Thứ Hai, 28 tháng 2, 2011

Phòng Bảo tàng Dân tộc-Khảo cổ học, ĐHKH Huế

Bảo tàng Đại học (một dạng bảo tàng dạy học) rất phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam tuy mới chỉ có một vài bảo tàng dạng này nhưng chúng đã và đang phát huy tốt vai trò của mình.

Tại Đại học Khoa học Huế, có một phòng trưng bày các hiện vật khảo cổ học, dân tộc học với quy mô khá khiêm tốn và điều kiện cơ sở vật chất hạn chế. Tuy vậy, những sưu tập hiện vật ở đây lại thuộc hàng quý hiếm về loại hình và chất liệu, tin cậy về nguồn gốc, xuất xứ và phục vụ đắc lực cho đào tạo và nghiên cứu các ngành khoa học xã hội và nhân văn như bảo tàng, lịch sử, khảo cổ, nhân học, văn hóa, du lịch... không chỉ cho thầy, cô và sinh viên của Đại học Huế mà cho cả những người nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam trong và ngoài nước.

Mong sao, Đại học Huế có những đầu tư đúng mức để xây dựng một bảo tàng đại học tương xứng với tầm vóc của một đại học lớn ở miền Trung Việt Nam nói riêng và Việt Nam nói chung.

Một vài hình ảnh chụp phòng BTDT-KCH


Bộ sưu tập hiện vật điêu khắc Champa


Đầu tượng đá Champa 

Điêu khắc đá thể hiện giao thoa văn hóa Hoa - Việt?



 Bộ sưu tập đồ trang sức văn hóa Sa Huỳnh (địa điểm Gò Mùn, Quảng Nam)


Sưu tập dân tộc học 

 Sưu tập dân tộc học-khảo cổ
 Hiện vật liên quan đến phường đúc đồng
 Trang sức của một số dân tộc miền núi Thừa Thiên- Huế
 Gương thời Nguyễn

Bàn làm việc của trưởng khoa cũng là cổ vật

Tin hội thảo khoa học

Chủ đề của hội thảo khoa học 

Những thông tin liên quan đến hội thảo


MỘT HỘI THẢO KHOA HỌC HIẾM HOI VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN SỬ HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
MONG RẰNG CÓ NHIỀU BÀI NGHIÊN CỨU NGHIÊM TÚC ĐỂ NHỮNG NGHIÊN CỨU SỬ HỌC VIỆT NAM ĐÁNG TIN CẬY VỀ TƯ LIỆU VÀ KHÁCH QUAN, HIỆN ĐẠI VỀ KẾT QUẢ CŨNG NHƯ CÁCH TIẾP CẬN.

Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011

Chestita Baba Marta - Martenisa - Мартеница

Mỗi nơi trên thế giới đều có những lễ hội  đặc trưng gắn với truyền thuyết của dân tộc mình.. Người Bun có ngày lễ mừng mùa xuân đến, gọi là ngày " Bà già tháng Ba ". Sau ba tháng dài mùa đông chỉ một màu tuyết trắng ảm đạm, ngày đầu tiên của tháng Ba, người Bun mở cửa đón "Bà già tháng Ba" đưa mùa xuân vào nhà.

Theo truyền thuyết, "Bà già tháng Ba" là một phụ nữ chân khập khiễng chống chiếc gậy bịt sắt.Tính khí Bà thật là thất thường : khi hài lòng, bà mỉm cười thì mặt trời rực rỡ. Khi bà không vui, giận dữ thì lạnh lẽo ảm đạm lập tức bao phủ.. Mọi người còn tin rằng, Bà chỉ vào những nhà sạch sẽ và ngăn nắp.Vì thế, vào cuối tháng hai những căn nhà được dọn sạch để đón mùa xuân : tất cả những gì cũ và xấu của năm cũ được bỏ đi như bỏ đi những điều không tốt để dành chỗ cho cái mới.
"Bà già tháng Ba" còn khó tính trong việc chọn người đầu tiên gặp trong ngày. Vì thế những người già trong ngày 1/3 thường không ra ngoài vào sáng sớm  vì không muốn làm "Bà già tháng Ba" tức giận. Bà thích gặp những cô gái trẻ, và chắc chắn rằng hôm đó trời sẽ ấm áp và đẹp.
Bà sẽ mang lại may mắn cho tất cả những ai đeo biểu tượng của ngày "Bà già tháng Ba", gọi là "Martenisa". "Martenisa" được những người phụ nữ Bun làm bằng tay từ len, sợi hay lụa với hai màu cơ bản là trắng và đỏ.Màu trắng tượng trưng cho cuộc sồng bền vững, dài lâu. Màu đỏ đem lại sức mạnh và sức khỏe cho con người và muôn loài.
Theo truyền thống, ở Bulgaria, ngày 1/3 - ngày "Bà già tháng Ba", tất cả đều đeo "Martenisa", đặc biệt là trẻ em, những người trẻ, những con vật nuôi trong nhà, cây cối trong vườn và xung quanh chỗ ở. Nếu có dịp, mời bạn hãy đến Bulgaria vào ngày lễ mùa xuân để được "Bà già tháng Ba" ban cho sức khỏe và sự tốt lành.


Bé Lily đón ngày Baba Marta đầu tiên trong đời (1.3.1986). Mới 8 tháng tuổi đã phải đi nhà trẻ, lạ nhà, lạ cô, bé khóc suốt 1 tháng. Cô giáo dỗ mãi mới chụp được cái ảnh này làm kỷ niệm. Vậy mà, mới hơn 1 tuổi đã nói tiếng Bun vanh vách: "At sưm khubavata moma - Cháu là cô gái đẹp"!

Ngày này người ta thường tặng nhau một đôi búp bê bàng len hay vải - Пижо и Пенда (Pizho và Penda). Pizho là bé trai có màu trắng chủ đạo, còn Penda là bé gái với màu đỏ đặc trưng.


Martenisa có rất nhiều hình dạng khác nhau

Martenisa khắp mọi nơi

Hoàng đinh hương cũng nở rộ khắp nơi khi mùa xuân về

Lũ sinh viên thường vào những cánh rừng quanh và trong thành phố Sophia chụp ảnh và bẻ những cành hoàng đinh hương mang về ký túc xá ở thành phố sinh viên.

Ôi những con búp bê martenisa và những cành hoàng đinh hương của một thời sinh viên đẹp như mơ!

Sách NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI - MỞ ĐẦU

Tác giả: G.N. Machusin Nhà xuất bản Mir, Maxcova, 1982
Người dịch : Phạm Thái Xuyên dịch sang tiếng Việt có bổ sung và sửa chữa Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1986

