Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Ancient games: an Olympic factfile Những môn thể thao thời cổ: Tệp sự kiện Olympic

Đang lúc London là chủ nhà của cuộc thi Olympic Games lần thứ 30, TS.  Craig Barker,, Bảo tàng Đại học Nicholson và Michelle Kiss, một nhà nghiên cứu có 10 năm kinh nghiệm của Trường Dòng William Carey đã gợi lại tinh thần Olympic cổ xưa bằng cách nhìn lại nguồn gốc của lễ hội thể thao cổ nhất này để có thể cung cấp một số tương đồng cho cuộc thi trong ba tuần này ở London.
[Credit: Getty Images]
  • Cuộc thi Olympic đầu tiên diễn ra vào năm 776 TCN ở Olympia, Hy Lạp, một nơi linh thiêng thờ thần Dớt (Greek god Zeus). Những cuộc thi Olympic được tổ chức 4 năm một lần, và truyền thống đó được duy trì đến ngày nay. Tuy nhiên, đối với những cuộc thi thời hiện đại, các thành phố trên thế giới đua tài nhau để được quyền đăng cai thì những cuộc thi điền kinh của thế giới cổ đại luôn luôn ở Olympia.
  • Olympia nổi tiếng như là nơi thi tài với tầm quan trọng ngày càng gia tăng - tượng thần Dớt được coi là 1 trong 7 Kỳ quan của thế giới cổ đại - trước khi những cuộc thi thể thao bị hoàng đế La Mã Theodosius I bãi bỏ hoàn toàn vào năm 394 SCN, lý do giả định là vì những trò thi này gợi nhắc tới tà giáo. Trong khi người ta nói nhiều về giá trị di sản của London 2012, Olympia và sân vận động điền kinh của nó là địa điểm quan trọng về lịch sử và khảo cổ học.
  • Năm 2102, tin tức nổi lên khi đội bóng chuyền nam của Úc đến London bằng hạng thương gia, còn đồng nghiệp của họ, những vận động viên bóng chuyền nữ ngồi ở hạng thường (economy). Tuy nhiên, trong những cuộc thi tài thời cổ đại đầu tiên, sự bình đẳng giới trong thể thao kém hơn rất nhiều: Nữ giới không được thi. Những người tranh tài được chia thành hai nhóm, thanh thiếu niên (12-18 tuổi) và đàn ông (trên 18 tuổi). Những con ngựa đua cũng được chia thành ngựa non và ngựa trưởng thành.
  • Trong lúc khó có thể  biết cụ thể thành phần của đám đông và khán giả thì có vẻ chắc chắn là chỉ có đàn ông và những cô gái trẻ được phép xem.
  • Trong thời cổ đại, ngọn lửa được cháy suốt trong thời gian diễn ra cuộc tranh tài, và ý tưởng về ngọn đuốc được tái dụng lại ở Amsterdam năm 1928. Cứ bốn năm một lần ngọn lửa được thắp cháy trước đền thờ nữ thần Hera và sau đó đuốc được đưa về thành phố chủ nhà. Cuộc chạy đua tiếp sức rước đuốc không phải có nguồn gốc từ thời cổ đại mà bắt đầu ở cuộc thi Olympic đầy tranh cãi ở Berlin năm 1936
  • Trọng tài được chọn từ cộng đồng dân cư sống ở Elis, khu vực quanh Olympia. "Trọng tài người Elis" buộc những người thi phải chấp hành nghiêm khắc luật lệ: thực hiện đúng thời gian tập luyện, không được gian lận và hèn nhát.
  • Những môn thể thao của Olympics cổ đại bao gồm chạy, ném đĩa, nhảy, ném lao, đánh bốc, thi 5 môn phối hợp, đua ngựa và pankration (hỗn hợp giữa đấm bốc và vật). Đại đa số môn thi gồm chạy, ném đĩa, ném lao thi ở Sân vận động Olympia, còn những môn thi khác được tổ chức ở vùng xung quanh.  
  • Trước khi bắt đầu bất cứ cuộc thi Olympíc nào, người ta cũng tuyên thệ về sự ngừng chiến, tuyên bố mọi cuộc chiến tranh, tranh luận và án tử hình đều phải hoãn lại cho đến khi cuộc thi kết thúc. Sự ngừng chiến này cũng đảm bảo cho vận động viên đến Olympia một cách an toàn trong tháng diễn ra cuộc thi tài. Tuyên thệ ngừng chiến được viết trên đĩa bằng đồng và đặt ở Olympia. Hội đồng Olympic quốc tế đương đại đã tái hồi lại truyền thống ngừng chiến này, và tất cả 193 thành viên LHQQ cũng đồng ý, và lần đầu tiên hợp sức để bảo trợ cho Quyết định Ngừng chiến Olympic đối với 2012 London Olympics.

 Sporting controversies are not new! Famous athletes of antiquity included

  • the sixth-century BC wrestler Milo of Croton, who was said to have died when he was wedged against a tree during a display of strength gone wrong and subsequently devoured by wolves. Đô vật Milo ở Croton, TK 6 TCN, bị chết khi ném  
  • Astylos, also of Croton, who competed at Olympic Games between 488 and 480 BC, but was expelled from his home city when he agreed to compete for Syracuse, and so can lay claim to being the first free-agent in sporting history 
  • Roman emperor Nero, who despite being thrown from his chariot in the 10-horse race at the 67 AD games, was still proclaimed the winner on the grounds that he would have won had he been able to complete the race

Source: The University of Sydney [July 26, 2012]
http://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2012/07/ancient-games-olympic-factfile.html#.UBXatKB6XIU 

Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

MẤY VẤN ĐỀ VỀ NGHIÊN CỨU LIÊN NGÀNH TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HIỆN NAY

 GS.TS. ĐỖ QUANG HƯNG
 Bộ môn Khoa học chính trị, Trường Đại học KHXHVNV
Đại học Quốc gia Hà Nội

I. Đặt vấn đề
Mới đây, tháng 12/2009 Trường ĐHKHXH&NV của chúng ta đã tổ chức Hội thảo quốc tế với chủ đề Nghiên cứu liên ngành trong Khoa học Xã hội và Nhân văn: Kinh nghiệm và triển vọng. Trong phát biểu khai mạc Hội thảo GS.TS. Nguyễn Văn Khánh, Hiệu trưởng nhà trường có nói rằng: “Trong điều kiện hiện nay, mỗi nhà khoa học cũng như mỗi ngành học cụ thể vừa cần chuyên môn hóa, tăng cường mở mang các hiểu biết bằng các phương pháp nghiên cứu chuyên biệt của mình, đồng thời vừa phải chú trọng và mở rộng liên kết, thâm nhập và hợp tác chặt chẽ với các ngành khoa học khác. Chính sự phát triển đến trình độ cao, chuyên sâu của mỗi ngành, chuyên ngành sẽ đảm bảo cơ sở vững chắc để phát triển nghiên cứu liên ngành hoặc các ngành liên ngành. Nghiên cứu liên ngành chỉ thực sự đạt được những thành tựu nghiên cứu mới trên cơ sở kế thừa và khai thác được thế mạnh của các ngành khoa học khác”[1].
Trong cuộc hội thảo này, chủ yếu là cuộc đối thoại giữa các GS, các nhà nghiên cứu Trường ĐHKHXH&NV và một số Trường đại học của Pháp, xoay quanh nhiều chủ đề có liên quan như: Lịch sử, Văn minh và văn hóa; Kinh tế và quản lý; Ngôn ngữ học và Văn học; Tâm lý học, Xã hội học và Khoa học giáo dục. Phần lớn các tham luận đi vào những chiều kích cụ thể của “tính liên ngành”thể hiện qua mỗi chuyên ngành, gợi ra nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu và đào tạo.
Trở lại với vấn đề này, tham luận của chúng tôi muốn tiếp cận ở góc độ khác. Trên cơ sở đưa ra một cái nhìn bao quát hơn về “tính lý thuyết”của phương pháp nghiên cứu liên ngành, đối chiếu với thực tại của Trường chúng ta (cả bình diện nghiên cứu và đào tạo), để có thể rút ra một số nhận định có tính phương pháp, tính thực tiễn sát hợp hơn, thúc đẩy đường hướng nghiên cứu đúng đắn này trong điều kiện cụ thể của Nhà trường.
Để đạt mục tiêu đó, tham luận của chúng tôi đề cập 2 vấn đề sau đây:
- Thứ nhất, bàn thêm về “lý thuyết nghiên cứu liên ngành”đối với Khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay.
- Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh phương pháp nghiên cứu liên ngành ở Trường Đại học KHXH&NV chúng ta hiện nay.

