gì hết. Rồi dần dần mọi thứ mới hiện rõ hơn. Sau khi định thần lại, bạn sẽ thắc mắc tại sao vừa nãy mình lại không nhìn thấy cả những vật ở ngay trước mặt mà chỉ thấy một khối đen đặc và đồng nhất.


Đây cũng chính là cảm giác của tôi, một công dân Mỹ, khi tới Việt Nam - tôi như người đang đứng ngắm cảnh bình minh bắt đầu tỏa rạng.


Xin đơn cử ra đây một ví dụ: lần đầu tiên khi tới đất nước này, đối với tôi nụ cười chỉ đơn thuần là nụ cười, và nó truyền tải thông điệp về sự mừng vui. Nhưng cho tới giờ, dù tổng số thời gian tôi ở Việt Nam chỉ vẻn vẹn có 4 tuần, song kho từ vựng của tôi về các kiểu cười đã được mở rộng đáng kể.


Chẳng hạn, có nụ cười mang ý: "Đúng, anh có thể làm việc đó", nhưng cũng lại có nụ cười như muốn bảo: "Anh không được làm như thế đâu!". Có nụ cười thể hiện rằng: "Tôi rất vui được gặp anh", nhưng cũng có nụ cười hàm ý ngược lại.


Ngoài ra còn một số kiểu cười thể hiện tâm trạng không mấy vui vẻ của chủ nhân như: "Tôi rất thất vọng", "Tôi không hiểu", "Tôi đang bực mình đây", và "Tôi muốn anh xéo đi chỗ khác!"


Trước đây, những nụ cười này chỉ mang một hoặc một vài ý nghĩa dễ hiểu. Thế mà giờ đây chúng lại đan xen biết bao nhiêu lớp nghĩa, khiến tôi không khỏi băn khoăn rồi theo thời gian, sẽ có thêm bao nhiêu ý nghĩa nữa được gán cho nụ cười của người Việt Nam.


Người phương Tây khi tới khu vực Đông Nam Á thường hay bình luận hoặc phàn nàn về những khó khăn trong giao tiếp cũng như về cái "khó hiểu" của người dân sở tại. Tôi không nói rằng người Việt khó hiểu, song để hiểu được họ chắc tôi cũng phải đầu tư kha khá thời gian.


Những khác biệt về của cải


Tôi đã hai lần tới Việt Nam (và hy vọng sẽ được quay lại đây nhiều lần nữa). Dưới đây là một số quan sát của tôi về người Việt, hay chính xác hơn là những quan sát này giúp tôi tìm hiểu rõ hơn về con người Việt.


Cái mà tôi nhận thấy nhiều nhất - cũng là cái "che mắt" tôi nhiều nhất - là những khác biệt về của cải.


Người phương tây chẳng gặp khó khăn gì khi bắt chuyện với người Việt. Nếu bạn tỏ ra thân thiện, lịch sự, và đi một mình, thì hầu như ai cũng sẵn lòng nói chuyện với bạn. Vì tôi không biết tiếng Việt, nên những cuộc trò chuyện của tôi rất phong phú, từ thứ ngôn ngữ cơ thể đơn giản cho tới những cuộc thảo luận sâu sắc với các học giả sở tại thông thuộc ngoại ngữ.


Người ta nói với tôi rằng (tuy tôi chưa có cách nào kiểm chứng điều này cả) người Việt Nam thường thân thiện với người nước ngoài hơn là với chính người đồng hương. Nhưng có một điều tôi chắc chắn, đó là trong nhiều quốc gia tôi từng đặt chân tới, thì Việt Nam là một trong những điểm đến ưa thích của tôi, bởi vì ở đây tôi có thể có những cuộc chuyện trò ý nghĩa với nhiều người.


Vì vậy mà tôi mới nhận thấy một vấn đề về tiền bạc. Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, Việt Nam đã và luôn là một nơi an toàn và tin cậy để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Tôi không phàn nàn gì về những lối cư xử thiếu công bằng ở đây. Thực ra, tôi không có gì phải phàn nàn cả, chỉ đơn giản là một nhận xét thôi.


Người Việt không nên cho rằng vì họ không công khai thể hiện thái độ của mình mà người phương Tây không biết họ suy nghĩ ra sao về chuyện tiền bạc.


Ngược lại, tôi lại quan sát được điều này khá thường xuyên; và chẳng khó khăn gì để đoán được suy nghĩ trong đầu một ai đó khi họ đang có những ý nghĩ dạng như: "Anh ta có nhiều tiền hơn mình, thế thì tại sao anh ta lại không mua nó nhỉ?", và "Nên làm gì để ra vẻ rằng mình không quan tâm tới tiền nong đây?"






Đến đây xuất hiện một điểm quan trọng - mà tôi hy vọng rằng nó sẽ không bị bỏ qua. Tôi không cảm thấy khó chịu khi thấy người Việt Nam suy nghĩ về tiền bạc.