MỞ ĐẦU
Thân thể con người - một cơ thể được cấu tạo phức tạp. Trong cơ thể có đủ các bộ phận mà nhờ chúng, có thể suy nghĩ, nói năng, đi lại bằng hai chân, chế tạo ra những đồ vật khác nhau bằng hai tay, sử dụng được ưu thế thị giác có hình khối, màu sắc. Trong thiên nhiên, không có một loài sinh vật nào khác mà lại có trách nhiệm với sự tồn tại của mình không những về sự thích nghi thể chất với môi trường sống, mà còn đối với cả những thành tựu trong trình độ phát triển về vật chất.
Tôi là ai? Không có một người biết suy nghĩ nào mà lại không đặt ra câu hỏi đó cho bản thân mình, dù chỉ một lần. Tại sao tôi có tầm vóc cao lớn như thế này, màu mắt như thế này, tính cách như thế này? Bố tôi không cao lắm, mẹ - thấp người, ông nội và bà nội - cũng thế. Màu mắt của bố mẹ, ông bà tôi đều khác tôi. Cũng có thể tôi giống với cụ tổ theo truyền thuyết - một trưởng đội côdắc, sống vào thế kỷ XVI, là người sáng lập nên cái làng quê thân yêu mà một nửa làng cũng mang tên họ như tôi ? Các câu hỏi ngày càng đi sâu mãi, đi sâu mãi vào quá khứ…
Ngày xưa, các vị tổ tiên của tôi không nhiều lắm. Một nghìn năm trước đây, trên hành tinh này, họ còn ít hơn cả số dân trên đất nước chúng ta hiện nay. Còn nếu đi xa hơn nữa về quá khứ cách đây hai triệu năm, thì hình dạng tổ tiên của tôi sẽ biến đổi đi. Họ không có hình dạng con người, ý thức của họ còn mơ hồ. Còn tiếng nói, nếu họ nói được, - cũng là tiếng nói nguyên thủy. Quần áo, nếu họ có, - là những bộ da lông chưa qua chế biến. Cũng có thể là họ chưa biết dùng lửa, họ ăn những con thằn lằn, những con rắn còn sống nguyên... Đấy, những tổ tiên của tôi. Tôi là ai? Tôi - tất cả những người như họ, bởi vì một câu trả lời đúng đắn sẽ phải dựa vào sự di truyền và tiến hóa. Và câu trả lời ấy sẽ giúp tôi hình dung ra họ hàng thân thuộc của tôi với toàn thể loài người, với tất cả các sinh vật sống. Nếu tôi tìm được câu trả lời, thì có thể tôi nhận ra tại sao tôi có được bộ óc lớn mà nhờ nó tôi có thể viết sách, xây dựng các thành phố, bay vào vũ trụ, mà cái chính là biết nói và suy ngẫm về nguồn cội của mình.
Đã có một thời gian mà tổ tiên của tôi không biết một chút gì về những chuyện đó. Họ vẫn chưa phải là những con người và họ giống những con vượn hiện nay. Một nơi nào đó, trong tận cùng cội nguồn tộc phả của tôi, "ở một giống vượn xa tất cả những giống còn lại về trí thông minh và sự thích ứng" [1] đã sinh ra một sinh vật biết liên kết thế giới con người hiển nhiên với giới động vật hiển nhiên. Nhiệm vụ của cuốn sách này là ở chỗ cố gắng làm sáng tỏ sinh vật ấy xuất hiện như thế nào, cố gắng xác định những yếu tố nào đã gây nên sự biến đổi vượn "bốn tay" thành tổ tiên đi thẳng của con người. Ngắn gọn hơn là nhận thức được tôi trở thành một con người như tôi như thế nào.
Những người sống trước tôi đã cố gắng giải đoán bí mật về nguồn gốc của mình. Có thể là đã lâu lắm rồi, từ ngày đầu tiên tồn tại của mình, vấn đề tộc phả của con người đã dày vò con người. Vô vàn huyền thoại còn lưu truyền đến chúng ta, dưới dạng những chuyện cổ tích dân gian Nga, cũng như dưới dạng những truyền thuyết thần thoại của các dân tộc khác, có chủ đề cố gắng giải thích đất nước và con người đã xuất hiện như thế nào. Tất cả những huyền thoại ấy đều tuyệt đẹp và thú vị nhưng tuyệt đối ... không đáng tin cậy. Cuối cùng, chỉ vào thời đại chúng ta mới hoàn thiện được các phương pháp cho phép bắt tay vào giải quyết những vấn đề về nguồn gốc con người một cách khoa học. Chỉ có bây giờ các nhà khoa học mới có thể chinh phục lại một cách chính xác đến cả những chi tiết về cuộc sống của tổ tiên xa xưa
của chúng ta theo những dấu vết tưởng như là không đáng kể.
Những phương pháp mới nhất phục chế quá khứ cho phép tái hiện chân dung chính xác của các tổ tiên. Độ chính xác và độ tin cậy của những phục chế ấy đã được kiểm tra. Kiểm tra như thế nào? Đây là một ví dụ.
Tội phạm đến khéo che đậy những dấu vết của mình tới mức sau đó mấy năm, khi công nhân xây dựng đào hào để đặt đường ống dẫn, mới phát hiện ra hài cốt của người bị giết. Thoạt tiên, không ai có thể nghi ngờ rằng người chết mà công nhân xây dựng tìm thấy hài cốt  là nạn nhân của một hành động giết người dã man. "Chó sói, chắc thế", - các dự thẩm nêu ra giả thuyết sau khi phát hiện ra những vết thủng nằm ngang ở xương người bị giết. Ban giám định đã xác định được ở xương đúng là có những vết răng của một con thú cỡ lớn. Bộ xương không có sọ dường như cũng khẳng định giả thuyết những con thú ăn thịt đã tấn công nạn nhân. Những con thú cũng có thể gặm mất toàn bộ sọ. Có lẽ mọi việc đã rõ và người ta đã chuẩn bị nộp hồ sơ vào lưu trữ, thì đột nhiên công nhân xây dựng bỗng thấy chiếc sọ, và những giả thuyết trước đó bị bác bỏ. Rõ ràng đây là một vụ giết người. Trên xương sọ thấy rõ một vết lõm, dấu vết của một đòn mạnh đánh từ phía sau. Có nghĩa là đó không phải do chó sói mà là một tội ác. Hung thủ không để lại bất cứ dấu vết gì. Thậm chí tên người bị giết cũng không biết, người bị giết quê quán ở đâu, xuất hiện trong rừng như thế nào.
Phải chăng ở đây chính là chỗ người ấy bị giết, hay là người ấy đã bị giết ở một nơi khác nào đó, mà ở đây chỉ là nơi giấu xác. Vụ án còn phức tạp thêm lên ở chỗ chiếc sọ và bộ xương người đã được tìm thấy ở ngoại ô một thành phố lớn. Vì vậy, cũng có thể xác chết đã bị chặt ra thành từng đoạn, và việc chuyên chở từng đoạn xác chết có thể kín đáo hơn. Tìm hung thủ khi không có bất cứ dấu vết nào và cũng không biết cả tên người bị giết là điều không thể làm được. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau đó đã tìm ra hung thủ. Khi thảo luận các giả thuyết khác nhau, đã tưởng đó là một vấn đề không có hy vọng, thì một trong số các cộng tác viên của ban điều tra hình sự chợt nhớ lại rằng mình đã đọc ở đâu đó có một phương pháp phục chế mặt người theo xương sọ của họ do các nhà khảo cổ học nghiên cứu ra. Một dự thẩm đã đến Maxcơva. Ở Viện khảo cổ học thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, người ta khuyên người dự thẩm đến gặp tiến sĩ sử học M. M. Gheraximôp. "Và đừng nghĩ thế, không, không và không, - giáo sư trả lời. -  Đồng chí không biết là tôi bận đến như thế nào : cần phải đến những chỗ khai quật ở Xibêri, phải xử lý tài liệu ở Malta. Và sau đó tôi phải phục chế các chân dung hoàn toàn không phải là để bắt hung thủ. Tôi chú ý đến bộ mặt thật của người cổ xưa chứ không phải của người hiện đại. Chúng tôi cần làm sáng tỏ một cách chi tiết những sai khác của những dạng người đã mất tung tích (pitêcantrôp, nêanđectan) [2] với người hiện đại, hay như người ta gọi "người thông minh thông minh". Còn những tội phạm, về hình dáng bên ngoài, cũng là những người như tôi với đồng chí. Ở đây có cái gì là thú vị đối với khoa học?". "Nhưng, thưa giáo sư, xin giáo sư hãy nghĩ xem, - người dự thẩm nói, - nếu được giáo sư giúp đỡ mà chúng tôi tìm thấy hung thủ, thì đó là một bằng chứng có sức thuyết phục biết chừng nào về tính chính xác của những phục chế làm theo phương pháp của giáo sư". "Vâng, nhưng đồng chí cần độ chính xác mà chúng tôi không cần đến, - M. M . Gheraximôp trả lời. - Đồng chí muốn có độ chính xác của một tấm ảnh chụp để căn cứ vào tấm ảnh ấy mà tìm ra tên của người bị giết. Đối với chúng tôi thì điều quan trọng là chỉ phục chế những đặc điểm về hình dạng của người cổ xưa".
"Thưa giáo sư, tôi tin rằng việc phục chế theo phương pháp của giáo sư sẽ có được một tấm ảnh đối chứng", - người dự thẩm không nhượng bộ. Và cuối cùng, người dự thẩm đã thuyết phục được nhà khoa học. Kết quả phục chế tạo hình đã xác lập được rằng người bị giết là một chú bé 12-13 tuổi... Căn cứ vào xương sọ, đã nặn ra tượng của người chết bằng bột nặn plastilin. Người ta đã chụp ảnh bức tượng từ nhiều phía khác nhau. Người dự thẩm trộn lẫn những tấm ảnh chụp được với ba mươi tấm ảnh của các chú bé khác cùng tuổi. Người ta phân phát số ảnh ấy cho các nhân viên công an để đưa cho nhân dân ở những làng xóm gần đấy xem. Chẳng bao lâu, những người dân ở một trong số những làng ngoại ô cách không xa địa điểm tìm thấy xác chết, căn cứ vào các tấm ảnh, đã nhận ra chú bé sống ở làng ấy và đã mất tích mấy năm trước đây. Người ta nghi rằng chú bé đã trốn đi và đi du lịch ở đâu đó, hoặc là đi lang thang lêu lổng. Đã biết được tên người bị giết và địa chỉ bố mẹ của người ấy. Người ta đưa cho ông bố chú bé bị giết 37 tấm ảnh chụp các chú bé. Không hề do dự, ông bố đã chọn ra 7 tấm ảnh trong số đó vì lập tức đã nhận ra con trai của mình...
Như vậy, hình pháp học đã giúp cho việc khẳng định độ chính xác của phương pháp tái hiện hình dạng con người cổ xưa và những tổ tiên của họ. Đã chứng minh một cách không chối cãi được rằng việc phục chế chân dung con người theo phương pháp của Gheraximôp (1964), - đó không chỉ đơn giản là các kiểu khái quát hóa người cổ xưa mà còn là những bức chân dung chính xác của những tổ tiên người hiện đại đã từ lâu mất tung tích. Căn cứ vào chân dung như vậy của từng tổ tiên một, có lẽ, có thể nhận ra những người bà con...
Đi loanh quanh trong rừng ngoại thành và khi suy ngẫm về trường hợp mà M. M. Gheraximôp kể cho tôi nghe, tôi chú ý đến những chiếc lông tơ màu trắng, như một lớp tuyết phủ lên ngã tư đường nhựa nhỏ. Đặc biệt thú vị khi nhìn những chiếc lông ấy rơi xuống mặt nước. Những "bông tuyết" trắng của cây dương như một tấm chăn mỏng bằng lông tơ phủ lên mặt nước phẳng lặng. Khi đi chơi trong rừng, trên đồng cỏ vào mùa hoa nở, chắc các bạn cũng đã chú ý đến những vũng nước có một lớp màu vàng nhạt phủ lên, các bạn cũng đã trông thấy khi một trận gió thổi trên cánh đồng màu gỉ sắt, một cột khói màu xanh nhạt đã bốc lên như thế nào. Đó là giới thực vật vung vãi những mầm sống tương lai với khối lượng khổng lồ. Mỗi đóa hoa tạo ra hàng nghìn, hàng chục nghìn bào tử và phấn hoa. Việc nghiên cứu phấn hoa thời cổ xưa giúp cho các nhà khoa học tái dựng cảnh quan của quá khứ, lập lại được lịch sử khí hậu và thậm chí xác định phỏng chừng thời gian tìm được di cốt cũng như đồ dùng của con người. Và không chỉ là phấn hoa mà cả xương động vật cũng có khả năng giúp cho các nhà khảo cổ xác định niên đại của những vật tìm được. Trong suốt quãng thời gian hàng nghìn, hàng triệu và hàng trăm triệu năm, một số loài động vật và thực vật đã bị những loài động vật và thực vật khác thay thế, còn những di tích của chúng được tích lũy lại trong đất. Trình tự thay đổi động vật và thực vật được xác định khá chính xác (bằng phương pháp sinh địa tầng học). Nhưng ở những địa điểm này hay khác, một số động vật bị tuyệt chủng sớm hơn những động vật khác, hoặc ngược lại, chúng đã sống lâu hơn so với ở những địa điểm khác. Vì vậy thước đo thời gian dựa vào sự tiến hóa của chúng không cho phép định niên đại một cách chính xác những vật tìm được. Năm 1949, giáo sư U. F. Libi ở trường đại học tổng hợp Sicagô đã đề nghị một phương pháp xác định niên đại những đối tượng cổ xưa theo mức phóng xạ của các di tích hữu cơ. Do phát minh này, năm 1960, ông đã được nhận giải thưởng Nobel. Trên cơ sở của phương pháp Libi, người ta đã hoàn thiện những phương pháp khác tương tự như các phương pháp xác định niên đại. Cơ sở của những phương pháp này là trong tự nhiên thường xuyên diễn ra sự tích tụ hoặc phân rã các chất đồng vị của các chất khác nhau. Ví dụ, trong cơ thể sống và trong khí quyển có một lượng như nhau cacbon (14C) phóng xạ. Khi cơ thể đó chết đi thì sự xâm nhập của cacbon vào cơ thể cũng ngừng lại. Trong cơ thể động vật hoặc thực vật đã chết, cacbon phóng xạ bắt đầu phân rã. Đã xác định được rằng sau 5730 năm, số lượng của nó chỉ còn lại một nửa (bán rã). Vật tìm được càng cổ xưa bao nhiêu thì lượng cacbon trong nó càng ít bấy nhiêu, còn ít đi bao nhiêu thì máy đo đặc biệt sẽ "thông báo". Bây giờ, tuổi của các di tích hữu cơ được xác định đủ chính xác. Hàng nghìn di tích đã được xác định niên đại bằng cách ấy. Trong thiên nhiên, không chỉ có cacbon phóng xạ thường xuyên phân rã, mà còn cả các nguyên tố khác nữa. Cũng đã biết tốc độ bán rã của chúng. Khi xác định số lượng nguyên tố phóng xạ này hay khác trong các vỏ sò, hến, trong san hô, trong các trầm tích biển hoặc núi lửa, có thể biết được khá chính xác bao nhiêu năm đã trôi qua kể từ khi những di tích hóa thạch này hay khác, hoặc công cụ của người đã bị chìm xuống đáy biển, hoặc bị tro vùi lấp và bị dung nham của núi lửa phủ kín. Ví dụ, từ 1 kg urani (238U), trong những điều kiện nhất định, sau 100 triệu năm, sẽ thải ra 13 g chì và 2 g hêli. Sau 2 tỷ năm, trong đá nguyên khai chứa 1 kg urani, sẽ tích tụ lại 225 g chì và 35 g hêli, còn urani chỉ còn lại 0,5 kg. Sau khi đã xác định được số lượng urani và hêli trong mẫu đá bằng các máy đo có thể tính ra được tuổi của mẫu ấy. Chu kỳ bán rã của kali (40K) - 1,31 tỷ năm, nghĩa là sau 1,31 tỷ năm kể từ khi kali cùng với dung nham núi lửa chảy tràn lên bề mặt một địa điểm này hay khác, trong mẫu dung nham, số lượng kali chỉ còn lại một nửa, thế nhưng sẽ có cùng chừng ấy can xi (40Ca) và acgon (40Ar) được tạo thành. Như vậy, nếu xác định số lượng các hợp phần trong mẫu dung nham thì có thể biết được chính xác tuổi của bản thân dung nham ấy. Còn nếu như dưới lớp dung nham lại có di cốt của người bị chết do phún xuất cùng với nhà ở và đồ dùng của người ấy, thì tuổi của người chết, nhà cửa và đồ dùng, cũng tương ứng với lớp dung nham. Phương pháp xác định niên đại phổ biến nhất trong số các phương pháp dùng đồng vị phóng xạ - là phương pháp dùng cacbon phóng xạ và kali-acgon. Ngoài ra, còn dùng các phương pháp xác định niên đại theo đồng vị của protoactini (231Pa - chu kỳ bán rã 32 nghìn năm), thôri (230Th - 75 nghìn năm), urani (234U - 0,25 triệu năm), clo (36Cl - 0,3 triệu năm), berili (10Be - 2,5 triệu năm), hêli (4He - 4,5 tỷ năm), và v.v... Người ta còn xác định thời gian theo cường độ bức xạ Mặt Trời (phương pháp vật lý thiên văn), theo các dẫn liệu địa chất từ, và v.v... Các nhà địa lý học, địa chất học, dân tộc học, di truyền học, động vật học, đều tích cực quan tâm đến việc nghiên cứu các vật tìm được cổ xưa ; toán học tính toán và nhiều phương pháp khác nữa cũng được sử dụng.
Trong khoảng 15 - 20 năm gần đây, khi sử dụng những thành tựu của khoa học thế giới và những phương pháp mới về khai quật, phục chế và xác định niên đại, các nhà khảo cổ đã có được những phát hiện quan trọng nhất, đặc biệt là trong việc nghiên cứu thời đại đồ đá - thời kỳ đầu tiên trong lịch sử loài người. Thời đại đồ đá không những chỉ là thời đại cổ xưa nhất, mà còn là thời đại dài nhất trong lịch sử. Toàn bộ lịch sử văn tự, bắt đầu từ Sumer và Ai Cập cổ đại, chỉ kéo dài trên 5 nghìn năm một chút. Nếu cho lịch sử văn tự của loài người là một ngày, thì thời đại đồ đá so với một ngày ấy, đã kéo dài 522 ngày (gần một năm rưỡi!).
Trong lịch sử thời đại đồ đá người ta chia ra thành ba thời đại :
1) paleolit [3] (thời đại đồ đá cũ) ;
2) mezolit (thời đại đồ đá giữa) ;
3) neolit (thời đại đồ đá mới).
Thời đại đồ đá cũ còn được chia ra thành một số giai đoạn (hoặc "văn hóa"). Thời đại đồ đá cũ sớm (dưới)   - Ônđuvai : từ khi xuất hiện những con người đầu tiên và kéo dài khoảng 1 - 0,7 triệu năm trước đây. - Asen : 700 - 100 nghìn năm trước đây. - Muschiê (thời đại đồ đá cũ giữa?) : 100 - 35 nghìn năm trước đây. - Thời đại đồ đá cũ muộn (trên) : 35 - 11 nghìn năm trước công nguyên.