II. Nội dung
II.1. Bàn thêm về “lý thuyết nghiên cứu liên ngành”và những liên hệ cần thiết
Cho đến hiện nay, khi nói đến nghiên cứu liên ngành (interdisciplinaire), đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, người ta thường nhấn mạnh đến sự chi phối trước hết của lối nghiên cứu đa ngành (multi-disciplinary), như một định đề mặc nhiên được thừa nhận, đặc biệt từ nửa cuối thế kỷ XX. Điểm nhấn của lý thuyết này, đúng như lời phát biểu trên đây là mỗi chuyên ngành cần có sự phát triển “trình độ cao, chuyên sâu” để có thể “mở rộng liên kết, xâm nhập” với các ngành khoa học khác.
Tính cách đa ngành của lý thuyết này cũng được nhiều người trong chúng ta đi sâu, thậm chí “mô hình hóa” nó, theo hướng: “Nghiên cứu liên ngành và một tổ hợp của nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, đòi hỏi tính liên kết, tính tổ chức và tính tập thể rất cao. Phương thức tốt nhất để tổ chức nghiên cứu liên ngành là các nhóm nghiên cứu liên ngành”[2].
Lối “mô hình hóa” này cũng đưa ra quan niệm “Nghiên cứu liên ngành không thích hợp với nghiên cứu cá nhân, cũng không hiệu quả khi là tập hợp các chuyên gia cùng một chuyên ngành. Những chuyên gia cùng một chuyên ngành dù giỏi đến mấy, khi ngồi cùng với nhau, trong một nhóm như thế này, thì sự bổ sung, hỗ trợ nâng cao nhận thức của nhau trong nhóm cũng không thật nhiều. Trái lại các chuyên gia ở các chuyên ngành khác nhau, cùng có chung một vấn đề quan tâm… thì có thể làm giàu rất nhanh vốn hiểu biết của mình cũng như toàn nhóm…”.
Như vậy là khi đề cập lý thuyết nghiên cứu đa ngành, chúng ta có thói quen là nhấn mạnh tính tất yếu của sự phối kết hợp của các chuyên gia của các chuyên ngành khác nhau (đa ngành), dường như nó đối lập với “nghiên cứu cá nhân đơn lẻ và độc lập”, mặc dù lập luận này cũng không phủ nhận vai trò cá thể trong nghiên cứu.
Theo chúng tôi, cách hiểu lý thuyết nghiên cứu đa ngành như thế đương nhiên có tính hợp lý và thực tiễn. Nhưng việc “mô hình hóa” lý thuyết ấy cần có sự tiếp cận từ những góc độ khác, để có thể lột tả đúng đắn hơn nữa bản chất của “nghiên cứu đa ngành”.
Trước hết, chúng ta “đành phải” trở lại câu chuyện sự phát triển của khoa học. Khoa học luận hiện nay đã chỉ ra 4 đặc tính quy luật của sự vận hành khoa học, chúng vừa có tính độc lập vừa phụ thuộc lẫn nhau đó là: lý tính, thực nghiệm, tưởng tượng và kiểm chứng. Trong đó thường xảy ra tình trạng xung đột thường xuyên giữa tư duy lý luận và thực nghiệm luận (thực nghiệm thường phá hủy kết cấu của duy lý và đòi hỏi nó phải tái cấu trúc). Sự bổ sung của yếu tố “tưởng tượng” và “kiểm chứng” trong quá trình vận hành là rất quan trọng.
Tuy thế, nhìn một cách đại thể trong lịch sử tư duy và khoa học thì, từ giữa thế kỷ XX trở về trước, khoa học dường như đều dựa trên lối tư duy đơn thể,  còn hiện nay là sự ngự trị của tư duy phức hợp (pensée complexe).
Theo ý kiến của Edgar Morin, người sáng lập Hiệp hội tư duy phức hợp – APC (Paris) thì, bản chất của tư duy hiện đại phải được hiểu là những gì được liên kết lại với nhau, đan dệt vào nhau: “triển khai một lý thuyết, một logic, một tri thức luận về tính phức hợp để có thể nhận biết con người[3].
Trên cơ sở vạch ra những nguyên tắc của khái niệm vĩ mô (nói như Pascal “Tôi không thể quan niệm được cái toàn thể mà không quan niệm các bộ phận, và không thể quan niệm được các bộ phận mà không quan niệm cái toàn thể”), làm rõ hơn mối quan hệ “toàn thể nằm trong bộ phận, bộ phận nằm trong toàn thể”, Edgar Morin đã gợi ý cho chúng ta bản chất, mục tiêu của tính phức hợp (la complexité), xem đó như một động lực của khoa học hiện đại, trong đó để đạt được kết quả ấy nó phải trải qua 3 giai đoạn. Ông viết: “Giai đoạn đầu của tính phức hợp: ta thu nhận các tri thức giản đơn không giúp ta nhận biết đặc tính tổng thể. Một nhận xét có vẻ tẻ nhạt như sau đây, song các hệ quả của nó lại không nhàm chán: tấm tranh thảm lớn hơn tổng cộng các sợi đã cấu thành nó. Cái toàn thể là lớn hơn tổng cộng những bộ phận cấu thành.
Giai đoạn thứ hai của tính phức hợp: việc dệt nên tấm tranh thảm khiến cho chất lượng của loại sợi này hay loại sợi khác không thể giúp cho tất cả đều được biểu hiện trọn vẹn. Chúng bị ức chế hoặc mở ảo. Thế là cái toàn thể lại nhỏ hơn tổng cộng những bộ phận.
Giai đoạn thứ ba: tình hình đó gây nên những khó khăn cho giác tính và cấu trúc tinh thần của ta. Cái toàn thể vừa lớn hơn vừa nhỏ hơn tổng cộng những bộ phận[4].
Lẽ dĩ nhiên, những ý kiến của Edgar Morin về tri thức luận và tư duy phức hợp là mới mẻ và còn gây nhiều tranh cãi. Nhưng ít nhất trong phạm vi nhận thức luận và phương pháp nó cũng cho ta những kinh nghiệm quý báu về “những thảm cảnh tàn phá mà các quan điểm đơn giản hóa đã gây ra, không chỉ trong thế giới trí tuệ mà cả trong cuộc sống”. Liên hệ với chủ đề của chúng ta hôm nay, chúng tôi muốn có một liên hệ lý thuyết rằng: bản thân nhu cầu của tri thức luận về tính phức hợp tự nó cũng đòi hỏi mỗi cá nhân, cộng đồng (người bình thường cũng như giới học thuật) phải tự trang bị cho mình phương pháp suy tư liên ngành. Có như vậy trong thời đại của chúng ta hiện nay “cái toàn thể” vừa lớn hơn vừa nhỏ hơn tổng cộng những bộ phận.
Ý nghĩa triết học và phương pháp này, sẽ soi rọi cho chúng ta một cái nhìn sâu rộng hơn về lý thuyết nghiên cứu đa ngành. Cần khắc phục lối nhìn nó như dấu cộng của các đơn thể (trong khoa học đã “bị” phân hóa, cắt ra thành các chuyên ngành khác nhau), ngược lại phải coi nó, phương pháp nghiên cứu liên ngành hôm nay như một đòi hỏi tổng thể, vĩ mô và vi mô, của lối tư duy phức hợp, điều mà nhân loại đang hướng tới.
Chúng tôi thử diễn tả, trong cách hiểu như thế, nếu cần phải “mô hình hóa” lý thuyết nghiên cứu liên ngành hôm nay là sự tái cấu hình (configuration) tổ chức và hoạt động khoa học, bất kể khoa học xã hội nhân văn hay khoa học tự nhiên. Điều đó không thể chỉ được hiểu đơn giản là “phương thức tổ chức nghiên cứu liên ngành trên cơ sở nghiên cứu các nhóm nghiên cứu liên ngành”, dù rằng sự tái cấu hình nói trên vẫn tôn trọng tính liên kết, tính tập thể và tổ chức.
Khi đề cập đến nghiên cứu đa ngành hiện nay, cũng có nhiều ý kiến nhấn mạnh vào việc nghiên cứu khu vực hay Khu vực học (Area studies), nhất là trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Thực ra việc nghiên cứu Khu vực học hôm nay, đặt trong khung cảnh lý thuyết về tư duy phức hợp mà chúng tôi đề cập ở phần trên, cũng chỉ là một biểu hiện trong việc nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về “cái toàn thể và cái bộ phận” trong đời sống nhân loại hôm nay.
Nói tóm lại, ý nghĩa triết học và phương pháp của lý thuyết nghiên cứu liên ngành là ở chỗ: nó không chỉ là một phương pháp (trong nhận thức hoặc nghiên cứu), không chỉ là một cách tiếp cận cần thiết trong khoa học xã hội và nhân văn hôm nay, thậm chí là một tất yếu đi nữa mà nó còn/phải là đòi hỏi tự thân của tri thức luận về tư duy phức hợp, mục tiêu và động lực để đạt tới tính hiện đại (modernité) trong bối cảnh thời đại cực hiện đại (transmoderne) hiện nay.
Nếu những suy nghĩ này là đúng thì cách hiểu về nghiên cứu liên ngành theo chúng tôi phải là tổng thể của các chiều kích sau đây:
- Thứ nhất, chiều kích cá nhân: tự thân mỗi con người, mỗi nhà khoa học phải vượt qua giai đoạn “nghiên cứu đơn nhất”, nói đúng hơn là dù chuyên sâu về “nghiên cứu đơn nhất” cũng phải dựa trên những tri thức của “cái toàn thể”. Điều này có lẽ nói rõ hơn yêu cầu của “hệ tri thức bổ trợ” với các chuyên gia mỗi chuyên ngành cụ thể.
- Thứ hai, bản thân mỗi chuyên ngành khoa học (ở đây là khoa học xã hội và nhân văn), ít nhất từ giữa thế kỷ XX trở lại đây cũng phải tuân theo quy luật tái cấu hình, theo hướng khắc phục sự đơn nhất, khu biệt, hướng tới sự kết hợp hài hòa giữa tính toàn thể và bộ phận.
- Thứ ba, chiều kích phối kết hợp giữa các đơn thể, các chuyên ngành. Sự phối kết hợp này, như đã nói ở phần trên không chỉ có ý nghĩa như “một phương thức tổ chức tốt nhất” để nghiên cứu liên ngành mà nó còn có ý nghĩa như một đòi hỏi tất yếu của “cái tổng thể” (thực tại khoa học xã hội và nhân văn) khi đã/đang được tái cấu hình[5].
Theo lôgic đó thì việc tổ chức nghiên cứu, cao hơn là việc tái cấu hình khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta, hẹp lại là ở Trường ta, có lẽ cũng diễn ra theo những chiều kích đó. Vấn đề chỉ còn lại là chúng ta cần nỗ lực suy nghĩ hơn, đối chiếu tích cực, sáng tạo hơn với điều kiện thực tiễn của đất nước và nhà trường để thực hiện được quá trình này.
2.2. Nghiên cứu liên ngành trong Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: Thành tựu và triển vọng