Xã hội phương Tây, đặc biệt là xã hội Mỹ, đã lầm khi nghĩ rằng lúc nào cũng nên coi người châu Á là khác lạ. Ông bà tôi là người nhập cư, và cả ba thế hệ trong gia đình tôi đều đã phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày, nhọc công vắt sức ra để kiếm tiền.


Thực tế này không có nghĩa là nền văn hóa của chúng ta giống nhau, hay là người Mỹ không cần phải làm gì để hiểu cho rõ về tình hình xã hội ở Việt Nam.


Nhưng như thế có nghĩa là một cuộc nói chuyện thẳng thắn về tiền bạc không phải là điều gì đáng ngại ngùng, có hại, hay phản tác dụng cả. Thật ra, nó có thể khiến mọi việc trở nên tốt đẹp hơn.


"Xin đừng nói có, nếu bạn không muốn"


Khi ở Việt Nam tôi học được câu "Vấn đề đầu tiên là tiền đâu". Tôi đã viết câu đó lên một mảnh giấy rồi giơ lên cho những người khác xem với hy vọng rằng nó sẽ giúp cho cuộc nói chuyện của chúng tôi trở nên thành thật và thẳng thắn hơn. Thẳng thắn không phải là một đức tính xấu.


Theo tôi, điều này dẫn tới một thách thức lớn trong việc xây dựng mối quan hệ cá nhân tốt đẹp hơn giữa người Việt Nam và người Mỹ.


Vấn đề chính không phải là mâu thuẫn, dù rằng chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa để đóng góp cho những cuộc thảo luận về các mâu thuẫn giữa hai dân tộc trong cả quá khứ và hiện tại.


Cái nguy hại ở đây là quan điểm cho rằng vì cơ hội tiếp xúc giữa người dân hai nước ngày càng lớn, nên mặc nhiên điều đó sẽ tự động củng cố sự hiểu biết lẫn nhau, hoặc cái sự hiểu biết này là không thật cần thiết.


Tôi xin nói về quan điểm thứ hai trước: chẳng phải tìm đâu xa, lần gần đây nhất tới thăm Việt Nam, tôi đã nhận thấy nhiều dấu hiệu đáng lo ngại cho thấy sự tức giận ngày càng gia tăng cả về phía người dân Việt Nam và người phương Tây.


Du khách phương Tây tới Sapa không giấu nổi những khó chịu vì liên tục bị làm phiền, khiến họ không thể tự do chiêm ngưỡng cảnh đẹp nơi cao nguyên, còn những người bán dạo địa phương thì tỏ rõ vẻ bực dọc khi mà du khách còn chưa đi khỏi.




Cái vòng tròn quẩn quanh này tồn tại ở bất kỳ địa điểm du lịch đông đúc nào, song nó cũng là một dấu hiệu cho thấy cần phải xây dựng mối quan hệ giữa người Việt Nam và người phương Tây trên một nền tảng bền vững hơn so với hiện nay. Gia tăng hiểu biết lẫn nhau là một yêu cầu bắt buộc.


Tuy nhiên, chúng ta sẽ không thể hiểu nhau hơn nếu chỉ biết "cười" suông như vậy, bởi cái cần có ở đây là những cuộc nói chuyện thành thật và chi tiết.


Cũng trong chuyến đi vừa rồi, tôi thậm chí còn nhờ người viết dòng chữ "Xin đừng nói có, nếu bạn không muốn" lên giấy và đưa cho bạn bè đọc trong cuộc nói chuyện giữa chúng tôi.


Một trong những rào cản lớn nhất trong giao tiếp là đối phương không thể biết khi bạn nói "có" thì thực lòng bạn có nghĩ đúng như vậy không. Bây giờ thì tôi không còn vồ vập học cách diễn giải nụ cười của người Việt Nam nữa.


Tôi không mong rằng họ sẽ thay đổi hoàn toàn cách sống của mình, bởi bản thân tôi cũng không thể làm được như thế. Nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ cùng hướng tới một mục tiêu chung là xây dựng một mối giao tiếp tích cực hơn, chất lượng hơn.


Quay trở lại với hình ảnh cảnh vật từ từ ló hiện sau màn đêm, tôi nhận thấy rằng mối quan hệ giữa người Việt Nam và người phương Tây đang tiến dần đến giai đoạn "bình minh" rồi.


Điều này đôi khi sẽ gây thêm nhiều khó khăn vì chúng ta không còn nhiều "bóng tối" để có thể giấu mình lại. Nhưng nó cũng khiến mọi việc trở nên tốt đẹp hơn vì tuy chúng ta kết thêm bạn mới nhờ vào những nụ cười, cử chỉ hay thói quen, song chúng ta lại không thể trở thành những người bạn mới được.


Mà những tình bạn mới và tốt đẹp hơn lại là những thứ chúng ta cần.


Thủy Nguyệt dịch

Nguồn:http://vnr500.vn/2010-09-19-gs-my-noi-ve-tat-xau-trong-giao-tiep-cua-nguoi-viet-