Việc sử dụng những phương pháp mới để nghiên cứu thời đại đồ đá, và đặc biệt là trong những năm thứ 60 - 70 ở châu Phi, đã đóng góp thêm nhiều điều không bình thường tới mức lập tức gây nên nhiều cuộc tranh cãi đủ loại, nhiều tin đồn đại, nhiều cuộc thảo luận, mặc dù mới 15 - 20 năm trước đây, không chỉ trong công chúng đông đảo, mà ngay cả trong số các chuyên gia - các nhà nhân chủng học và các nhà khảo cổ học, không hề có điều gì không rõ ràng đối với những vấn đề về nguồn gốc con người.
Mọi người đều xuất phát từ giả thuyết cho rằng nguồn gốc loài người (quá trình phát sinh loài người) bắt đầu từ lúc một con vượn nào đó, một cách ngẫu nhiên, đã dùng tay cầm lấy hòn đá hay cái gậy. Do đó, bây giờ do hai tay đã cầm nắm, con vượn ấy không thể đi bằng bốn chân và đã chuyển sang đi thẳng. Vì vậy, cấu tạo cơ thể con người đã biến đổi. Khi làm việc bằng tay, con người đã rèn luyện đôi tay đến mức ngón tay cái phát triển, và bàn tay biến đổi đi. Do sự "suy ngẫm về công việc", khối lượng não người tăng lên, và toàn bộ những đặc điểm đó được di truyền lại. Hình dạng bên ngoài của con người đã biến đổi một cách dần dần và chậm chạp như thế đó, và con người ngày càng tách xa khỏi vượn, tiến gần đến với chúng ta. Điều cốt yếu làm cơ sở cho giả thuyết này là - những biến đổi tập nhiễm có lợi về cấu tạo cơ thể trong quá trình lao động, dường như được di truyền lại, tích lũy lại dần dần và dẫn đến sự "biến đổi" con người thành loài hiện đại. (Người ta cho rằng, lần đầu tiên con người xuất hiện ở châu Á không sớm hơn 500-800 nghìn năm trước đây).
Còn về những nguyên nhân biến đổi vượn thành người thì trong Đại bách khoa toàn thư Liên Xô (1956) chỉ ra rằng cần phải xem xét "sự tiến hóa như một quá trình thích nghi của cơ thể với môi trường chung quanh... Những dấu hiệu khác biệt của con người như một loài sinh học, chung qui chỉ là đi bằng hai chân gắn liền với việc giải phóng đôi tay khỏi chức năng đi lại và tiến tới phát triển đại não. Cả hai đặc điểm ấy, không còn nghi ngờ gì nữa, nằm trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động lao động...". "Yếu tố then chốt biến đổi vượn thành người là bước chuyển từ ăn thức ăn thực vật sang ăn thịt (tôi nhấn mạnh - G. N.), do điều kiện sống xấu kém đi ở thời kỳ băng hà... so với kỷ thứ ba ấm áp". Người ta đã nghĩ như vậy.
Nhưng vào đầu những năm thứ 60 của thế kỷ chúng ta, các nhà khảo cổ học đã bị chấn động bởi những phát hiện của L. Liki ở châu Phi. Chính những phát hiện ấy đã bác bỏ phần lớn điều mà chúng ta đã quen cho là bất di bất dịch. Chính những phát hiện ấy đã chỉ ra rằng lần đầu tiên, con người xuất hiện ở châu Phi chứ không phải ở châu Á, không phải là 800 nghìn năm trước đây, mà là hơn hai triệu năm về trước. Cũng trong thời gian ấy Đ. Huđôn đã xác định được rằng con người còn có "kẻ cạnh tranh" trong việc chế tạo công cụ - hắc tinh tinh. Cũng chính bà đã phát hiện ra vượn biết săn bắt và ăn thịt. Như vậy, giả thuyết về thức ăn bằng thịt như một "yếu tố then chốt" đã bị nghi ngờ. Còn điều chủ yếu mà những phát hiện mới đã chứng tỏ là cách đi thẳng, tăng thể tích não và những biến đổi khác trong cấu tạo cơ thể con người đã xuất hiện không phải do kết quả hoạt động lao động như người ta vẫn nghĩ về điều đó, mà đã xuất hiện trước khi có hoạt động lao động mấy triệu năm... Đã xác lập được rằng trong môi trường địa lý, những biến đổi quan trọng nhất đã diễn ra không trùng vào thời điểm con người tách ra khỏi giới động vật, mà đã diễn ra muộn hơn mấy triệu năm. Thế là những biến đổi đó không có cách nào ảnh hưởng đến những con vượn người. Không có một con vượn nào trong số đó biến thành người. Như vậy, những biến đổi của khí hậu và giới thực vật không hề có một vai trò quan trọng nào cả trong quá trình phát sinh loài người. Đặc biệt, có một điều không hiểu được là con người đã xuất hiện một cách khá "đột nhiên" và ngay lúc đầu không có cái gì khác (về mặt sinh học) với tổ tiên của mình. (Chỉ có lao động mới phân tách được con người với tổ tiên con người). Hơn nữa, cả tổ tiên và cả con cháu đã cùng tồn tại trong một thời gian dài. Sau đó, tổ tiên (ôstralôpitec châu Phi) đã bị tuyệt chủng, còn con người tiếp tục sống. Nếu như đã bằng cách "đột nhiên" và đã "cùng tồn tại", thì điều đó có nghĩa là không có sự tiến hóa dần dần về biến đổi cấu tạo tổ tiên con người và con người như người ta đã dự đoán điều đó cho đến nay. Cũng vào những năm ấy, các nhà nhân chủng học nhận thấy những trường hợp mà sau này trong lịch sử con người cũng đã có là một số loài người này bị một số loài người khác thay thế không phải bằng cách dần dần và nhịp nhàng, mà bằng cách đột nhiên (ví dụ, sự thay thế người nêanđectan bằng người loài hiện đại (Gheraximôp, 1964)).
Hóa ra là khoa học về tính di truyền và biến dị - di truyền học, có thể bảo vệ được những quan niệm đã trở nên ổn định. Nhưng các nhà di truyền học lại còn làm cho chúng ta nản lòng hơn. "Để hiểu được mối tương quan về mặt xã hội và sinh học trong con người, - N. P. Đubinin viết (1972), - thì một nguyên tắc quan trọng nhất mà cho tới bây giờ vẫn chưa được nhận thức đầy đủ, là những kết quả của hoạt động xã hội-lao động, như các định luật di truyền đã chứng minh, không được ghi lại trong các gen, chúng không trở thành chủ thể của tiến hóa sinh học... Gen nằm trong các phân tử axit nuclêic là vật thể mang vật chất di truyền sinh học".
Như vậy, toàn bộ những điều quen thuộc đã bị đổ vỡ, còn những cái mới thì hoàn toàn không hiểu được. Phần lớn các nhà nhân chủng học và khảo cổ học đã quyết định "chờ đợi". Còn một số người nào đó đã công khai tỏ ra không tin những "sự kiện giật gân" ở châu Phi, và đặc biệt không tin vào R. Đact, người đầu tiên đã phát hiện ra tổ tiên con người (dòng ôstralôpitec). Những lời diễu cợt về các phát hiện của ông đã tới tấp dội vào ông. Như nhà nhân chủng học Liên Xô nổi tiếng V. P. Alecxêep (1969) đã kể lại, thậm chỉ ở nước Anh vốn dè dặt và kiểu cách "trên các báo đã xuất hiện những bức tranh châm biếm Đact, đã in những bài thơ trào phúng về những vật tìm được của ông, và thậm chí còn nhạo báng ông trên các bục sân khấu".
Thế nhưng, những cuộc khai quật ở châu Phi ngày càng đưa đến nhiều dẫn liệu khẳng định rằng R. Đact và L. Liki đã đúng, còn những quan niệm của chúng ta cần được hiệu chỉnh về căn bản. Bây giờ, tuổi của con người được xác định là 2,6 triệu năm. Càng ngày càng có nhiều nhà khoa học đến châu Phi để "bác bỏ sự kiện giật gân của L. Liki", thì chính bản thân họ lại tìm được những tài liệu khẳng định những phát hiện của ông. Như nhà khảo cổ học Liên Xô V. M. Maxxon đã diễn đạt, số lượng những vật tìm được trong khảo cổ học đã lớn lên như một dòng thác. Những đoàn khảo sát quốc tế đã được tổ chức để tiến hành các cuộc khai quật ở châu Phi. Kết quả công tác của những đoàn ấy đã xác định một cách dứt khoát rằng tất cả những phát hiện của R. Đact, L. Liki và Đ. Huđôn là hoàn toàn đáng tin cậy. Gần như tất cả các nhà khoa học-nhân chủng học nổi tiếng nhất đã tham gia những cuộc khai và đều thấy rõ Liki đã đúng. Nhưng một số nhà khoa học lại im lặng. Trong lúc đó, báo chí, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình ngày càng thông báo thường xuyên hơn về những phát hiện mới, về những chuyến đi của các nhà khoa học khác nhau đến châu Phi, về những bằng chứng tuyệt vời đã thu được nhờ vật lý nguyên tử. Và trong công chúng rộng rãi, khi không có sự giải thích tỉ mỉ theo quan điểm duy vật những phát hiện mới, và thực chất là những phát hiện gây nên những ấn tượng mạnh mẽ, thì những tin đồn đại và những phỏng đoán đủ mọi kiểu sẽ trở thành phổ biến. Đã xuất hiện những bộ phim khoa học giả hiệu, khéo léo "chứng minh" rằng dường như tất cả những điều đó là công việc do những bàn tay của "những người từ vũ trụ đến". Nếu như kim tự tháp là do "những người từ nơi khác đến" làm ra, thì ắt hẳn họ cũng "đã đưa" con người đến, - những lập luận như vậy đã phổ biến rộng rãi, và tất nhiên chỉ có bọn phản động là có lợi. Các giáo sĩ cũng không bỏ lỡ cơ hội. Lợi dụng sự im lặng của một số chuyên gia, họ đã mở cuộc tấn công quyết liệt. Trong các tạp chí thần học đã xuất hiện những bài báo về "khủng hoảng của khoa học", "về nguồn gốc con người", và v.v..., và v.v... Thêm vào đó, trong những bài báo ấy đều có dẫn chứng những phát hiện khoa học (nhưng sự kiện đã bị xuyên tạc một cách khéo léo), và đã nói một cách tỉ mỉ rằng họ không giải thích được những lý thuyết đã được thừa nhận trong khoa học, và cuối cùng là kết luận "khoa học ở trong ngõ cụt, chỉ có nhà thờ, tôn giáo là đúng đắn. Muôn sự tại Trời". Thậm chí, bản thân giáo hoàng La Mã Pi XII (1950) cũng đã phát biểu ý kiến bằng một bản thông cáo đặc biệt của giáo hoàng (cho những người theo đạo) "Humani Generis" - "Nguồn gốc con người". Trong bản thông cáo này, giáo hoàng La Mã cam đoan rằng những phát hiện mới khẳng định "thượng đế sáng tạo ra con người"...
Xuất phát từ những quan niệm như trước đây của chúng ta thì khó mà giải thích được những phát hiện mới. Điều đó cũng không có gì lạ, bởi vì nhìn chung, những quan niệm ấy cũng không khác biệt gì mấy so với quan điểm của nhà khai hóa J. B. Lamac ở thế kỷ XVIII, mà khoa học hiện đại hoàn toàn bác bỏ những quan niệm đó. Việc truyền những tính trạng "tập nhiễm có lợi" theo con đường di truyền đã không được khẳng định một cách khoa học. Trong di truyền có những cơ chế hoàn toàn khác. Là một trong số những học trò của M. M. Gheraximôp, tôi đã không dao động khi thừa nhận tính chính xác trong những phát hiện của L. Liki ở châu Phi, và lập tức tôi hiểu rằng cần phải tìm kiếm những giải thích cho tất cả các vấn đề. Sau khi được biết những phát hiện của L. Liki và Đ. Huđôn ít lâu, tôi đã được đọc các công trình của nhà khoa học nổi tiếng N. P. Đubinin "Di truyền học phóng xạ" (1962), "Di truyền học phân tử và tác động của bức xạ đối với tính di truyền" (1963), và v.v… Những công trình đó đã làm đảo lộn tất cả những quan niệm của tôi. Hơn nữa, những câu trả lời đã bắt đầu xuất hiện đối với tất cả các vấn đề còn chưa rõ ràng. Điều đó như một điểm sáng bùng lên đột ngột. Có lẽ, những công trình đầy tài năng của các nhà khoa học cỡ lớn có thuộc tính làm nảy sinh một khối lượng lớn những ý tưởng ở người đọc những công trình ấy.
Đã trở nên rõ ràng là cần phải tìm câu trả lời cho tất cả những "kỳ lạ" về hình thức trong sự biến đổi sinh học của tổ tiên con người, và sự biến đổi tổ tiên con người thành con người, trong các định luật di truyền học, trong lý luận đột biến. Ngay từ năm 1966, tôi đã phát biểu trong một hội nghị chuyên đề về phương pháp luận ở Viện khảo cổ học, về những phát hiện mới, còn năm 1968, - ở Hội nghị toàn liên bang về các vấn đề nguồn gốc loài người (Moscow News, 6-4-1968). Mặc dù những bài phát biểu của tôi (1974) rất ngắn gọn (đó chỉ là những sơ thảo đầu tiên để làm việc), nhưng các báo và tạp chí đã chú ý đến những bài phát biểu ấy [4] . Việc giải thích rộng rãi những giả thuyết của tôi đã tới mức buộc tôi phải lập tức trình bày giả thuyết công tác trước công chúng rộng rãi, mặc dù vẫn còn nhiều vần đề nghi vấn và thiếu sót. Thực chất về quan niệm của tôi đối với các vấn đề nguồn gốc loài người, đã được trình bày rất rõ trong tạp chí "Người cộng sản" (1976, No. 10) (Liên Xô). ("Ngoài việc xác định rõ thêm bằng khoa học hiện đại... những biến đổi khí hậu nhiều lần trên Trái Đất... trong những năm gần đây đã thu được một khối lượng lớn các dẫn liệu mới đặc trưng cho những điều kiện sinh thái, mà trong những điều kiện ấy đã nảy sinh và diễn ra quá trình phát sinh loài người. Đã biết rõ là trong suốt 4,5 triệu năm gần đây, ít nhất, đã có bốn lần thay đổi các cực từ của Trái Đất. Những đứt gãy của vỏ Trái Đất ở Đông Phi và Nam Phi cách đây gần 3-5 triệu năm đã làm lộ rõ những lối thoát ra cho các mỏ quặng urani, đã làm tăng đột ngột phông (nền) phóng xạ của môi trường... của vượn người. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự kết hợp những yếu tố ấy đã tạo điều kiện cho các quá trình đột biến mạnh mẽ... Một trong những con đường chủ yếu để cấu tạo lại về mặt sinh học một cách căn bản, có lẽ là sự tái tổ hợp vốn gen. Di truyền học hiện đại đã ghi nhận được sự giảm có tính quy luật số lượng thể nhiễm sắc trong quá trình tiến hóa của linh trưởng và họ người - từ 54 - 78 ở vượn bậc thấp đến 48 - ở vượn người bậc cao và 46 - ở người. Giả thuyết đã trình bày về sự dính kết các thể nhiễm sắc và về sự tăng cường, như vậy, về những yếu tố xác định sự phát triển của bộ não và hệ thần kinh".
Tác giả hiểu rằng không phải mọi người đều đồng ý với những vấn đề được viết ra trong cuốn sách này. Những người ủng hộ quan điểm của Lamac có thể sẽ phẫn nộ vì việc dùng di truyền học vào vấn đề nguồn gốc loài người. Đến lượt mình, các nhà di truyền học sẽ trách cứ về việc sử dụng có phần tùy tiện thuật ngữ của họ, và đã làm đơn giản hóa các quá trình phức tạp trong tế bào và nhân tê bào. Các nhà nhân chủng học sẽ nêu ra một cách hợp lý là chỉ có thể dùng chữ La Tinh để viết tên các loài, và sẽ không thể dung thứ được nếu dịch các thuật ngữ ra tiếng Nga. Các nhà vật lý học sẽ than phiền, ở đây, những hiện tượng hạt nhân phức tạp không được nêu rõ đặc điểm một cách đầy đủ về mặt nghề nghiệp. Các nhà địa chất học sẽ gợi ý là các đứt gãy - đó không phải chỉ là những rãnh nứt đơn giản ở vỏ Trái Đất, mà là một quá trình kiến tạo phức tạp. Thế còn các đồng nghiệp - các nhà khảo cổ học có thể nhạo báng rằng việc trình bày thời đại đồ đá sớm là không có hệ thống mà là trình bày từng mẩu một, như vậy đã không mô tả được tất cả các di tích của thời đại ấy, và không dẫn ra được tất cả các phức hợp, v.v… và v.v... Và tất cả những điều đó sẽ là hợp lý và đúng đắn. Thế nhưng, hiện nay không thể dùng sức mạnh của một trong số các khoa học để giải quyết trọn vẹn những vấn đề phức tạp và khó khăn về nguồn gốc loài người được. Cần phải có một phương pháp tổng hợp đối với những vấn đề ấy và cần có sự tham gia của các chuyên gia ở các lĩnh vực tri thức khác nhau (không phải chỉ là các nhà khảo cổ học, nhân chủng học vẫn làm việc như cho tới hiện nay). Và nếu như cuốn sách này lôi cuốn được sự chú ý củacác chuyên gia khác nhau đối với những vần đề quan trọng và phức tạp này, thì tác giả cho rằng nhiệm vụ của mình đã được hoàn thành, bởi vì tuyệt nhiên, tác giả không có tham vọng giải quyết vấn đề nguồn gốc loài người, nhiệm vụ của tác giả đơn giản hơn : vạch rõ những khó khăn và đề ra một số hướng giải quyết những khó khăn đó mà điều chủ yếu là đưa ra những nguyên cớ để thảo luận rộng rãi.
Cuốn sách dành cho đông đảo bạn đọc, nhưng để bạn đọc dù có rút ra kết luận gì đi nữa sau khi đọc xong thì những vấn đề sau đây vẫn là bất di bất dịch:
1) Tất cả những phát hiện khoa học mới nhất được giải thích một cách đơn giản hơn, rõ ràng hơn và chủ yếu là xác thực hơn nhờ những quan điểm duy vật mà không cần đến sự bịa đặt "thần thánh" nào cả ;
2) Lao động đã vai trò quyết định trong nguồn gốc con người.
Có thể rất ngạc nhiên về sự sáng suốt thiên tài của F. Ănghen - người phát hiện ra quy luật ấy hơn một trăm năm trước đây, khi vẫn chưa biết gì về tổ tiên của chúng ta - dòng ôstralôpitec, chưa biết gì về tuổi tác của loài người, chưa biết những định luật di truyền. Và hơn nữa, luận điểm ấy đã được những phát hiện mới nhất khẳng định một cách tuyệt vời.