2.2.1. Trường ta khi mới thành lập, mái trường có vinh hạnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh kí quyết định vào cuối 1945 đã có mô hình “liên ngành sơ khai”quen thuộc theo kinh nghiệm Âu – Mỹ giữa thế kỷ XX, gọi là Đại học Văn Khoa, được hiểu là Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn. Nhưng lúc đó thực chất là sự “đặt cạnh nhau” của 3 ngành chính là Văn học, Sử học và Triết học (truyền thống “Văn – Sử - Triết bất phân” đã có từ các giai đoạn trước) nhiều thầy giáo, nhà khoa học tên tuổi của mái trường này thực ra cũng khó phân biệt họ là chuyên ngành gì. Trường hợp các giáo sư nổi tiếng như Đặng Thai Mai, Nguyễn Văn Huyên, Trương Tửu cho đến Trần Đức Thảo, Trần Văn Giáp…dù mỗi người trong họ đều có một mặt mạnh để gọi họ là nhà triết học, nghiên cứu văn học, sử học hay dân tộc học…nhưng họ lại tinh thông nhiều lĩnh vực lân cận.
2.2.2. Từ khi Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ra đời, khối KHXH từng bước phát triển và chủ yếu theo mô hình Xô viết, coi trọng tính chuyên biệt, sự phân hóa thành các ngành nghiên cứu và đào tạo như Văn, Sử, Triết, sau đó bắt đầu có Khoa Luật, Kinh tế…
Phải nói rằng mô hình này đặc biệt đề cao tính chuyên sâu, chuyên ngành dù rằng về phương pháp nghiên cứu nó không phủ nhận sự “hỗ trợ” của một số phương pháp có tính liên ngành. Dù sao, mô hình ấy cũng đã tạo ra những ranh giới, những “chiến hào trí tuệ” mà từ đó nếu không xảy ra sự xung đột thì cũng “kính nhi viễn chi”[6]. Mặc dù trong suốt mấy chục năm tồn tại của Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, tại hai khoa lớn, Khoa Văn và Khoa Sử có được nhiều chuyên gia giỏi, nổi tiếng, nhiều công trình nghiên cứu có ảnh hưởng trong cả nước và trong từng giới, nhưng chưa có thể xuất hiện những công trình tầm cỡ lớn thể hiện tính cách liên ngành.
2.2.3. Dưới mái trường Khoa học Xã hội và Nhân văn của chúng ta hiện nay, một cấu trúc mới, hay có thể áp dụng thuật ngữ trên là một thực tại giáo dục đào tạo theo hướng tái cấu hình, thể hiện đa dạng và có chiều sâu hơn tính liên ngành. Theo chúng tôi, khái quát lại những điều chúng ta đã làm được là như sau:
- Thứ nhất, ngày nay, từ một “mô hình văn khoa” hay “mô hình khoa học xã hội” (Xô viết) chúng ta đã có một mô hình một trường đại học khoa học xã hội và nhân văn có sự tái cấu hình rất rõ rệt trong từng ngành, từng khối chuyên ngành. Từ khoa Văn, ngày nay nó đã là khối các khoa Ngôn ngữ, Hán Nôm, Biên kịch và Điện ảnh (“sự lai tạo giữa văn học và điện ảnh”[7]).
“Sử học” ngày nay trong trường chúng ta cũng đã đa nghĩa hơn nhiều. Bên cạnh những chuyên ngành lịch sử truyền thống, các chuyên ngành trong “tộc họ” như Dân tộc học, Quốc tế học, Lưu trữ học và quản trị văn phòng…đã có thể “ra ở riêng” thành những ngành khoa học có liên quan. Trong đó, phải kể đến sự chuyển biến từ Dân tộc học sang Nhân học mang ý nghĩa thật tiêu biểu về phương pháp, tri thức luận và tính hiện đại. Trường hợp Khoa Đông Phương học cũng là sự liên ngành giữa Lịch sử, Văn học, Ngôn ngữ và Văn hóa học.
Sự xuất hiện các Khoa Xã hội học, Báo chí, Tâm lý học, Khoa học quản lý và sắp tới đây là Khoa học Chính trị, Khoa học về chính sách cũng tạo thêm những không gian cần thiết cho nghiên cứu liên ngành và nói cho cùng cũng đề đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của xã hội.
Trường chúng ta cũng đã bỏ nhiều công sức để xây dựng nhiều Trung tâm nghiên cứu và đào tạo về Thông tin – thư viện; Hỗ trợ và tư vấn tâm lý; Châu Á Thái  Bình Dương; Nghiên cứu giới và phát triển; Nghiên cứu Trung Quốc; Nghiên cứu văn hóa quốc tế; Trung tâm nghiên cứu dân số và công tác xã hội, đặc biệt là Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo đương đại gần đây nhất…
Viện Việt Nam học và phát triển, dù danh nghĩa trực thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội, nhưng vì nằm trên đất của trường chúng ta, cũng đã trở thành một Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo liên ngành có dấu ấn khá đậm nét của KHXH-NV.
- Thứ hai, tư duy về phương pháp liên ngành cũng đã khiến chúng ta thúc đẩy chiều hướng tái cấu trúc từng ngành, chuyên ngành cụ thể. Đây là một phương diện quan trọng có ý nghĩa khá quyết định đến sự thành bại.
Rất mừng là trong nhiều khoa, nhiều ngành nghiên cứu của trường chúng ta đã đi theo phương hướng này và đã có những kết quả đáng khuyến khích.
Các khoa học lịch sử những năm gần đây đã chú trọng đến việc nghiên cứu Khu vực học[8], vận dụng những lý thuyết và phương pháp chuyên ngành hiện đại. Về mặt này, Khảo cổ học cũng có những chuyển biến khá rõ khi vận dụng những kiến thức, phương pháp của khoa học tự nhiên, điều mà ngành khoa học này từ lâu đã có ý thức[9].
Nhiều ngành khoa học vốn yên tĩnh và tính khu biệt cao như Văn học, Triết học… ngày nay cũng đã tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm cụ thể về nghiên cứu liên ngành[10].
Đối với những ngành mới ra đời, việc vận dụng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu liên ngành có vẻ “tự nhiên” và thuận lợi hơn. Chẳng hạn, ngành Tâm lý học hôm nay đã khác nhiều so với Tâm lý học cổ điển (chủ yếu tâm lý học cá nhân, tâm lý học xã hội), chúng ta đã quan tâm đến tâm lý học thần kinh, lâm sàng (có những liên đới với Phân tâm học - Psychanalyse)…
Chúng tôi muốn dừng lại chút ít ở một ngành khoa học còn non trẻ ở Trường chúng ta là Khoa học chính trị. Khoan hãy bàn đến hoặc nói lại về tính cách của ngành Khoa học chính trị ở nước ta. Đây là một trong những ngành khoa học mũi nhọn ở nhiều trường đại học Âu – Mỹ. Đặc điểm “liên ngành” của ngành khoa học này còn thể hiện sâu sắc ngay ở các phương pháp tiếp cận cơ bản của nó. Khoa học chính trị luôn bị giằng xé giữa nội dung nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu có tính xã hội học và thực nghiệm, điều mà đã làm các nhà Chính trị học và Sử học xa cách nhau[11].
Tuy vậy, trên cơ sở nỗ lực tìm ra các điểm tương đồng giữa Sử học và Chính trị học người ta cũng rút ra được những kết luận để tạo nên “phương pháp liên ngành” giữa bản thân hai ngành khoa học gần gũi này. Phillip Tetlock và  Aron Belkin trong cuốn Lật ngược vấn đề qua thí nghiệm trong lĩnh vực chính trị quốc tế: Logic luận, Phương pháp luận và Tâm lý luận (1996) đã rút ra sự “liên ngành” giữa sử học và chính trị học nhờ vào: “Cả hai chuyên ngành này đều nằm trong số các ngành khoa học nghiên cứu các hiện tượng  không thể dùng phòng thí nghiệm. Cả hai ngành đều áp dụng phương pháp truy nguyên. Cả hai đều phải có sự tưởng tượng và lập luận theo kiểu lật ngược vấn đề. Nhưng còn dự báo, hoặc chí ít kiến nghị chính sách thì sao? Hầu hết các nhà sử học lảng tránh những ưu tiên này như ma cà rồng gặp cây thánh giá. Còn nhiều nhà khoa học chính trị lại nhiệt tình làm việc này. Nếu có điểm đồng ở lĩnh vực này thì cũng rất khó tìm ra”[12].
Thí dụ này gợi cho chúng ta những suy nghĩ thú vị khi xác định việc mở các chuyên ngành mới và xác lập cho nó những phương pháp nghiên cứu cơ bản ban đầu.
- Thứ ba, trong thực tiễn cũng đã có không ít những kết quả của phương pháp nghiên cứu liên ngành ở Trường chúng ta. Mới đây khi “nhìn lại” những kết quả nghiên cứu của Nhà trường trong dịp hướng tới Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, chúng ta cũng đã ghi nhận những kết quả đáng khích lệ của Viện Việt Nam học và khoa học phát triển trong việc tổ chức nghiên cứu, phối kết hợp giữa nhiều chuyên ngành trong và ngoài nhà trường.
2.2.4. Mấy suy nghĩ phía trước
·GS A. Florin trong tham luận Cấu trúc nghiên cứu trong khoa học xã hội và nhân văn tại vùng Loire: Một vài ví dụ liên ngành và liên trường, đã gợi cho chúng ta một kinh nghiệm ở Pháp mà chúng ta nên hướng tới. Đó là, cấu trúc nghiên cứu liên ngành hiện nay không chỉ diễn ra với từng ngành, từng trường hoặc liên trường – viện, mà nó còn đòi hỏi phải có những dự án lớn liên kết nghiên cứu Quốc gia – Khu vực (Les Contrats de Projets Etat-Région, gọi tắt là CPER)[13].
Có lẽ trường chúng ta cũng có sứ mệnh như vậy khi có thể mở rộng sự liên kết, thông qua Nhà nước và Chính quyền địa phương, tạo nên những mô hình liên kết mới như thế, đáp ứng được quy mô, vị thế của những vấn đề nghiên cứu lớn.
·Chúng ta đã có những nỗ lực thay đổi cấu trúc ngành nghề, nói cách khác là tái cấu hình trường ĐHKHXH&NV hiện đại đa ngành, đa lĩnh vực, đào tạo chất lượng cao và nghiên cứu cơ bản. Một mặt, cần hướng tới sự hoàn thiện mô hình đó trên cơ sở tính toán cân nhắc mà những kinh nghiệm lý thuyết chúng tôi đã đề bên trên nói tới. Đối với một số ngành rất cần thiết nên thúc đẩy sự ra đời của chúng. Chẳng hạn, Nghiên cứu tôn giáo (Tôn giáo học) là một ngành như thế. Hiện nay việc đào tạo chuyên ngành và cao học Tôn giáo học thuộc khoa Triết học, trước mắt vẫn là hợp lý. Nhưng không thể không nghĩ đến một ngành độc lập cho nó.
·Cần rà soát các hướng nghiên cứu, chương trình đào tạo của tất cả các ngành hiện có theo hướng phối kết hợp nghiên cứu liên ngành giữa các ngành hoặc giữa hai ngành (song phương và đa phương) để có được sự tiến triển hơn nữa về nghiên cứu và đào tạo, cập nhật và hiệu quả.
  Cuối cùng với mỗi con người chúng ta chắc hẳn cũng không thể chỉ đào sâu “chuyên môn”của mình theo hướng sự sùng bái những điểm khác biệt nho nhỏ giữa mình với người khác, ngược lại muốn trở thành một chuyên gia giỏi thực sự trong bất cứ lĩnh vực nào thì cũng phải có được một tư duy phức hợp.
Hà Nội ngày 29 tháng 10 năm 2010




