Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017

Nguồn gốc và sự lan truyền của lúa Champa chín sớm: Ảnh hưởng của lúa loại này đến Nhà Tống Trung Hoa.

The Origin and Spread of Early-Ripening Champa Rice:
It’s Impact on Song Dynasty China
Randolph Barker
Rice (2011) 4:184–186, DOI 10.1007/s12284-011-9079-6, Springer.

Nguồn gốc và sự lan truyền của lúa Champa chín sớm:
Ảnh hưởng của lúa loại này đến Nhà Tống Trung Hoa.

Tóm tắt
Thường bị bỏ qua là tầm quan trọng của các giống lúa chính sớm với khả năng thoát khỏi hạn hán, tránh lũ lụt và ở một số địa phương mở ra cơ hội cho việc canh tác hai vụ. Hầu hết các giống trồng ở vùng nhiệt đới cho đến nửa thế kỷ qua đã trưởng thành từ 150 đến 180 ngày hoặc lâu hơn và nhạy cảm với ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, các giống 100 ngày không nhạy cảm với ánh sáng mặt trời đã được trồng ở Vương quốc Champa nhiều thế kỷ trước đây ở miền Trung Việt Nam. Làm thế nào các giống này được chuyển vào Trung Quốc  thời Nhà Tống, và tác động của lúa chín sớm lên sự gia tăng dân số ở Nam Trung Quốc đã được ghi lại trong nhiều tài liệu. Tuy nhiên, nguồn gốc của các giống láu Champa không rõ ràng. Theo kết quả phân tích ADN gần đây (xem bên dưới), các giống Champa thuộc một phân nhóm của nhóm aus. Nhóm aus có đặc điểm của cả indicajaponica và có nguồn gốc từ các vùng đồi của những gì bây giờ là miền Đông Ấn Độ, Bangladesh, và Myanmar. Vì Vương quốc Chămpa tiếp nhận ngôn ngữ và tôn giáo của Ấn Độ, ít nhất là ở mức độ vương triều, nên có vẻ hợp lý để cho rằng lúa gạo Champa phải đã được phổ biến từ các vùng đồi núi ở tiểu lục địa Ấn Độ tới miền Trung Việt Nam và tới Phúc Kiến là điểm đầu tiên của Trung Quốc và sau đó là khu vực Dương Tử trong thời nhà Tống vào thế kỷ thứ mười một.
Từ khoá
Lúa chín Sớm. Các giống lúa Aus.Vương quốc Champa. Triều đại nhà Tống
Nền tảng
Nguồn gốc và sự lan toả của giống lúa Champa đã diễn ra cách đây nhiều thế kỷ khi các giống gạo thường được nông dân lựa chọn và phát triển vì sự phù hợp với tình hình môi trường cụ thể. Điều này sẽ bao gồm sức đề kháng hoặc linh hoạt đối với áp suất phi sinh - nhiệt độ (nóng hoặc lạnh), lũ lụt, hạn hán, độ mặn. Mục tiêu là đảm bảo những biện pháp an ninh lương thực, khi mà ở phần lớn châu Á, gạo đã trở thành thực phẩm chính. Nhưng những tiến bộ cải tiến giống đã qua là con dao hai lưỡi nhằm tạo thuận lợi cho an ninh lương thực và giảm nghèo trong một thời gian ngắn, nhưng vô tình làm chất xúc tác để tăng dân số.  Gần đây, con đường rõ ràng để tăng sản lượng lúa gạo là thông qua việc áp dụng các giống năng suất cao hiện đại, cùng với việc mở rộng hệ thống tưới tiêu và sử dụng nhiều hơn các hóa chất - phân bón, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu. Điều này đã dẫn đến cuộc cách mạng được gọi là cuộc cách mạng xanh ở Châu Á, khi Châu Á bị đe dọa bởi một vụ bùng nổ dân số sau Thế chiến Tuy nhiên, một phần là do những lo ngại về sự nóng lên toàn cầu, hiện nay người ta chú ý đến các giống sẽ hoạt động tốt trong các môi trường đa dạng như  đã được tìm thấy trong các khu vực chưa được tưới nước, chiếm khoảng một nửa diện tích trồng lúa Châu Á. Các giống được tìm thấy trong những khu vực này được gọi là vùng cao. Chúng đang tiếp xúc với nhiều yếu tố bất lợi như  căng thẳng phi sinh được nêu ở trên. Tưởng là nghịch lý, nhưng điều này đưa chúng ta đến câu chuyện về cây lúa Champa đã xảy ra hàng thế kỷ trước.