Chú thích
[1] C. Mac và F. Ănghen. Tác phẩm, tập 20, trang 491.
[2] Con người - theo phân loại sinh học thuộc bộ thứ 16 - bộ linh trưởng, lớp có vú (có xương sống). Theo bảng phân loại của H. Simpsơn (Simpson, 1955 ; Napier..., 1967), bộ linh trưởng (Primates) gồm các bộ phụ Lumuroidea (nửa vượn) và Anthropoidea (vượn bậc cao). Bộ phụ Anthropoidea chia ra thành các tổng họ (trên họ) Platyrthini (mũi rộng), mũi hẹp và Hominoidea. Đến lượt mình, Hominoidea bao gồm các họ : parapitec, pôngit và hôminit (Hominidae). Các họ phụ (dưới họ) gibbôn, đriôpitec và pôngin (gôrila, hắc tinh tinh (Pan), đười ươi (Pongo)) thuộc họ pôngit. Anstralopithecus, Pithecantropus và người (Homo) thuộc họ Hominidae. Người hiện đại được gọi là Homo sapiens sapiens ; tiền bối của người hiện đại là Homo sapiens neanderthalus, hoặc gọi đơn giản là nêanđectan.
[3] Các thuật ngữ "paleolit", "mezolit", "neolit" bắt nguồn từ những từ Hy Lạp ghép lại : "palaies" - cổ xưa, "mezos" - ở giữa, trung gian, "neos" - mới và "litos" - thuộc về đá. Những tên gọi "Ônđuvai", "Asen" ("Asơn"), "Muschiê" và những tên gọi khác nữa đều theo tên địa điểm khai quật đầu tiên các di chỉ thuộc thời kỳ (giai đoạn) này hay khác.
[4] Tác giả lược kê một số báo, tạp chí, đã đăng lại bình luận về những bài phát biểu nói trên của tác giả. Ở Việt Nam, số báo và tạp chí ấy rất ít phổ biến, chúng tôi tạm lược bỏ. ND.