[1] Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Nghiên cứu liên ngành trong Khoa học xã hội và nhân văn: Kinh nghiệm và triển vọng, Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội 12/2009, tr.7.
[2] Xem bài Nghiên cứu và đào tạo liên ngành: Ưu thế và trọng trách của ĐH Quốc gia Hà Nội, tham luận của Chi bộ Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ ĐH Quốc gia lần thứ IV (9/2010), tr.3.
[3] Edgar Morin, Nhập môn tư duy phức hợp (Introduction à la pensée complexe), Nxb Tri thức, 2009, tr.15.
[4] Edgar Morin, Nhập môn tư duy phức hợp, sđd, tr.131-132.
[5]
[6] Điều này phải chăng là kết quả của thứ nhận thức “sự sùng bái những điểm khác biệt nho nhỏ giữa mình và người khác”như Sigmund Freud có nói trong cuốn Nền văn minh và Sự bất đồng của nó, New York, Norton, 1961.
[7] Xem bài của Trần Hinh, Lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong sáng tác của M.Duras, trong Kỷ yếu Nghiên cứu liên ngành… sđd, tr.218-228.
[8] Xem bài của GS Vũ Dương Ninh, PGS.TS Nguyễn Văn Kim… trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế, Nghiên cứu liên ngành…sđd.
[9] Xem bài của PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung, Sử dụng phương pháp và lý thuyết của Khảo cổ học hiện đại trong nghiên cứu Khảo cổ học Việt Nam: Vấn đề và triển vọng, trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế, Nghiên cứu liên ngành…sđd.
[10] Chẳng hạn xem bài của PGS.TS Trần Ngọc Vương, Từ thực tế nghiên cứu lịch sử Văn học Việt Nam thời trung đại bàn về việc phối hợp nghiên cứu liên ngành, trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế, Nghiên cứu liên ngành…sđd. Tương tự như vậy, có thể tham khảo ý kiến của PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn, Nghiên cứu liên ngành trong Việt ngữ học; của PGS.TS Trần Nho Thìn về phương pháp nghiên cứu liên ngành trong Văn hóa…
[11] Chẳng hạn việc áp dụng phương pháp định tính và định lượng trong nghiên cứu Chính trị học hiện đại cũng bắt buộc như các phương pháp so sánh, tâm lý học đám đông, tâm lý học lãnh đạo… Xem Christopher Shea, Các nhà khoa học chính trị tranh cãi nhau về giá trị nghiên cứu khu vực, trong tạp chí Chronicle of Higher Education, số 43, (1/1997).
[12] Dẫn lại trong cuốn Phương pháp nghiên cứu khoa học, Học viện Ngoại giao, Nxb Thế giới, 2008, tr.25.
[13] GS A. Florin cho chúng ta biết dự án CPER có giá trị trong 7 năm tài chính (2007-2013), giữa đại diện của nhà nước, chính quyền khu vực Loire và lãnh đạo 3 trường đại học chủ yếu trong vùng với 10 chương trình nghiên cứu thuộc các lĩnh vực như nghiên cứu y học, nông nghiệp, vật liệu, năng lượng, khí lỏng, khoa học và kỹ thuật truyền thông đại chúng, hóa học… và tất nhiên có những nội dung của khoa học xã hội và nhân văn. Chương trình này cũng hướng tới cả việc đào tạo hàng loạt các nhà nghiên cứu – sư phạm; các tiến sĩ, các kĩ thuật viên… Xem tham luận của GS này trong Kỷ yếu Nghiên cứu liên ngành…sđd, tiếng Pháp, tr.40-44.
Nguồn:

http://chuyencuachi.blogspot.com/2012/07/may-van-e-ve-nghien-cuu-lien-nganh.html

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Qua sử chí Trung Quốc, thử tìm hiểu vùng biển giáp giới hai nước Việt Trung

Hồ Bạch Thảo


Dưới thời Nguyên, Trung Quốc mang binh thuyền tấn công Nhật Bản bị thất bại ; thời Vĩnh Lạc triều Minh, hạm đội của Trịnh Hòa dương oai tại vùng Ðông Nam Á, việc làm chỉ được tiếng, nhưng tốn kém quá nhiều, có lần bị giết 170 người tại Trảo Oa [Java] 1, nên cuối cùng đến đời Tuyên Ðức chương trình này đành phải dẹp bỏ. Suốt hai triều đại Minh, Thanh ; quân Nhật [Nụy] thao túng cướp phá vùng biển, Trung Quốc chỉ phòng thủ trên bờ và ven biển cũng không xong, nên không màng đến biển cả. Bằng cớ ngay cảc đảo lớn giàu tài nguyên như Ðài Loan, Bành Hồ, được liệt vào ngoại quốc trong Minh Sử 2 ! Biển lúc bấy giờ là mối hệ lụy, nên Trung Quốc chủ trương phòng thủ thụ động trên bờ, bỏ mặc đại dương không chiếu cố đến. Sách lược này được phản ảnh một cách cụ thể trong trường hợp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Ngô Hùng Quang xin chế tạo nhiều thuyền để ra biển bắt cướp ; bị vua Gia Khánh bác và khẳng định quốc sách là phòng thủ tại cảng và truy lùng những người trên bờ ngầm mua bán hợp tác với bọn cướp :
Ngày 2 Kỷ Tỵ tháng 12 năm Gia Khánh thứ 12 [30/12/1807]
...Còn trong tấu triệp Ngô Hùng Quang trình bày rằng “ Thuyền cướp qua lại đợi chờ mới liên lạc được với bọn gian trên bờ, nếu thuyền binh khẩn trương theo tung tích truy nã, thì bọn chúng không thi thố được thủ đoạn. Vậy muốn ngăn tiếp tế, nên tu tạo nhiều thuyền, xuất dương truy bắt.”
“Ðiều này không đúng, về bọn cướp biển, gạo, nước, thuốc súng đều nhờ vào trên bộ. Bọn giặc trên bờ và dưới nước vốn quen nhau, ngầm giao dịch, cũng không phải chờ bọn cướp biển lên bờ tìm kiếm mới được tiếp tế. Tổng chi, đáng ra lệnh các quan văn võ tại cửa biển mật cho tuần tra, nghiêm bắt, trừng trị nặng ; bọn phỉ trên bờ co rút lại, thì mới đoạn tuyệt việc tiếp tế.
Nếu làm theo lời tâu, chế tạo nhiều thuyền bè, xuất dương đánh bắt, theo sát gót tung tích thuyền cướp, không để cho chúng nhàn rỗi hoành hành. Nhưng không biết rằng trên đại dương có bao nhiêu thuyền cướp để theo bén gót, vả lại trên biển dòng nước bất đồng, gió bão không định, khó mà ra lệnh thuyền nào của ta theo dõi thuyền nào của giặc cướp. Hãy suy nghĩ nếu bọn giặc biển không biết bọn phỉ trên cạn, đột nhiên đến mua nước, gạo, thuốc súng, thì ai mà bán cho. Ðiều đó khẳng định rằng việc cấm bọn phỉ tiếp tế tất phải nghiêm tra trên bờ, làm vững rào dậu là biện pháp chính. Phúc Kiến nghiêm cấm tiếp tế tại cửa biển, thực hiện hữu hiệu, tỉnh Quảng Ðông cần nhất luật thực hiện…” (Nhân Tông Thực Lục quyển 189, trang 7)