Thời nhà Tống Trung Quốc (960-1279AD)
Công nghệ nông nghiệp ở Bắc Trung Quốc phát triển đi trước các khu vực khác của Trung Quốc. Thực tế là từ thế kỷ thứ 4 trở đi, đã có một cuộc di cư về phía nam, đặc biệt là vào khu vực Dương Tử (Hồ 1956). Sự mở rộng nhanh chóng của canh tác lúa ở phía đông nam Trung Quốc được hỗ trợ bởi việc sản xuất các dụng cụ bằng sắt. Các nhân tố quan trọng cho việc mở rộng và cải thiện canh tác lúa là kiểm soát nước, nông cụ, động vật kéo, phương pháp trồng trọt, kiểm soát cỏ dại và côn trùng, tuyển chọn giống, và trên hết là đổi mới con người (Chang 2000).
Sự phát triển liên tục của diện tích trồng lúa đã dẫn tới một cuộc cách mạng trong nông nghiệp không giống như cuộc cách mạng xanh hiện đại. Đối mặt với tình trạng gia tăng dân số gây áp lực lên đất, các vị hoàng đế nhà Tống thời kỳ đầu đã nhắc nhở người dân nhiều lần để cải thiện cây lương thực và thử nghiệm những cây mới (Ho 1956). Có một đợt hạn hán nghiêm trọng ở khu vực thung lũng sông Dương Tử và sông Hoài và ở khu vực lúa gạo phía đông và tây Chiết Giang vào năm 1012. Hoàng đế Zhenzong (992-1022) biết rằng gạo Champa có khả năng chịu hạn, chín sớm và không nhạy cảm với ánh sáng mặt trời (Sharma 2010) (có nghĩa là, sự chín của lúa không được xác định bởi ngày dài hoặc thời gian của ánh sáng mặt trời). Các phái viên đặc biệt đã được gửi tớiTỉnh Phúc Kiến để mua 30.000 giạ hạt giống và phân phát cho nông dân trong các vùng hạn hán cùng với các hướng dẫn của chính phủ về phương pháp canh tác thích hợp (Ho 1956). Lúa này đã đến Trung Quốc từ Vương quốc Chămpa tại miền trung Việt Nam. Không ai biết được chính xác khi nào lúa gạo Champa đến Phúc Kiến. Một số người nói đó là vào đầu thế kỷ thứ tám, nhưng từ năm 1012 trở lại đây, lúa gạo Champa bắt đầu nhận được sự quan tâm rộng rãi ở Trung Quốc (Hồ 1956).
 Giống lúa Champa, vì không giống như các giống phổ biến thời đó, nên lúc đầu cho năng suất thấp hơn hầu hết các giống truyền thống của Trung Quốc. Tuy nhiên, nông dân đã lựa chọn và phát triển các giống có năng suất cao để trồng ở những cánh đồng đất thấp được tưới tiêu tốt (Bray 1986).
Vương quốc Champa (từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XV)
Cư dân Champa là con cháu của những người định cư Malayo-Polonyesian đến lục địa từ Borneo vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Công nguyên (Thurgood 1999). Ngôn ngữ của họ là một phần của nhóm ngôn ngữ Austronesian Nam Đảo và theo một nghiên cứu họ có liên quan gần nhất với nhóm người Achenese hiện đại (Thurgood 1999). Họ cũng là những người buôn bán trên biển.