Thứ Bảy, 26 tháng 2, 2011

Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại biển Đông thời cổ trung đại

Tham luận của TS. Hoàng Anh Tuấn (giảng viên Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN) trình bày tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ III (Hà Nội 12/2008) và đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9-10/2008, tr. 1-16.

Hải sử nói chung và hải thương sử nói riêng không phải là hướng nghiên cứu quá mới mẻ ở nước ta, dù thành tựu trên lĩnh vực này chưa thực sự nổi bật (1). Trong khi đó, nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của lịch sử dân tộc nhìn từ phương diện biển lại chưa phải là phương pháp tiếp cận phổ biển. Phương pháp này có những lợi thế nhất định, cho phép chúng ta có cái nhìn đối sánh và định vị lịch sử dân tộc trong bối cảnh rộng của hải sử khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, nó đồng thời đòi hỏi sự thận trọng từ người viết khi xác định phạm vi nghiên cứu, đặc biệt là việc phân lập một số khái niệm cụ thể, nhất là những khái niệm liên quan đến dân tộc và tộc người (2).
Trong một số bài viết trước đây, khi điểm qua vị trí của Việt Nam trong hệ thống hải thương khu vực thời cổ trung đại, tôi đã rất cân nhắc khi phân lập và sử dụng một số thuật ngữ như “Việt Nam/Đại Việt”, “người Việt”… nhằm tránh những cách hiểu không sát thực với bối cảnh lịch sử chung của quốc gia Đại Việt và cả khu vực (3). Một cách khái quát, việc phân lập cụ thể nội hàm một số khái niệm sẽ giúp người viết tránh được những cách hiểu thái quá (hoặc quá tích cực, hoặc quá tiêu cực) về vị trí của Việt Nam trong hệ thống hải thương khu vực qua các thời kì lịch sử. Trên quan điểm đó, bài viết này tiếp tục thảo luận về vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại Biển Đông thời cổ trung đại, đặc biệt là vai trò của một số hải cảng chính yếu của quốc gia Đại Việt dưới thời Lí – Trần – Lê sơ – Mạc, dưới tác động của quá trình biến đổi, chuyển dịch của mạng lưới hải thương khu vực và quốc tế (4).

Giao Chỉ/Giao Châu trong hệ thống hải thương Vịnh Bắc Bộ đến trước thế kỉ X

Trái với các quan điểm sử học truyền thống vốn có xu hướng hạ thấp vị trí của miền bắc nước ta trong hệ thống hải thương khu vực thời kì cổ và trung đại, những nghiên cứu gần đây, nhất là những nghiên cứu của các nhà Việt Nam học nước ngoài, sử dụng tư liệu thành văn của Trung Quốc thời kì sớm cho thấy, trong thực tế, lãnh thổ của người Việt có vị trí quan trọng trong các tuyến hải thương ở Biển Đông hơn những gì chúng ta từng nghĩ.
Những phát hiện khảo cổ học tại các di tích đá mới sau Hoà Bình (Soi Nhụ, Cái Bèo) và hậu kì đá mới (Ngọc Vừng, Hạ Long) trong những thập kỉ qua cho thấy mật độ cư trú khá cao và ổn định của các nhóm cư dân cổ tại các khu vực duyên hải nước ta (5). Không chỉ tiến hành khai thác và canh tác tại chỗ, những cư dân cổ ở đây còn tiến hành giao lưu và trao đổi với các nhóm cư dân khác ở phía nam Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Đông Nam Á…tạo nên một thế ứng xử tương đối mở và một truyền thống giao lưu sớm và mạnh với thế giới bên ngoài (6).
Sau khi nhà Tần (Trung Quốc) bình định xong các tộc người Việt phương Nam vào năm 214 TrCN, miền bắc nước ta trở thành một bộ phận của quận Tượng, một trong bốn quận (Mân Chung, Nam Hải, Quế Lâm và Tượng) do nhà Tần lập ra. Sau một thời gian ngắn thoát khỏi sự cai trị của nhà Tần (208-179 TrCN), năm 179 TrCN người Âu Lạc lại bị Nam Việt của Triệu Đà xâm lược và đến năm 111 TrCN miền bắc nước ta bị sát nhập vào sự quản lí của nhà Hán (7). Những tài liệu sớm của người Trung Quốc cho thấy mục tiêu chính của việc xâm lược phương nam của các triều đại Trung Quốc là nhằm cướp bóc của cải của các tộc người Việt giàu có, nhất là với những sản vật nhiệt đới như sừng tê, ngà voi, lông chim trả, ngọc trai… trao đổi được với các nhóm cư dân phương nam (8).
Các nguồn sử liệu thành văn Trung Quốc giai đoạn sớm đồng thời cho thấy, trong một số thế kỉ nhất định dưới thời kì Bắc thuộc, Giao Chỉ đóng vai trò như một trung tâm điều phối của nền hải thương Trung Quốc ở khu vực Biển Đông; lị sở Long Biên từng là trung tâm của các hoạt động giao lưu thương mại, nơi đón tiếp các phái đoàn thương nhân nước ngoài đến buôn bán với Trung Quốc. Những tài liệu này đồng thời cung cấp những bằng chứng cụ thể về sự tồn tại của một tuyến buôn bán thường xuyên kết nối Quảng Châu với các trung tâm buôn bán nằm trong khu vực tây bắc Vịnh Bắc Bộ (9). Vào khoảng đầu Công nguyên, hai cảng Hợp Phố (Hepu) và Tư Văn (Xuwen) nằm ở sườn bắc Vịnh Bắc Bộ – nơi nghề đánh bắt và buôn bán ngọc trai đã rất phát triển – được ghi nhận là điểm xuất phát của người Trung Quốc đi buôn bán ven bờ xuống phía nam. Không lâu sau đó, hai thương cảng này đánh mất dần vị trí trung tâm điều phối của mình và thương nhân phương nam thường xuyên ghé vào vùng hạ châu thổ sông Hồng (10).
Miền Bắc nước ta đã đóng vai trò quan trọng như cửa ngõ giao thương của Trung Quốc ít nhất trong khoảng ba thế kỉ đầu sau Công nguyên. Từ giữa thế kỉ III sau Công nguyên, các cuộc khởi nghĩa liên tiếp của người Việt chống lại ách cai trị của người Hán liên tiếp nổ ra. Chính sách cai trị khắc nghiệt và sự vơ vét của các thái thú Trung Quốc ở nước ta không chỉ tác động tiêu cực đến tình hình trao đổi buôn bán nội tại mà còn bị coi là một trong số các nguyên nhân dẫn đến các cuộc đánh phá của người Chàm ra phía bắc từ nửa cuối thế kỉ IV do ảnh hưởng đến các luồng trao đổi truyền thống của Chămpa qua Giao Chỉ lên Trung Quốc (11). Sau khi quan hệ với Chămpa ở phía nam được bình ổn, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lại liên tiếp nổ ra ở miền bắc nước ta, tác động xấu đến điều kiện buôn bán. Như một hệ quả, thương nhân nước ngoài chuyển hướng buôn bán, đưa thương thuyền của họ xa hơn về phía bắc đến khu vực Quảng Châu, nơi tình hình chính trị ổn định và điều kiện buôn bán cũng thuận lợi hơn (12). Mặc dù sau đó tình hình miền bắc nước ta trở lại ổn định và thương nhân ngoại quốc đôi khi ghé vào trao đổi, dường như khu vực châu thổ Bắc Bộ đã không thể lấy lại vị trí của mình trong hệ thống hải thương khu vực như ở những thế kỉ trước đó. Cùng thời điểm trên, cảng Quảng Châu tiếp tục hưng thịnh và nhanh chóng trở thành cửa ngõ chính để thương nhân Trung Quốc buôn bán xuống phương nam. Từ triều Tuỳ (589-618), cảng Quảng Châu không chỉ là điểm khởi hành của phần lớn thương thuyền Trung Quốc đi xuống buôn bán với phương nam mà thương nhân ngoại quốc đến Trung Quốc cũng lưu trú và buôn bán tại đây (13). Hệ thống hải thương tích cực của triều Đường thế kỉ VII-X xuống Đông Nam Á cũng như việc thương nhân Tây, Nam, và Đông Nam Á hoạt động năng động tại miền nam Trung Quốc góp phần kiềm toả sự hưng thịnh trở lại của hải thương khu vực duyên hải miền bắc nước ta, mặc dù hoạt động buôn bán vẫn được duy trì nhưng ở cấp độ không thực sự cao (14).