Cùng đề cao sách lược phòng thủ thụ động nơi ven biển, tại quyển 9, Hải Phòng, trong Quảng Ðông Thông Chí, Tổng đốc Hác Ngọc Lân tóm tắt :
Phàm thuyền đến không cho đậu, đi không tiếp tế ; thì dân chúng duyên hải đều được yên gối mà ngủ.
Với chính sách về biển như vậy, nên từ triều Thanh trở về trước, tại biển nam, Trung Quốc giới hạn vùng lãnh hải gần bờ ; nhường phần còn lại cho An Nam, để nước này cáng đáng việc đánh bắt cướp biển ngoài khơi. Cũng trong quyển 9, Quảng Ðông Thông Chí, có đoạn chép về giới hạn biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, nguyên văn như sau :
xungyeu
Xung yếu :
Từ huyện Lạc Hội, phủ Quỳnh Châu, khởi đầu tiếp giáp với biên giới [biển] An Nam :
- Vũng Hải Ðiều : giới hạn huyện Văn Xương
- Cảng Phố Tiền : giới hạn huyện Hội Ðồng
- Cảng Thần Ứng : giới hạn phủ Quỳnh Châu
- Phố Phong Doanh : giới hạn phủ Quỳnh Châu
- Phố Ma Ðầu : giới hạn huyện Lâm Cao
- Phố Cung Loan : giới hạn huyện Lâm Cao
- Loan Ðiền Hòa : Giới hạn châu Ðam
- Núi Nga Trá : giới hạn huyện Xương Hóa
- Doanh Bạch Sa : giới hạn huyện Cảm Ân
- Ðại Ðộng Thiên : giới hạn châu Nhai
- Tiểu Ðộng Thiên : giới hạn châu Nhai
- Vũng Nha Lang : giới hạn huyện Lăng thủy
- Cửa Song Châu : giới hạn huyện Lăng Thủy
- Thất Thập Nhị kính : giới hạn châu Khâm
- Nha Sơn : giới hạn châu Khâm
- Ðạm Thủy Loan : giới hạn châu Khâm
- Doanh Cách Mộc : giới hạn huyện Linh Sơn
- Núi Ô Lôi : giới hạn huyện Linh Sơn
- Ao Thanh Anh : giới hạn phủ Liêm Châu
- Ao Dương Mai : giới hạn phủ Liêm Châu
- Ao Bình Giang : giới hạn phủ Liêm Châu
- Thiệu Châu : giới hạn sở Vĩnh An
- Mão Châu : giới hạn sở Hải An
- Vi Châu : giới hạn sở Cẩm Nang

Sau đây xin tìm hiểu từng địa danh, trình bày theo trình tự từ gần đến xa, tức từ hướng tây sang đông :

1. Thất thập nhị kính : giới hạn châu Khâm

Ðại Thanh Nhất Thống Chí 3 xác nhận Thất Thập Nhị Kính là 72 đường thủy chạy quanh co tại Long Môn :
Ngoài Long Môn quần sơn nhấp nhô, chia biển ra thành 72 đường thủy đạo, theo núi quanh co, đường nọ với đường kia có thể thông nhau, người đời thường gọi “ Long Môn thất thập nhị kính ” là tại đây.
Bản đồ Google phóng lớn ghi vị trí Long Môn Cảng Trấn, tại tọa độ 21.726334,108.57170 (Quý vị chưa quen, xin chép dãy số bên cạnh, mở Google map, chép vào ô chữ nhật, rồi gõ vào hình mặt kính ô màu bên phải, thì sẽ thấy vị trí trên bản đồ). Qua lời tâu dưới đây của Tổng đốc Lưỡng Quảng Trần Ðại Thụ thời Càn Long, cũng xác nhận vùng Long Môn, châu Khâm, giáp với biển Bạch Long Vĩ nước ta :
Ngày 30 Tân Mùi tháng 5 năm Càn Long thứ 15 [3/7/1750]
Tổng đốc Lưỡng Quảng Trần Ðại Thụ tâu :
Vùng Long Môn, Khâm Châu Quảng Ðông giáp giới với biển Bạch Long Vĩ, thuộc An Nam. Thuyền buôn nội địa [Trung Quốc] qua lại gặp những sự cố, hoặc những lính tráng đào ngũ trốn tránh tại nơi đây, ta cho là biển của nước Di, nên từ chối không phòng ngự… Nhận được chiếu chỉ :
Ðiều thấy đúng, đã hiểu rõ.” (Cao Tông Thực Lục quyển 365, trang 34)
Cũng cần lưu ý rằng địa danh Bạch Long Vĩ là một doi đất nhô ra biển, giống như đuôi rồng, tại tọa độ 21.49588,108.230438, chứ không phải là đảo Bạch Long vĩ. Vùng đất ven biển này và cả khu Giang Bình, Hoàng Trúc ; do người Pháp nhường cho nhà Thanh sau hòa ước Thiên Tân năm 1885 ; vua Quang Tự xác nhận việc nhường đất qua văn bản dưới đây :
Ngày 26 Ðinh Vị tháng 4 năm Quang Tự thứ 14 [5/6/1888]
Dụ các Quân cơ đại thần :
….Ðịa phương châu Khâm rộng rãi, lần này định biên giới, Ðại thần họ Vương 4 thuộc Tổng lý các quốc sự vụ nha môn cùng Sứ thần Pháp qua lại biện luận, mới đem các xứ Bạch Long Vĩ, Hoàng Trúc, Giang Bình nhất luật đưa về Trung Quốc ; từ nay về sau chốn hiểm yếu, đặt việc phòng thủ rất quan trọng... (Ðức Tông Thực Lục quyển 254, trang 14-15)

2. Nha Sơn : giới hạn châu Khâm

Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí 5 cho biết Nha sơn cách Long Môn 34 km về phía đông :
Núi Nha Sơn [牙山島] : núi ở ngoài biển, phía đông cách Long Môn 60 lý [34 km] ; giữa biển nhô lên 3 ngọn núi, chiều ngang hàng chục lý, hình như 3 chiếc răng. Gần Nha Sơn 20 lý [11.6 km] có mũi Kim Cổ, phía đông có vũng Ô Lôi, phía tây có núi Mã Yên, đều là cảng, có thể đậu thuyền ngoài biển.
Qua bản đồ Google thấy hình dáng Nha Sơn như 3 chiếc răng chìa ra biển, tại tọa độ 21.701934,108.622856

3. Ðạm Thủy Loan : giới hạn châu Khâm

Bản đồ Google xác nhận Ðạm Thủy Loan hình giống đường vạch chìa ra biển, tại tọa độ 21.719477,108.651695

4. Doanh Cách Mộc : giới hạn huyện Linh Sơn

Vị trí doanh Cách Mộc, không rõ ; tuy nhiên huyện Linh Sơn tại phía đông châu Khâm.

5. Núi Ô Lôi : giới hạn huyện Linh Sơn

Ðại Thanh Nhất Thống Chí chép về Ô Lôi lãnh như sau :
Ô Lôi lãnh : phía đông nam châu Khâm 160 lý [92 km], còn có tên là Ô Lôi môn, nhô lên từ biển ; vì vị trí hiểm trở nên được đặt binh phòng giữ. Theo Châu Chí mạch núi từ núi Na Mộ chạy quanh co tạo thành Thập Nhị lãnh rồi ra biển, qua trước miếu Phục Ba, thủy trình vào phủ Liêm Châu qua đây.
Trên bản đồ Google hiện có Ô Lôi thôn, là một bán đảo tại tọa độ 21.613707,108.735981

6. Ao Thanh Anh : giới hạn phủ Liêm Châu

Dưới thời Minh, tác phẩm Trù Hải Ðồ Biên của Tổng đốc Hồ Tôn Hiến, còn lưu lại một số bản đồ duyên hài, trong đó có bản đồ vùng biển châu Khâm. Tại bản đồ này, cũng ghi lại các địa danh được đề cập ở trên như : Thất Thập Nhị Kính [-3-], Nha Sơn [-4-], Ô Lôi Sơn [-5-]. Ngoài ra còn ghi vị trí Thanh Anh trì tại [-6-], đây là ao nuôi ngọc trai ngoài biển. Cần lưu ý, phương pháp thể hiện bản đồ Hồ Tôn Hiến trái ngược với bản đồ ngày nay ; ở chỗ phía trên chỉ hướng nam, phía trái chỉ hướng đông và tỷ lệ xích cũng không hoàn toàn chính xác ; tuy nhiên đây là tác phẩm cổ trên 500 năm về trước, cũng cần được tham khảo. Bản đồ Google không ghi ao Thanh Anh, xin suy ra từ bản đồ Hồ Tôn Hiến để tạm chấm tọa độ : 21.601258,108.802414

Bản đồ vùng biển châu Khâm của Hồ Tôn Hiến :
bdhth
Phiên âm tên các đảo và địa danh cần lưu ý :
- 1. Ðại Lộc Ðôn.
- 2. Tiểu Lộc Ðôn
- 3. Thất Thập Nhất Kính
- 4. Nha Sơn
- 5. Ô Lôi Sơn
- 6. Thanh Anh Trì
- 7. Vùng biên giới nước An Nam
- 8. Thành châu Khâm

7. Ao Dương Mai : giới hạn phủ Liêm Châu

Trên bản đồ vùng biển châu Liêm của Tổng đốc Hồ Tôn Hiến có ghi nhận hồ ngọc trai Dương Mai trì tại [-1-] (còn gọi là Dương Hải trì). Riêng bản đồ Google không chép, suy ra từ bản đồ Hồ Tôn Hiến tạm chấm tọa độ : 21.611472,108.850479

8. Ao Bình Giang : giới hạn phủ Liêm Châu

Bản đồ Hồ Tôn Hiến ghi Bình Giang Trì tại [-4-], riêng Google không ghi, căn cứ Hồ Tôn Hiến tạm chấm tọa độ 21.610196,108.904724

9. Thiệu châu : giới hạn sở Vĩnh An

Bản đồ Hồ Tôn Hiến ghi Thiệu Châu tại [-6-], riêng Google không ghi, nên căn cứ Hồ Tôn Hiến tạm chấm tọa độ 21.582104,108.980255

10. Mão châu : giới hạn sở Hải An

Bản đồ Hồ Tôn Hiến ghi Mão châu tại [-7-], riêng Google không ghi, nên căn cứ Hồ Tôn Hiến tạm chấm tọa độ 21.59232,109.049606

Bản đồ vùng biển phủ Liêm Châu của Hồ Tôn Hiến :
liemchau
Phiên âm tên các đảo và địa danh cần lưu ý :
- 1. Dương Mai Trì
- 2. Xà Sơn
- 3. Xà Dương Châu
- 4. Bình Hà Trì
- 5. Châu Mẫu Hải
- 6. Thiệu Châu
- 7. Mão Châu
- 8. Liêm Châu Phủ

11. Vi Châu : giới hạn sở Cẩm Nang

Quảng Ðông Thông Chí xác nhận đảo Vi Châu, tại sở Cẩm Nang, giáp giới với biển Việt Nam. Ðảo này vị trí tại phía nam huyện thành Hợp Phố khoảng 200 lý, chu vi 70 lý ; xưa là sào huyệt giặc cướp, đời Minh Vạn Lịch di dân đến canh tác 6.
Thanh Thực Lục cũng xác nhận thêm Vi Châu là cửa ngõ của 3 phủ Cao Châu, Lôi Châu, Quỳnh Châu ; mặt phía tây thuộc biển Việt Nam :
Ngày 18 tháng 3 năm Ðạo Quang thứ 13 [9/3/1833]
…Lại căn cứ theo Cao Nghi Dõng khám xét biển phía đông nam Long Dương, thuộc 3 phủ Cao, Lôi, Quỳnh, trong đó có đảo Vi Châu làm cửa ngõ, mặt phía tây thuộc Việt Nam, thuyền cướp thường trốn tại núi Cẩu Ðầu ; cần phải chặn việc tiếp tế lương thực, thuốc súng ; ngăn con đường vượt biên giới ăn cướp. Lại dò biết thuyền cướp có hơn 1 chục chiếc, trốn tránh xa tại châu Giáp, núi Cẩu Ðầu thuộc đất Di [Việt Nam], quân ta không quen đường cát, khó có thể đi xa. Ðáng phải thông báo cho Việt Nam, xua đuổi ra đánh. Duy cương vực Hoa, Di có phân biệt, phải biết rõ tình hình, thì mới có thể đánh bắt không để sót... (Tuyên Tông Thực Lục, quyển 230, trang 6- 8)
Riêng bản đồ Google ghi nhận Vi Châu đảo tại tọa độ 21.046695,109.117584


12. Vũng Hải Ðiều : giới hạn huyện Văn Xương

Bản đồ Google không ghi vũng Hải Ðiều, riêng Văn Xương thị thuộc tỉnh Hải Nam, tọa độ 19.538437,110.807419


13. Cảng Phố Tiền : giới hạn huyện Hội Ðồng

Ðại Thanh Nhất Thống Chí 7 xác nhận cảng Phố Tiền tại phía bắc huyện Văn Xương 150 lý :
Cảng Phố Tiền : tại phía tây bắc huyện Văn Xương 150 lý [87 km], sông từ huyện Quỳnh Sơn chảy đến hợp với sông Tam giang để ra biển. thương thuyền tập trung nơi đây tạo thành nơi yết hầu của huyện.
Riêng bản đồ Google ghi nhận Phố Tiền cảng tại tọa độ 20.042386,110.510101

14. Cảng Thần Ứng : giới hạn phủ Quỳnh Châu

Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí 8 xác định vị trí cảng cách huyện Quỳnh Châu 10 lý về phía bắc :
Cảng Thần Ứng : tại phía bắc huyện Quỳnh Châu 10 lý [5.8 km], còn có tên là cửa khẩu Bạch Sa. Dư Ðịa Kỷ Thắng chép bến Bạch Sa tại huyện Quỳnh Châu thuyền các nước Phiên tụ tập ; bờ biển khuất khúc thuyền lớn không thông. Vào thời Kiến Viêm soái xứ Quỳnh Châu là Nghiêm Quang Tổ cho khai cảng để tiện việc buôn bán, cảng tuy mở nhưng cát lại lấp ; vào năm Thuần Hy Mậu Thân, một trận cuồng phong xẩy ra, tạo thành cảng lớn hơn trước, nên có tên là cảng Thần Ứng.
Google không ghi vị trí cảng Thần Ứng, nhưng có ghi Quỳnh Sơn khu tại tọa độ 19.991417,110.348053

15. Phố Phong Doanh : giới hạn phủ Quỳnh Châu

Không rõ vị trí.