Thế kỉ X – giữa thế kỉ XV

Trong một thời kì tương đối dài các nhà nghiên cứu trong nước có xu hướng duy trì cái nhìn tương đối thiếu tích cực về ngoại thương Đại Việt từ sau khi giành được độc lập vào thế kỉ X. Trái lại, các nhà sử học nước ngoài cho rằng sự thuyên chuyển vai trò điều phối thương mại biển từ Giao Chỉ sang các hải cảng miền nam Trung Quốc từ nửa cuối thời kì Bắc thuộc cũng như việc người Việt giành được độc lập vào thế kỉ X không đồng nghĩa với việc phủ nhận vị trí của miền bắc nước ta trong hệ thống thương mại khu vực, nhất là trong tuyến hải thương nối Trung Quốc với các khu vực buôn bán phía nam (15). Những quan điểm trên ngày càng được củng cố vững chắc trên cơ sở những nghiên cứu mới, góp phần khẳng định biển và kinh tế biển đã đóng vai trò khá quan trọng trong sự phát triển của lịch sử Việt Nam cổ trung đại hơn nhiều lần người ta từng nghĩ (16).
Hằng số nước, hằng số biển và các hoạt động kinh tế, văn hoá gắn với các hằng số này trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử Việt Nam đã được các nhà nghiên cứu quan tâm phân tích từ lâu (17). Năm 1986, trên cơ sở phân tích sự hình thành và phát triển của các trung tâm buôn bán ven biển (Vân Đồn và Nghệ – Tĩnh) thời Lí – Trần, nhà sử học người Mĩ John Whitmore đã đề cao “vai trò thương mại năng động của người Việt trong nền thương mại quốc tế rất hưng thịnh thời bấy giờ”, đồng thời kêu gọi các nhà nghiên cứu tập trung làm sáng tỏ các vấn đề như “nền tảng sản xuất xã hội phục vụ thương mại, phương thức tổ chức thương mại và sự năng động xã hội đưa đến sản phẩm dư thừa…”. Ông kết luận “nguồn của cải thu được từ thương mại chắc chắn đã góp phần đáng kể vào việc thiết lập và củng cố quyền lực chính trị, kích thích nền kinh tế bản địa” (18). Quan điểm này của Whitmore sau đó được các nhà sử học kế cận như Momoki Shiro, Li Tana, Charles Wheeler, Nola Cooke… tiếp tục nghiên cứu và đến nay đã có những nhận thức sáng tỏ (xin xem cụ thể ở những phần tiếp theo).
Những thông tin dù sơ lược trong các bộ sử còn lại đến ngày nay cho thấy, sau khi giành được độc lập vào thế kỉ X, nhất là dưới vương triều Lí (thế kỉ XI-XIII), triều đình không hoàn toàn quay lưng lại với thương mại nói chung và ngoại thương nói riêng. Trên cơ sở của nền thủ công nghiệp tương đối phát triển, triều Lí đã có những động thái tương đối tích cực trong buôn bán với nước ngoài. Theo sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lí Đào, chỉ hai năm sau khi thành lập, năm 1012 triều Lí xin nhà Tống cho mở tuyến buôn bán đến Ung Châu qua đường biển; nhà Tống khước từ và chỉ cho phép thương nhân Đại Việt đến trao đổi tại Quảng Châu và một số địa điểm khác ở khu vực biên giới (19). Năm 1040, trên cơ sở của một nền thủ công nghiệp dệt lụa đã phát triển, vua Lí Thái Tông “dạy cung nữ dệt được gấm vóc [nên] xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan […] để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa” (20). Năm 1149, đáp lại việc thuyền buôn các nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La đến Hải Đông xin cư trú buôn bán, nhà Lí “cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương” (21). Ở khu vực phía nam, các trung tâm trao đổi ở vùng Nghệ – Tĩnh cũng có điều kiện phát triển, thu hút một lượng lớn thương nhân từ Trung Quốc và Đông Nam Á đến buôn bán (22). Vượt ra khỏi ý nghĩa quốc gia về chiến lược phát triển kinh tế, trên phương diện hải thương khu vực và quốc tế, việc nhà Lí lập trang Vân Đồn có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu sự dự nhập của quốc gia Đại Việt vào hệ thống hải thương khu vực và quốc tế qua khu vực Biển Đông, thể hiện ở một số nét chính sau đây.
– Cho đến trước thế kỉ XV, các tuyến hải thương quốc tế nối Trung Quốc với các thị trường phương nam chủ yếu đi qua khu vực vịnh Bắc Bộ; vùng duyên hải Đông Bắc nước ta vì thế có vị trí hết sức quan trọng. Trong ghi chép của các thương nhân và thuỷ thủ ở các thế kỉ X-XV, vùng biển trải dài từ phía nam Trung Quốc qua Vịnh Bắc Bộ xuống vùng bờ biển Chămpa nổi tiếng với tên gọi Giao Chỉ Dương (Biển Giao Chỉ). Trong khu vực buôn bán sôi động này, các thương phẩm chính là nô lệ, muối và ngựa đã được trao đổi thường xuyên và Đại Việt thời Lí đã tham dự một cách tích cực vào các hoạt động buôn bán ở khu vực biển Giao Chỉ (23). Phân lập các tuyến thương mại, học giả Li Tana cho rằng, trong bối cảnh rộng của thương mại khu vực và quốc tế khoảng cuối triều Đường (thế kỉ VII-X), Giao Châu nói chung và miền bắc nước ta nói riêng có ưu thế trong việc trao đổi thương phẩm giữa hai khu vực là biển và các vùng nội địa trong khi Quảng Châu và các cảng nam Trung Quốc giữ vị thế tiên phong trong giao dịch với các thương thuyền đến từ Đông Nam Á, Tây Á và Nam Á (24).
– Cũng từ thời Đường, thương nhân và thuỷ thủ Hồi giáo có vai trò quan trọng trong hệ thống hải thương ở khu vực Đông Á. Vượt qua các trung tâm trao đổi Đông Nam Á truyền thống, thương nhân Hồi đã đến định cư và buôn bán tại nhiều thương cảng ở phía nam Trung Quốc, khu vực đảo Hải Nam và được ghi nhận là có vai trò năng động trong các tuyến buôn bán nhỏ ở khu vực Giao Chỉ Dương (25). Ở một số trung tâm buôn bán lớn như Tuyền Châu (Phúc Kiến), các dòng họ Hồi lớn như Pu Kai-zong (Bồ Khai Tông) và Pu Shou-geng (Bồ Thọ Khang) còn được nhà Tống phong làm quan giám thương tại cảng Tuyền Châu (26). Trong khi đó, ở đảo Hải Nam, cộng đồng Hồi giáo đông đến mức nhiều làng của người Hui-hu (Hồi Hồ) đã được lập nên ở các khu vực duyên hải thuộc đảo Hải Nam (27). Không chỉ có vị thế thương mại vững chắc tại các hải cảng miền nam Trung Quốc như các quan điểm truyền thống trước đây thường ghi nhận, Hồi thương còn tích cực tham dự vào các tuyến buôn bán nối liền biển với các khu vực nội địa, góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát triển của mạng lưới trao đổi ở Biển Đông thời kì này (28).
– Với Đại Việt từ cuối thời Trần và đầu thời Lê, vai trò của thương cảng Vân Đồn và vùng cảng biển Đông Bắc trong hệ thống hải thương khu vực và quốc tế ở Biển Đông được biết đến nhiều qua chức năng trung chuyển và xuất khẩu gốm sứ. Bên cạnh chức năng trung chuyển gốm sứ Trung Quốc ra thị trường khu vực, Vân Đồn còn được biết đến như cửa ngõ đưa gốm sứ Đại Việt (men nâu thời Trần và men lam thời Lê sơ) ra thị trường quốc tế (29). Trong một cái nhìn phổ quát, sự nổi lên của gốm sứ Đại Việt trên thị trường quốc tế vào thời điểm này đã đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu cao về gốm sứ thương mại của thị trường Tây Á (Ba Tư, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kì…) cũng như các thị trường Hồi giáo khu vực như tại Philippines, Sulawesi…(30). Gốm sứ Đại Việt còn được xuất khẩu ra thị trường khu vực đến nửa cuối thế kỉ XVI trước khi bị suy giảm do cả nguyên nhân trong nước (biến động chính trị tác động đến kinh tế) cũng như những tác động từ bên ngoài (việc nhà Minh bãi bỏ chính sách Hải Cấm vào năm 1567 tạo điều kiện cho sản phẩm gốm sứ Trung Quốc trở lại chiếm lĩnh thị trường quốc tế) (31).
– Một trong những nhân tố tác động rất lớn và gần như xuyên suốt “kỉ nguyên sớm của thương mại Đông Nam Á (900-1300)”, như Geoff Wade từng đề xuất, là những chính sách về thương mại và kinh tế hết sức tích cực và chủ động của các vương triều Tống và Nguyên ở Trung Quốc. Nối tiếp chủ trương coi trọng tiền tệ để phát triển thương mại của các chư hầu thời kì Ngũ Đại, dưới thời Tống, những chính sách cụ thể về tiền tệ, trao đổi, thuế khoá… trong giao dịch với người nước ngoài đã được thực thi nhằm kích thích sự mở rộng của ngoại thương (32). Trên cơ sở đối sánh với những biến chuyển của hải thương khu vực, nhất là hải thương Trung Quốc, đã có nhiều quan điểm cho rằng việc nhà Lí lập trang Vân Đồn và biến khu vực Đông Bắc thành cửa ngõ thông thương của Đại Việt là một phản ứng nhanh nhạy và thức thời, kéo Đại Việt dự nhập một cách chủ động và có hệ thống vào quỹ đạo thương mại quốc tế ở khu vực Vịnh Bắc Bộ vốn đã hưng thịnh từ nhiều thế kỉ trước, đặc biệt là sau những chính sách ngoại thương tích cực của triều Tống vào cuối thế kỉ X (33).