16. Phố Ma Ðầu : giới hạn huyện Lâm Cao

Không rõ phố Ma Ðầu, tuy nhiên Google ghi nhận vị trí Lâm Cao huyện tại tọa độ 19.915257,109.706726

17. Phố Cung Loan : giới hạn huyện Lâm Cao

Không rõ vị trí.

18. Ðiền Hòa loan : giới hạn châu Ðam

Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí 9 chép là cảng Hòa Ðiền, tại phía bắc châu Ðam 45 lý :
Cảng Hòa Ðiền : tại phía bắc châu Ðam 45 lý [26 km] ; lại có cảng Nga Man tại phía bắc châu 40 lý [23 km], tại đó có 36 khe, khi thủy triều lên thì nước tràn ngập, khi thủy triều xuống thì nước khe chảy ra trong vắt. Lại có cảng Hoàng Sa tại phía tây bắc châu 40 lý [23 km], gần với cảng Nam Khê. Châu Chí chép trong châu có hàng chục cảng, nhưng tại Hòa Ðiền bị giặc cướp quấy nhiễu nhiều, vì từ Lâm Cao xuống chỉ có cảng này có thể lấy được nước nhưng không có thành đá để ngăn, lại còn cách xa châu lỵ.
Riêng bản đồ Google không ghi cảng Ðiền Hòa, nhưng xác nhận Ðam Châu cảng tại tọa độ 19.726635,109.285126

19. Núi Nga Trá : giới hạn huyện Xương Hóa

Bản đồ Google không ghi núi Nga Trá, nhưng xác nhận cảng Xương Hóa tại tọa độ 19.326695,108.646545

20. Doanh Bạch Sa : giới hạn huyện Cảm Ân


Bản đồ Google không ghi doanh Bạch Sa, nhưng xác nhận Cảm Thành trấn tại tọa độ 18.848787,108.631439

21. Ðại Ðộng Thiên, Tiểu Ðộng Thiên : giới hạn châu Nhai

Tại vùng châu Nhai, gần Tam Á, Google ghi nhận địa danh Ðại Tiểu Ðộng Thiên tại tọa độ 18.293906,109.150887. Ngoài ra một đạo dụ của vua Ðạo Quang trong Thanh Thực Lục, xác nhận rằng bãi Ðồi Mồi [Ðại Mạo châu] thuộc vùng Tam Á, châu Nhai, gần Ðại Ðộng Thiên, tiếp giáp với biển Việt Nam :
Ngày 30 Nhâm Dần tháng 11 năm Ðạo Quang thứ 12 [20/1/1833]
Lại dụ :
... Lại cứ Lý Tăng Giới xưng rằng bọn Phó tướng Lý Hiền tuần tiễu đến bãi Ðại Mạo [đồi mồi] vùng biển ngoài Nhai Châu, Tam Á, chỗ này tiếp giáp với biển Di Việt Nam, thấy 3 thuyền phỉ, mỗi thuyền 1, 2 ngàn người, bèn cho đuổi bắt... (Tuyên Tông Thực Lục quyển 226, trang 28- 30)

22. Vũng Nha Lang, cửa Song Châu : giới hạn huyện Lăng Thủy

Bản đồ Google không ghi vũng Nha Lang, cửa Song Châu ; nhưng ghi nhận huyện tự trị Lăng Thủy Lê tộc tại tọa độ 18.49654,110.069275
Không kể vùng biển gần các phủ Liêm Châu và Quỳnh Châu được đề cập ở trên, những biển xa như quần đảo Hoàng Sa của ta, mà người Trung Quốc xưa thường gọi là Thiên Lý Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường, thì sử chí của họ chỉ đề cập một cách mơ hồ theo lời truyền ngôn. Các nhà khảo cứu nước này thường thuật lại qua lời kể của những người đi biển bị nạn, nên câu chuyện được thêm thắt vào đầy vẻ ma quái hoang đường. Chẳng hạn, sách Hải Ngữ [海語] của Hoàng Trung đời Minh, chép về Vạn Lý Thạch Ðường như sau :
Vạn Lý Thạch Ðường tại phía đông biển Ô Trư và Thạch Trư. Tại đó tuy trời nắng nhưng vẫn âm u, không giống như trong cõi trần ; thổ sản nhiều xà cừ. Chim có nhiều loại quỷ xa, có thứ 9 đầu, có thứ 3,4 đầu, rải rác khắp biển ; tiếng kêu gào ầm ỹ đến mấy dặm ; tuy kẻ ngu và loại hung hãn cũng xúc động buồn thảm, mồ hôi toát ra. Châu sư hàng hải trên thuyền lỡ tay lái thất thế, đâm vào đá tảng, thì hàng trăm mạng biến thành quỷ !
Tuy nhiên mới đây, để phụ họa cho việc tranh giành biển đảo, những nhà nghiên cứu viết theo đơn đặt hàng tại Trung Quốc cố tình gán ghép Trường Sa Thạch Ðường vào phủ Quỳnh Châu tức đảo Hải Nam, hoặc châu Vạn của phủ này. Nhắm vạch trần luận điệu sai trái đó, xin dịch nguyên văn cương vực phủ Quỳnh Châu và Châu Vạn, được chép trong Quảng Ðông Thông Chí để thấy một cách hiển nhiên rằng Thiên Lý Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường hay quần đảo Hoàng Sa, không thể nằm trong đó được :
Phủ Quỳnh Châu : Phía nam là Chiêm Thành, tây là Chân Lạp, Giao Chỉ ; đông là Thiên Lý Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường, phía bắc là huyện Tư Văn, phủ Lôi Châu.
Châu Vạn : Bề ngang rộng 205 lý, dọc 120 lý ; đông đến bờ biển 25 lý, tây đến núi Giá Cô Ðề 180 lý bên ngoài dân Sinh Lê sống, nam đến bờ biển 25 lý, bắc đến biên giới huyện Lạc Hội 95 lý.

*

Sự việc xẩy ra mỗi thời mỗi khác ; từ đầu thế kỷ 20 đến này, sau khi phát hiện tiềm năng khoáng sản nơi đại dương, người Trung Quốc tìm mọi cách tranh giành biển đảo. Cố tình quên đi sự thật lịch sử việc triều đình Trung Quốc công nhận vùng biển của Việt Nam, đã biết bao lần gửi chỉ dụ sang kêu gọi đánh dẹp giặc biển ngoài khơi ; nay họ vẽ bản đồ lưỡi bò đòi giành 80 % vùng biển đông, to tiếng rằng đó là bằng chứng không thể tranh cãi được ! Ðến đây, nhân vấn đề thời sự biển đảo, chợt nhớ đến Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, vốn mang dấu ấn từ hai dân tộc ; người viết bèn bắt chước “tập Kiều”, với câu thơ Thúy Kiều trách vấn Tú Bà như sau :
Giờ ra thay bực đổi ngôi,
Dám xin gửi lại một lời cho minh
.”

Hồ Bạch Thảo



1 Minh Thực Lục, Hồ Bạch Thảo dịch, Hà Nội : NXB Hà Nội, tập 1, văn bản 226.
2 Minh sử, quyển 323, mục Ngoại quốc.
3 Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, quyển 384, phủ Liêm Châu.
4 Viên Ðại thần tên là Vương Chi Xuân.
5 Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 384.
6 Quảng Ðông Thông Chí, sđd, quyển 9.
7 Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 350.
8 Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 350.
9 Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 350.
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/qua-su-chi-trung-quoc-thu-tim-hieu-vung-bien-giap-gioi-hai-nuoc-viet-trung/