Giữa thế kỉ XV – cuối thế kỉ XVI

Diện mạo ngoại thương Đại Việt nói chung cũng như thương cảng Vân Đồn và khu vực duyên hải Đông Bắc nói riêng từ khoảng ba thập niên cuối của thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVI đã và đang là chủ đề thu hút nhiều tranh luận giữa các nhà nghiên cứu trong những năm gần đây. Sự thiếu vắng thông tin về vùng hải cảng Đông Bắc từ sau năm 1467 trong các bộ chính sử Việt Nam khiến cho việc nghiên cứu gặp không ít trở ngại, đồng thời dẫn đến những nhận định về sự suy thoái của ngoại thương và sự suy giảm chức năng của thương cảng Vân Đồn (34). Trong khi đó, thông tin từ những đợt khảo sát, điền dã, khai quật khảo cổ học, kết quả nghiên cứu gốm sứ thương mại kết hợp với phương pháp sử học so sánh lại cho phép suy luận về thương cảng Vân Đồn nói riêng và vùng duyên hải Đông Bắc nói chung trong mạng lưới hải thương khu vực dưới một quan điểm có phần tích cực hơn. Học giả John Whitmore đã bày tỏ sự băn khoăn của mình về “Sự biến mất của Vân Đồn từ cuối thế kỉ XV” khi Ông cho rằng, trên phương diện chính sách quan phương của triều đình Lê sơ, nhất là từ triều Lê Thánh Tông (1460-1497), rõ ràng nhà nước thể hiện những động thái khá tiêu cực đối với ngoại thương và sự tồn tại của thương cảng Vân Đồn (35). “Nếu chúng ta đánh đồng dòng chảy gốm sứ Đông Nam Á với hệ thống Giao Chỉ Dương và tin chắc rằng Vân Đồn là mấu chốt quan trọng của hệ thống này trong vài thập kỉ đó [cuối thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XVI], vậy thì điều gì đã diễn ra? R. Brown từng gợi ý về “khoảng trống Mạc” của sản phẩm gốm sứ Việt Nam (và của các quốc gia khác) trong thế kỉ XVI. Dường như “khoảng trống Mạc” này đánh dấu sự chấm dứt của hệ thống Giao Chỉ Dương, sự biến mất của Vân Đồn, và sự quá độ sang một hệ thống mới dạng như Hội An. Làm sao để chúng ta có thể lí giải được điều này?” (36)
Trong thực tế, nếu như chính sử Đại Việt hàm ý về sự suy giảm chức năng và xa hơn là sự suy tàn của Vân Đồn, gốm sứ thương mại của Đại Việt xuất khẩu ra thị trường quốc tế giai đoạn cuối thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI khiến người ta không khỏi hoài nghi về giả thuyết này. Bản thân Whitmore, mặc dù đưa ra quan điểm về sự suy tàn của Vân Đồn cũng như khả năng Đại Việt đánh mất vai trò của mình trong hệ thống thương mại khu vực và quốc tế ở Biển Đông từ cuối thế kỉ XV, vẫn thể hiện sự do dự nhất định khi so sánh với những thông tin từ kết quả nghiên cứu gốm sứ thương mại khai quật các con tàu đắm trong những năm gần đây. Ông băn khoăn: “Đứng trên vấn đề này [chính sách phát triển kinh tế dưới triều Lê Thánh Tông], chúng ta có thể suy luận rằng nền hành chính ổn định và phát triển của Đại Việt trong thế kỉ XV chắc chắn đã kích thích và hậu thuẫn cho sản xuất thủ công nghiệp và hệ thống thương mại [tồn tại] như một bộ phận của mạng lưới Giao Chỉ Dương. Trong thực tế, Vân Đồn nhiều khả năng đã trở thành điểm then chốt trong mạng lưới này trong một phần tư cuối của thế kỉ XV cũng như trong thế kỉ XVI và thay thế cho Thị Nại. Tôi tin rằng chừng nào cấu trúc quan liêu [triều Lê] còn tiếp tục hoạt động tốt, chừng đó nội thương và ngoại thương còn diễn ra êm đẹp” (37).
Có thể nói, việc xác định vị trí của thương mại Đại Việt trong hệ thống hải thương khu vực Biển Đông từ sau năm 1460 đến cuối thế kỉ XVI đã và đang thực sự thử thách các nhà nghiên cứu. Việc triều Lê sơ, đặc biệt là từ thời Hồng Đức (1460-1497) có những chính sách thiếu tính tích cực đối với vấn đề ngoại thương và khu vực hải cảng Vân Đồn cũng như toàn bộ vùng Đông Bắc là điều có thật, thể hiện rõ nét trong bộ Quốc triều hình luật được biên soạn vào thời kì này (38). Tuy nhiên, ở một khu vực biên viễn như khu vực Vân Đồn, sự tồn tại của các hoạt động thương mại phi quan phương là điều khó có thể phủ nhận; thương nhân Đại Việt và thương nhân nước ngoài chắc chắn vẫn duy trì hoạt động trao đổi ở một cấp độ nhất định. Dù sao mặc lòng, chính sách không mấy cởi mở của triều đình Lê sơ chắc chắn đã có những tác động tiêu cực đến sự phát triển của Vân Đồn nói riêng và toàn khu vực hải cảng Đông Bắc nói chung từ sau thập niên 1460.
Sự phát triển của thủ công nghiệp cũng như thái độ cởi mở của nhà Mạc (1527-1592) đối với thương nghiệp có tác động đáng kể đến tình hình trao đổi trong nước thời kì này. Tuy nhiên, bản thân vấn đề ngoại thương Đại Việt dưới triều Mạc lại tồn tại những tranh luận. Nếu như trước đây người ta vẫn tin vào một sự song hành mang tính tất yếu giữa sự mở rộng của thủ công nghiệp (và nội thương) với sự hưng thịnh của ngoại thương Đại Việt thời Mạc, một số nhà nghiên cứu gần đây lại bày tỏ những băn khoăn, cho rằng cấu trúc hải thương quốc tế khu vực Biển Đông đã thay đổi mạnh vào đầu thế kỉ XVI, khiến cho vị trí của Đại Việt trên các tuyến hải thương truyền thống của khu vực bị ảnh hưởng rất lớn. Trong rất nhiều những nhân tố tác động đến hải thương khu vực, tôi cho rằng có ít nhất ba vấn đề cơ bản sau đây cần được lưu ý khi nghiên cứu ngoại thương Đại Việt thế kỉ XVI, đặc biệt là khu vực duyên hải Đông Bắc. Thứ nhất, sự thâm nhập của người Bồ Đào Nha vào phương Đông và quá trình xác lập mạng lưới thương mại liên Đông Á của Công ti Hoàng gia Bồ Đào Nha (Estado da India) (39) đã từng bước phá vỡ cấu trúc thương mại Bắc – Nam ở khu vực Biển Đông và Nam Hải (40). Đặc biệt, với sự thâm nhập của người Bồ vào miền nam Trung Quốc và xác lập vị trí thương mại của họ tại Macao trong nửa đầu thế kỉ XVI, hoạt động buôn bán tại các khu vực duyên hải nam Trung Quốc và Đông Bắc Việt Nam đã bị tác động đáng kể, nếu không muốn nói là bị suy giảm bởi sức hút mạnh từ người Bồ định cư buôn bán ở Macao (41).
Thứ hai, việc thương nhân Trung Quốc, đặc biệt là thương nhân Phúc Kiến, khai mở và phát triển ngày càng mạnh mẽ tuyến hải thương nam Trung Quốc – Philippines – Đông Nam Á từ cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV (42) đã tác động không nhỏ đến vị trí của các hải cảng ven biển nước ta. Sau khi người Tây Ban Nha đến định cư và buôn bán tại Philippines, mang đến đây hàng năm một lượng bạc lớn từ Tân Thế giới, số lượng Hoa thương đổ về đây buôn bán ngày càng tăng. Như một hệ quả, trong khi tuyến đường biển phía đông (Dongyang hanglu) của người Trung Quốc xuông Đông Nam Á ngày càng phát triển, tuyến đường truyền thống phía tây dọc duyên hải Việt Nam (Xiyang hanglu) ngày càng mất đi vị thế (43). Trong bối cảnh đó, việc vùng Đông Bắc nói riêng và phần lớn duyên hải Đại Việt mất đi vị thế ưu việt của mình trong hệ thống buôn bán chung của khu vực là điều có thể lí giải được.
Thứ ba, mạng lưới mậu dịch gốm sứ quốc tế đã có những thay đổi mạnh từ giữa thế kỉ XVI và tác động không nhỏ đến Đại Việt. Nếu như chính sách Hải Cấm của nhà Minh trong các thế kỉ XIV và XV đã tạo điều kiện rất lớn cho gốm sứ Đông Nam Á (gốm hoa nâu và Chu Đậu của Đại Việt, gốm Gò Sành của Chămpa, gốm Sawankhalok của Xiêm…) phát triển và chi phối luồng gốm sứ thương mại khu vực và quốc tế, việc bãi bỏ chính sách đóng cửa của nhà Minh vào năm 1567 đồng thời đặt dấu chấm hết cho kỉ nguyên gốm sứ thương mại Đông Nam Á sau khi gốm sứ Trung Quốc trở lại chiếm lĩnh thị trường (44). Trong bối cảnh đó, việc gốm sứ Đại Việt ở giai đoạn cuối của triều Mạc, dù vẫn phát triển, không còn chiếm lĩnh được thị trường bên ngoài, tạo nên một “khoảng trống Mạc” (Mac gap) trong thương mại gốm sứ quốc tế như Roxanna M. Brown (45) từng băn khoăn là điều có thể lí giải được từ bình diện thương mại gốm sứ khu vực và quốc tế.
Bên cạnh ba nhân tố mang tính ngoại cảnh trình bày trên đây, sự thay đổi triều chính liên tục ở Đại Việt từ những thập kỉ đầu của thế kỉ XVI có thể được coi là nhân tố nội tại và tác động trực tiếp đến vị trí của Đại Việt, nhất là các hải cảng khu vực Đông Bắc, trong hệ thống thương mại Biển Đông thời kì này. Sau khi lên ngôi năm 1527, Mạc Đăng Dung (và các vua tiếp theo của triều Mạc) luôn chủ trương phát triển quê hương Dương Kinh (Hải Phòng) thành trung tâm chính trị thứ hai sau Thăng Long, đồng thời biến nơi đây thành cửa ngõ thông thương của Đại Việt ra bên ngoài (46). Chiến lược này của họ Mạc rõ ràng đã lấy đi một phần rất lớn ưu thế thương mại của Vân Đồn và vùng duyên hải Đông Bắc, mặc cho nhà Mạc duy trì một tầm nhìn khá cởi mở về thương mại. Từ cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, với sự chuyển giao quyền lực từ triều Mạc sang triều đình Lê-Trịnh, cửa ngõ thông thương của Đại Việt lại tiếp tục có những hoán đổi: từ Dương Kinh chuyển dịch xuống vùng cửa sông Thái Bình. Như vậy là, chỉ trong vòng khoảng một trăm năm dưới triều Mạc và triều Lê-Trịnh, cửa ngõ thương mại chính yếu của quốc gia Đại Việt đã liên tục chuyển dịch xuống phía nam: từ Vân Đồn (thế kỉ XII – XVI) qua Dương Kinh (thế kỉ XVI) xuống vùng cửa sông Thái Bình (thế kỉ XVII – khoảng thế kỉ XIX).
Điều đáng nói là, nếu như giai đoạn Dương Kinh vẫn nằm trong giai đoạn quá độ của hải thương khu vực (thế kỉ XVI, người phương Tây bắt đầu thâm nhập), sự nổi lên của vùng cửa sông Thái Bình gắn với một kỉ nguyên mới của hải thương khu vực Đông Á. Từ thế kỉ XVII, các tuyến hải thương truyền thống ở khu vực Biển Đông và Nam Hải vốn được điều hành bởi thương nhân châu Á (Trung Quốc, Đông Nam Á, Nam Á và Tây Á) trước đây đã dần dần bị người phương Tây (Hà Lan, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha…) chiếm lĩnh. Không chỉ cấu trúc hải thương khu vực mà ngay cả nội dung (hay bản chất) của các luồng hải thương cũng bị biến đổi để phù hợp với bối cảnh mới (47). Trong kỉ nguyên mới của thương mại khu vực Đông Á, quốc gia Đại Việt (cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) đều có vị trí quan trọng và trong những thời kì nhất định trở thành những mắt xích không thể thay thế (48). Riêng tại Đàng Ngoài, một thực tế không thể phủ nhận là trong thế kỉ XVII và một phần của thế kỉ XVIII, đại đa số các thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán với Đàng Ngoài đều vào cửa sông Thái Bình và lưu trú tại Domea (Tiên Lãng) trong khi hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra chủ yếu tại kinh đô Thăng Long (49). Việc đại đa số thương nhân và thương thuyền ngoại quốc tập trung về Tiên Lãng thế kỉ XVII-XVIII cũng như trường hợp nổi lên của Dương Kinh thế kỉ XVI, như một hệ quả, đã làm suy giảm đáng kể, trên phương diện quan phương, vị trí và vai trò của Vân Đồn nói riêng và khu vực cảng biển vùng Đông Bắc nói chung.
Mặc dù vậy, cũng cần nói thêm rằng, sự chuyển dịch cửa ngõ buôn bán xuống vùng Dương Kinh (thế kỉ XVI) và cửa sông Thái Bình (thế kỉ XVII – XVIII) không đồng nghĩa với sự “biến mất” hay “suy tàn hoàn toàn” của Vân Đồn và vùng duyên hải Đông Bắc như một số nhà nghiên cứu từng quan niệm. Với vị trí tiếp giáp với khu vực thương mại sôi động ở đông nam Trung Quốc, Vân Đồn và khu vực duyên hải Đông Bắc – dù không còn là cửa ngõ thương mại chính của Đại Việt như ở giai đoạn Lí, Trần – vẫn có vai trò thương mại đáng kể. Những nỗ lực của người Hà Lan và người Anh trong chiến lược xây dựng trung tâm buôn bán ở vùng biên giới Đông Bắc trong nửa cuối thế kỉ XVII cho thấy khu vực này vẫn có vị trí quan trọng trong trao đổi với Trung Quốc qua các trung tâm trao đổi lớn (bạc dịch trường) ở dọc biên giới (50). Tuy nhiên, trở lực lớn nhất cho sự phát triển của vùng Đông Bắc từ nửa cuối thế kỉ XVII là vấn đề hải tặc và sự bất ổn chính trị ở vùng nam và đông nam Trung Quốc sau sự biến Minh – Thanh năm 1644. Sau khi nhà Minh sụp đổ, nhiều nhóm hải tặc cũng như các thế lực “phản Thanh phục Minh” thường chọn vùng nam Trung Quốc, một phần giáp với biên giới Việt – Trung, để trú chân và tiến hành cướp bóc các thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán với Đàng Ngoài qua khu vực phía bắc Vịnh Bắc Bộ và bán đảo Lôi Châu (51). Triều đình Lê-Trịnh vì thế thắt chặt quản lí vùng Đông Bắc trong phần lớn thế kỉ XVII, khiến cho vị trí thương mại của khu vực này không có điều kiện phát huy như ở các thế kỉ trước.

Một số nhận xét

Là một trong số các khu vực hải thương năng động bậc nhất thế giới thời cổ, trung và cận đại sơ kì, Vịnh Bắc Bộ nói riêng và khu vực Biển Đông nói chung là điểm đến của nhiều thương nhân và thương thuyền ngoại quốc. Vào thời cổ trung đại, thương nhân châu Á (Trung Quốc, Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á) đã hội tụ về đây buôn bán, biến nơi đây thành một khu vực hải thương sôi động. Các hải cảng thuộc duyên hải nước ta (Vân Đồn ở Đông Bắc; Thanh-Nghệ-Tĩnh ở bắc Trung Bộ; Vijaya của người Chăm ở nam Trung Bộ…) cũng nhờ đó mà phát triển theo. Với sự thâm nhập của người châu Âu vào Đông Á đầu thế kỉ XVI, cấu trúc hải thương truyền thống ở khu vực Biển Đông dần dần bị phá vỡ, thay thế bởi một cấu trúc mới mang đậm dấu ấn của các thế lực thương mại và hàng hải phương Tây.
Tương ứng với các giai đoạn phát triển chính của thương mại khu vực và quốc tế qua Biển Đông, Đại Việt, thông qua các hải cảng và trung tâm buôn bán duyên hải, đã thể hiện các cấp độ dự nhập và đóng những vai trò khác nhau. Trong cái nhìn lịch sử và hệ thống, sự dự nhập và điều chỉnh của Đại Việt trong hệ thống thương mại Biển Đông được thể hiện rõ qua quá trình tự điều chỉnh cửa ngõ thông thương: quá trình chuyển dịch dần dần xuống phía nam để hội nhập với những biến chuyển của hải thương khu vực. Nếu như dưới thời kì Lí, Trần và đầu Lê sơ (thế kỉ XI – cuối thế kỉ XV), Vân Đồn và vùng duyên hải Đông Bắc là cửa ngõ chính của quốc gia Đại Việt, trong thế kỉ XVI Dương Kinh (Hải Phòng) trở thành đầu mối giao thương trọng yếu của triều Mạc. Sự thiên dịch còn tiếp diễn trong thế kỉ XVII với sự nổi lên của vùng cửa sông Thái Bình (Tiên Lãng, Hải Phòng) như cửa ngõ giao thương chính của Đại Việt thời Lê – Trịnh.
Nếu như tự thân sự thiên dịch trên chỉ mới phản ánh thực tế lịch sử, luận giải về nội dung của những biến thiên lịch sử, nhất là phân tích các vấn đề nội và ngoại cảnh tác động đến sự thiên dịch, sẽ cung cấp những kiến giải sâu sắc về sự thay đổi bản chất và cấu trúc của các hiện tượng lịch sử trên. Như đã phân tích, đến nửa đầu thế kỉ XVI gốm sứ được coi là thương phẩm chính của Đại Việt xuất khẩu ra bên ngoài nên Vân Đồn và vùng Đông Bắc – khá gần trung tâm gốm sứ Chu Đậu (Hải Dương) – có vị trí thuận lợi cho hoạt động chuyên chở và xuất khẩu. Bên cạnh đó là việc Vân Đồn án ngữ vùng cửa ngõ Vịnh Bắc Bộ – trung tâm của các hoạt động trao đổi nô lệ, muối, ngựa…của thế giới hải thương Giao Chỉ Dương, nơi có sự tham gia của đông đảo thương nhân đến từ Đông Nam Á, Nam Á và Tây Á… Từ thế kỉ XVI, không chỉ thương nhân châu Á mất dần vị trí ở Biển Đông vào tay người phương Tây mà cơ cấu thương phẩm cũng thay đổi từ gốm sứ sang tơ lụa – sản phẩm phổ biến của vùng châu thổ sông Hồng, nhất là các làng lụa nổi tiếng dọc sông Hồng, khu vực kinh thành và các vùng phụ cận Thăng Long… Ngay cả khi gốm sứ Đàng Ngoài được người nước ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á với số lượng lớn vào cuối thế kỉ XVII, thương phẩm này cũng không còn mang nguồn gốc Chu Đậu nữa mà được sản xuất chủ yếu tại Bát Tràng, một trung tâm gốm sứ gần kinh thành Thăng Long và nằm ngay trên tuyến đường thuỷ nối kinh đô ra biển (52). Những thay đổi trên cho thấy, trên phương diện bản chất, vị trí của Đàng Ngoài trong hệ thống thương mại Biển Đông đã có những thay đổi lớn trong thế kỉ XVII.
Ngoài ra, việc triều Mạc và Lê-Trịnh từng bước nới lỏng chính sách đối với ngoại thương, đồng thời cho phép thương nhân nước ngoài lưu trú và buôn bán tại các khu vực nội địa (Phố Hiến, Thăng Long…) đồng nghĩa với sự suy giảm vai trò của một số trung tâm buôn bán ven biển. Trong bối cảnh đó, hệ thống sông từ cửa Thái Bình (Tiên Lãng) qua sông Luộc lên Hưng Yên để theo sông Hồng lên Hà Nội (hay tuyến sông “Đàng Ngoài” trong các ghi chép của người phương Tây) trở thành tuyến đường ngắn nhất và thuận lợi nhất. Vùng cửa sông Thái Bình còn giữ vai trò là cửa ngõ giao thương chính của Đàng Ngoài đến khi thực dân Pháp cho khảo sát và xây dựng đô thị cảng Hải Phòng vào cuối thế kỉ XIX.
Chú thích
(1). Tổng quan về thành tựu nghiên cứu hải sử và hải thương sử trong những năm gần đây, xin xem: Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Mạnh Dũng, “Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt: Thực tế lịch sử và nhận thức” và Phạm Đức Anh, Nguyễn Ngọc Phúc, “Nghiên cứu ngoại thương Việt Nam trước thế kỉ XVIII: vài nét nhìn lại”, in trong Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á, thế kỉ XVI-XVII, Nxb. Thế Giới, H., 2007, tr. 311-350 & 417-432.
(2). Về phương pháp tiếp cận này, Giáo sư Roderich Ptak (Đại học Munchen, Đức) khái quát như sau: “Các sử gia chuyên về đế chế khi nghiên cứu biển hoặc các vùng cận duyên có xu hướng nhìn đối tượng nghiên cứu từ đất liền, cho rằng vùng cận duyên và biển nên được đối xử như một bộ phận trực thuộc lục địa. Bởi thế chúng thường bị coi là yếu tố ngoại vi và, trên phương diện chức năng, phụ thuộc vào các trung tâm chính trị và văn hoá trong lục địa. Các nhà sử học nghiên cứu về biển sử dụng phương pháp tiếp cận riêng của mình. Một cách ẩn dụ mà nói, sử gia chuyên về hải sử đặt mình giữa biển khơi để nhìn nhận các khu vực cận duyên; họ nhìn từ biển vào bờ, chứ không phải từ bờ ra biển”. Xin xem từ: Roderich Ptak, “The Gulf of Tongkin: A Mediterranean?”, in “A Mini Mediterranean Sea”: Gulf of Tongking through History, Australian National University/Guangxi Academy of Social Sciences, Nanning, China, 3/2008, p. 30.
(3). Hoàng Anh Tuấn, “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII qua các nguồn tư liệu phương Tây”, Nghiên cứu Lịch sử, 1/2007, tr. 54-64 & 2/2007, tr. 54-63; Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden-Boston: Brill, 2007), pp. 12-15.
(4). Bài viết xin được giới hạn nội dung thảo luận vào vị trí của miền bắc nước ta trong hệ thống thương mại Biển Đông từ khoảng Công nguyên đến cuối thế kỉ XVI. Thế kỉ XVII (gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) sẽ được trình bày riêng trong chuyên luận “Đại Việt trong hệ thống thương mại Nội Á của Công ty Đông Ấn Hà Lan thế kỉ XVII” (sắp in).
(5). Hà Văn Tấn (cb.), Khảo cổ học Việt Nam (Tập 1: Thời đại đá Việt Nam), Nxb. KHXH, H., 1998, tr. 199-237 & 264-275. Xem thêm từ Đỗ Văn Ninh, Thương cảng Vân Đồn, Nxb. Thanh Niên, H., 2004, tr. 21-76.
(6). Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Biển với người Việt cổ, Nxb. VHTT, H., 1996, tr. 64-95. Xin xem thêm từ: Nguyễn Khắc Sử, “Giao lưu văn hoá thời tiền sử ở vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam qua tư liệu khảo cổ học” và Trình Năng Chung, “Những di tích văn hoá tiền sử ở Vân Đồn, Quảng Ninh: Tư liệu và nhận thức”, kỉ yếu khoa học Thương cảng Vân Đồn: Lịch sử, tiềm năng kinh tế, và các mối giao lưu văn hoá, 7/2008, tr. 461-474 & 475-489.
(7). Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, H., 2000, tr. 30-34. Xem thêm từ Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam: Sino-Vietnamese Relations to the Tenth Century and the Origins of Vietnamese Nationhood (Ph.D Diss., The University of Michigan, 1976).
(8). Dẫn lại từ Wang Gungwu, The Nanhai Trade, The Early History of Chinese Trade in the South China Sea (Singapore: Times Academic Press, 1998), pp. 1-14.
(9). Dẫn lại từ Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 1-14.
(10). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, p. 7; Liang Bingmeng, “The Hepu Port – the Most Ancient Departure Port and the Maritime Silk Route” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, pp. 142-151.
(11). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 31-35. Xem thêm từ Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, tr. 41-43.
(12). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 37-38.
(13). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 17, 25, 31, 35, 38, 44, 45. Xem thêm từ Jenifer Holmgran, Chinese Colonization of Northern Vietnam: Administrative Geography and Political Developments in the Tonking Delta, First to Sixth Century AD (Canberra: Australian National University Press, 1980), p. 175; Kenneth R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia (Honolulu: Hawaii University Press, 1985), pp. 194-197.
(14). Kenneth R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, pp. 178-181.
(15). Những quan điểm trên có thể được xem từ: John K. Whitmore, “‘Elephant can Actually Swim’: Contemporary Chinese View of Late Li Dai Viet”, in David Marr and A.C. Milner (eds), Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1986, pp. 117-138; Momoki Shiro, “Dai Viet and the South China Sea Trade from the 10th to the 15th Century”, Crossroads, 12/1 (1998), pp. 1-34; Li Tana, “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnam Coast”, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), pp. 83-102; John K. Whitmore, “The Rise of the Coast: Trade, State and Culture in Early Đại Việt”, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), pp. 103-122.
(16). Gần đây đã có một số nhà nghiên cứu trong nước khảo cứu về truyền thống thương mại và thương mại biển của người Việt trong lịch sử dưới cách nhìn mới, cởi mở hơn. Xin xem: Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Mạnh Dũng, “Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt”, sđd, tr. 311-350.
(17). Chẳng hạn, từ nửa cuối thập niên nhà sử học người Mĩ Keith W. Taylor (The Birth of Vietnam) đã phân tích vấn đề này khá sinh động trong luận án Tiến sĩ của mình bảo vệ tại ĐH Michigan (Mĩ). Năm 1993, Giáo sư Trần Quốc Vượng cũng đã công bố chuyên luận “Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về Biển của Việt Nam”, Nghiên cứu Đông Nam Á, 1/1993, tr. 1-17 .
(18). John K. Whitmore, “‘Elephant can Actually Swim’”, pp. 117-138. Vấn đề này gần đây lại được Whitmore làm sáng tỏ thêm trong các chuyên luận “The Rise of the Coast”, pp. 103-122.
(19). Dẫn lại theo: Trương Hữu Quýnh (cb), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục, H., 1999, tr. 149. Có thể tham khảo thêm từ Nguyễn Văn Kim và Nguyễn Mạnh Dũng, “Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt”, sđd, tr. 311-350.
(20). Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập I, Nxb. KHXH, H., 1998, tr. 261.
(21). Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, tr. 317.
(22). Momoki Shiro, “Dai Viet and the South China Sea Trade from the 10th to the 15th Century”, pp. 1-34. Xem thêm từ: Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng, “Về các mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lí, Trần (thế kỉ XI-XIV)”, Nghiên cứu Lịch sử, số 7/2007, tr. 23-37; Hồ Trung Dũng, Vị trí của Nghệ – Tĩnh trong hệ thống thương mại khu vực thời Lí – Trần, Khoá luận tốt nghiệp đại học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 2008.
(23). Li Tana, “A View from the Sea”, pp. 86-90.
(24). Li Tana, “A View from the Sea”, p. 90. Về những tuyến buôn bán giữa Đại Việt với miền nam Trung Hoa, xin xem từ: Nguyễn Mạnh Dũng, “Vùng Đông Bắc Việt Nam trong tuyến hải thương Đông Á thế kỉ VIII-XVIII (Qua khảo cứu một số tư liệu Bồ Đào Nha và Pháp)” và Dương Văn Huy, “Quan hệ giao thương giữa vùng Đông Bắc Việt Nam với các cảng miền nam Trung Hoa thế kỉ X-XIV”, kỉ yếu khoa học Thương cảng Vân Đồn, sđd, tr. 296-326 & 350-367.
(25). Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia: 900-1300 C.E.?”, Workshop on Dynamic Rimlands and Open Heartlands: Maritime Asia as a Site of Interactions (Conference Proceeding), Osaka University and National University of Singapore, 2006, pp. 27-81. Có thể xem thêm từ Paul K. Benedict, “A Cham Colony on the Island of Hainan”, Harvard Journal of Asiatic Studies, Vol. 6, No. 2, 1941, pp. 129-134; Li Tana, “A View from the Sea”, pp. 90-95.
(26). Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia”, p. 45.
(27). Paul K. Benedict, “A Cham Colony on the Island of Hainan”, pp. 90-95.
(28). Li Tana, “A View from the Sea”, p. 90.
(29). Kết quả nghiên cứu khảo cổ học vùng quần đảo Vân Đồn cho thấy gốm sứ men ngọc Long Tuyền thời Tống được tìm thấy với mật độ cao tại nhiều địa điểm ở Vân Đồn minh chứng cho chức năng trung chuyển của khu vực này trong hệ thống mậu dịch gốm sứ khu vực nói riêng và hệ thống hải thương khu vực nói chung. Bên cạnh đó, gốm sứ men nâu thời Trần và gốm sứ Chu Đậu thời Lê cũng được tìm thấy với mật độ khá cao. Xin xem: Nguyễn Văn Kim, “Hệ thống thương cảng Vân Đồn qua các nguồn tư liệu lịch sử, điền dã và khảo cổ học”, Khảo cổ học, 4/2006, tr. 46-65; Nguyễn Văn Kim, “Tính hệ thống và quy mô của Vân Đồn: Vai trò và vị thế của một thương cảng”, kỉ yếu khoa học Thương cảng Vân Đồn, sđd, tr. 276-295. Có thể xem thêm những kết quả nghiên cứu khảo cổ học tại hệ thống đảo Vân Đồn trong Đỗ Văn Ninh, Thương cảng Vân Đồn, Nxb. Thanh Niên, H., 2004.
(30). Roxanna M. Brown, The Ceramics of South-East Asia (Singapore: Oxford University Press, 1988), pp. 28-29; John Guy, “Vietnamese Ceramics in International Trade”, in John Stevenson and John Guy (eds.), Vietnamese Ceramics: A Separate Tradition (Michigan: Art Media Resources, 1994), pp. 47-61.
(31). Bennet Bronson, “Export Porcelain in Economic Perspective: The Asian Ceramic Trade in the 17th Century”, in Chumei Ho (ed.), Ancient Ceramic Kiln Technology in Asia (Hong Kong: University of Hong Kong, 1990), pp. 126-150. Xem thêm từ: Hoàng Anh Tuấn, “Gốm sứ Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á thế kỉ XVII: Tư liệu và nhận thức”, Nghiên cứu Lịch sử, 11/2007, tr. 28-39.
(32). Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia”, pp. 28-36.
(33). Có thể tham khảo những luận giải thú vị về vấn đề này từ: Momoki Shiro, “Dai Viet and the South China Sea Trade”; Li Tana, “A View from the Sea”; John K. Whitmore, “The Rise of the Coast”; Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia”.
(34). John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don: Trade and State in Fifteenth Century Dai Viet: A Changing Regime?” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, pp. 167-180.
(35). Đại Việt sử kí toàn thư (Tập II, Nxb. KHXH, H., 1998, tr. 427) chép, năm 1467 “thuyền đi biển của nước Xiêm La đến trang Vân Đồn dâng biểu văn khắc trên lá vàng và dâng sản vật địa phương, vua khước từ không nhận”. Whitmore cho rằng thái độ này của Lê Thánh Tông kết hợp với những chủ trương chính sách của triều đình về vấn đề kinh tế trong đó chủ trương trọng nông ức thương đã thể hiện rất rõ… là cơ sở để tin rằng ngoại thương Đại Việt đi xuống từ khoảng thập niên 1460. Xem John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don”, pp. 167-180.
(36). John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don”, p. 178. Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Kim, sự hiện diện của các hiện vật gốm sứ mang niên đại thế kỉ XVII-XVIII tại các di tích ở các đảo thuộc Vân Đồn là một trong những bằng chứng thuyết phục về sự tồn tại liên tục của thương cảng Vân Đồn đến khoảng thế kỉ XVIII. Xin xem: Nguyễn Văn Kim, “Tính hệ thống và quy mô của Vân Đồn: Vai trò và vị thế của một thương cảng”, sđd, tr. 276-295.
(37). John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don”, p. 178. Cũng cần phải lưu ý rằng quan điểm của Whitmore trong bài viết này về việc Vân Đồn bị thay thế bởi Phố Hiến dường như chưa thật sự thuyết phục và cập nhật bởi trong thế kỉ XVII Phố Hiến không phải là trung tâm thương mại thực sự của Đàng Ngoài mà chỉ là một trong ba địa điểm thuộc mạng lưới thương mại liên hoàn dọc “sông Đàng Ngoài” là Thăng Long, Phố Hiến, Domea. Xin xem thêm về vấn đề này từ: Hoàng Anh Tuấn, “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII”.
(38). Điều 61-64 (chương Tạp luật) của bộ Quốc triều hình luật rõ ràng thể hiện sự khắt khe của nhà nước đối với thương cảng Vân Đồn. Bên cạnh đó, các điều 25-28 (chương Cấm vệ) và điều 125 (chương Vi chế) cũng quy định cụ thể và khắt khe đối với ngoại thương và thương nhân nước ngoài. Xin xem từ: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam (Tập 1: Từ thế kỉ XV đến XVIII), Nxb. KHXH, H., 2006, tr. 66-67, 96, 183-185.
(39). Về quá trình xác lập mạng lưới thương mại của người Bồ Đào Nha ở khu vực Đông Á trong nửa đầu thế kỉ XVI, xin xem: Đặng Thị Yến, Quá trình xác lập mạng lưới thương mại của Bồ Đào Nha ở Đông Á, thế kỉ XVI-nửa đầu thế kỉ XVII, Khoá luận tốt nghiệp đại học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 2007. Xem thêm: Om Prakash, “European and Asian Merchants in Asian Maritime Trade, 1500-1800: Some Issues of Methodology and Evidence”, in J. M. Flores, (ed.), Revista de Cultura 13/14: The Asian Seas 1500-1800, Local Societies, European Expansion and the Portuguese (Macao, 1991). (Reprinted in Om Prakash, Precious Metals and Commerce, Variorum 1994).
(40). Trên phương diện thương mại quốc tế giai đoạn cận đại sơ kì, khái niệm “Nam Hải/the South Sea” thường được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ vùng biển trải dài từ Nhật Bản đến sườn phía đông của châu Phi.
(41). Về thương mại của người Bồ Đào Nha ở Macao thế kỉ XVI-XVII, xin xem từ: T’ien Tse Chang: Sino – Portuguese Trade from 1514 to 1644: A Synthesis of Portuguese and Chinese Sources (Leiden: Brill, 1933); George B. Souza, The Survival of Empire: Portuguese Trade and Society in China and the South China Sea 1630-1754 (Cambridge: Cambridge University Press, 1986).
(42). Geoff Wade, “On the Possible Cham Origin of the Philippine Scripts”, Journal of Southeast Asian Studies 24/1, 1993, pp. 44-87.
(43). James K. Chin, “Bridging East Ocean and West Ocean: Hokkien Merchants in Maritime Asia Prior to 1683, with a Special Reference to the Ports of East Asia”, in Workshop on Northeast Asia in Maritime Perspective: A Dialogue with Southeast Asia (conference proceeding), National University of Singapore and Osaka University, 2004, pp. 121-159. Xem thêm từ: Kenneth R. Hall, “Multi-Dimensional Networking: 15th Century Indian Ocean Maritime Diaspora in Southeast Asian Age of Commerce”, Journal of Economic and Social History of the Orient, 49/ 4, 2006, pp. 454-481.
(44). Roxanna M. Brown, “Ming Gap? Data from Shipwreck Cargoes”. Paper presented at the ARI Workshop on Southeast Asia in the Fifteenth Century and the Ming Factor, Singapore, July, 2003. Về gốm sứ Đại Việt xuất khẩu ra thị trường khu vực, xin xem: Aoyagi Yoji, “Vietnamese Ceramics Discovered on Southeast Asian Islands”, in Ancient Town of Hội An (Hanoi: The Gioi Publishers, 1993).
(45). Roxanna M. Brown, “Dữ liệu từ vụ đắm tàu ở Hội An/Cù Lao Chàm và một số vùng biển khác của Đông Nam Á”, Tham luận trình bày tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần II, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2004. Có thể lưu ý thêm là việc một số người châu Âu ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Tomé Pires, ghi chép về sự yếu kém của Đại Việt trong thương mại khu vực thế kỉ XVI là có những cơ sở lịch sử. Xem thêm từ: Tomé Pires, The Suma Oriental of Tomé Pires: An Account of the East, From the Red Sea to Japan, Written in Malacca and India in 1512-1515 (London: Hakluyt Society, 1944), p. 114.
(46). Về sự phát triển của Dương Kinh thời Mạc, xin xem: Đỗ Thị Thuỳ Lan, “Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỉ XVII-XVIII: Batsha và mối liên hệ với quê hương nhà Mạc”, Nghiên cứu Lịch sử, 1/2008, tr. 21-32 & 2/2008, tr. 42-48; Vũ Đường Luân, “Dấu tích cảng bến thương mại và đặc điểm kinh tế, tín ngưỡng vùng hạ lưu sông Thái Bình thế kỉ XVII-XVIII (Qua các khảo sát thực địa và tư liệu văn bia)”, Nghiên cứu Lịch sử, 5/2008, tr. 25-34. Có thể xem thêm từ: Trần Quốc Vượng, “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thế kỉ XVI”, in trong Trần Thị Băng Thanh và Vũ Thanh (cb), Nguyễn Bỉnh Khiêm: về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo Dục, H., 2001, tr. 70-83; Nguyễn Quang Ngọc, “Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII-XVIII”, Nghiên cứu Lịch sử, 10/2007, tr. 3-19.
(47). P. W. Klein, “The China Seas and the World Economy between the 16th and 19th Centuries: The Changing Structure of Trade”, in Davids, C. A., Fritschy, W. and Valk, L. A. van der (eds.), Kapitaal, Ondernemerschap en Beleid: Studie over economie en politiek in Nederland, Europa en Azië van 1500 tot heden: afscheidsbundel voor prof. dr. P. W. Klein (Amsterdam: NEHA, 1996). Xem thêm từ: Leonard Blussé, “No Boats to China: the Dutch East India Company and the Changing Pattern of the China Sea Trade, 1635-1690”, Modern Asian Studies, 30/1 (1996), pp. 51-70.
(48). Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden: Brill, 2007). Xem thêm chuyên luận khái quát về vị trí của Việt Nam trong khu vực Đông Á: Momoki Shiro and Hasuda Takashi, “Vietnam in the Early Modern East- and Southeast Asia”, in trong: in trong: Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á, thế kỉ XVI-XVII, Nxb. Thế Giới, H., 2007, tr. 351-386.
(49). Hoàng Anh Tuấn, “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII”, tr. 54-64 & 2/2007, tr. 54-63.
(50). Về chiến lược thương mại của người Hà Lan và Anh đối với vùng Đông Bắc trong thế kỉ XVII, xin xem từ Hoang Anh Tuan, “One Encounter, Two Frontiers: Europeans’ Commercial Perspectives on the North-Western Part of the Gulf of Tonkin in the Seventeenth Century” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, sđd, pp. 181-193. Cũng xem thêm từ Hoang Anh Tuan, “From Japan to Manila and Back to Europe: The English Abortive Trade with Tonkin in the 1670s”, Itinerario: International Journal on the History of European Expansion and Global Interaction, Vol. XXIX, no. 3/2005, pp. 73-92.
(51). Vấn đề hải tặc ở khu vực Đông Bắc được phản ánh khá thường xuyên trong các ghi chép của người Hà Lan, chẳng hạn: Dagh-register gehouden int Casteel Batavia vant passerende daer ter plaetse als over geheel Nederlandts-India (The Hague: Martinus Nijhoff and Batavia: Landsdrukkerij, 1887-1931), 1661, pp. 49-55. Xem thêm những nghiên cứu về vấn đề này từ: Hoang Anh Tuan, “Tonkin Rear for China Front: The VOC’s Exploration for the Southern China Trade in the 1660s”. Paper presented at the international workshop Ports, Pirates and Hinterlands in the East and Southeast Asia: Historical and Contemporary Perspectives, Shanghai, China, November 2005; Niu Junkai, “Pirates, Merchants and Mandarins: Chinese and Vietnamese Pirates in Tongking Gulf during 17th century period” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, sđd, tr. 201-209.
(52). Nguyen Long Kerry, “Bat Trang and the Ceramic Trade in Southeast Asian Archipelagos”, in Phan Huy Le et al., Bat Trang Ceramic, 14th-19th Centuries (Hanoi: The Gioi Publishers, 1994), pp. 84-90; Hoàng Anh Tuấn, “Gốm sứ Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á thế kỉ XVII: Tư liệu và nhận thức”, tr. 28-39.
http://ussh.edu.vn/vi-tri-cua-viet-nam-trong-he-thong-thuong-mai-bien-dong-thoi-co-trung-dai/1252