Có rất nhiều cuộc thảo luận trong văn liệu về ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Champa, những vương quốc được gọi là Ấn Độ Hoá  như Champa và các quốc gia khác ở Đông Nam Á. Hall (1981) cảnh báo, tuy nhiên, sự truyền bá của ngôn ngữ và tôn giáo thường được giới hạn trong tầng lớ vương triều và không ảnh hưởng nhiều đến văn hóa bản địa. Các vua và hoàng gia Chama đã tiế nhân Phạn ngữ và Hindu giáo và sau đó là các tôn giáo Phật giáo. Nhưng những gì được ghi lại bởi các nhà sư hoặc được phát hiện bởi các nhà khảo cổ học phải được coi là một mẫu thiên vị. Cuộc sống trần tục của nông dân, bao gồm làm thế nào để dân số tự kiếm sống, không phải là một chủ đề được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, như thường nói, thông qua thương mại hoặc bằng các phương tiện khác, công nghệ lúa gạo do người nông dân phát triển trong nhiều thế kỷ ở miền Nam Trung Quốc lan một phần vào Đông Nam Á (Ho 1956). Vào những năm 1960, hầu hết nông dân trồng lúa Philippine đều sử dụng  bừa nhiều răng của Trung Quốc để làm đất ruộng cấy lúa. Bừa bằng trâu nước  kéo về cơ bản giống hệt nhau, bừa được sử dụng trong triều đại nhà Tống giống thời Hậu Hán (từ 200 TCN đến 220 AD) (xem Bray 1984).
Lúa Champa là giống aus (Sweeney et al.2007, xem bản đồ e133). Ho (1956) ghi nhận rằng có một câu hỏi đáng kể trong văn liệu về việc liệu lúa Champa có nguồn gốc vùng cao hoặc vùng đất thấp. Ông nói rằng vấn đề phức tạp đến nỗi "bất kỳ câu trả lời rõ ràng nào cũng có vẻ" không thể. Lúa vùng cao có nhiều yếu tố bất lợi có thể không tìm thấy ở đồng bằng, trong điều kiện đồng ruộng. Chúng bao gồm các áp lực phi sinh học như hạn hán, lũ lụt, đất xấu và nhiệt độ (IRRI 1975). Một số giống vùng cao đã thích ứng với những điều kiện bất lợi này.
Vài tháng trước, tôi đã hỏi Susan McCouch, nhà trồng trọt và nhà nhân giống cây trồng ở Cornell, xem cô có biết về lúa Champa. Cô ấy nói sẽ tìm trong ngân hàng gen của cô. Một vài ngày sau, cô nói rằng  đã tìm thấy một giống lúa Champa, chạy thử DNA, và nói rằng đó là một giống aus. Aus là một trong năm quần thể nhỏ của Oryza sativa - Bốn loài khác là indica, japonica ôn đới, japonica nhiệt đới, và thơm (Kovach và cộng sự, 2007). Trong khi tương tự như indica, các giống aus có các đặc điểm khác rõ ràng như khả năng chịu hạn và không nhạy cảm với ánh sáng mặt trời.
Việc phát hiện ở trên trả lời hai câu hỏi quan trọng. Thứ nhất, di truyền học hiện đại đã trả lời câu hỏi mà học giả Ho nửa thế kỷ trước đó đã không thể trả lời. Nghĩa là lúa Champa là một giống lúa vùng cao. Thứ hai, sự phân bố của aus có nguồn gốc từ vùng cao của vùng Đông Ấn Độ, Bangladesh và Myanmar (Sweeney et al.2007). Những loại lúa Champa này hầu như chắc chắn phải được phát triển lần đầu tiên ở miền đông Ấn Độ rồi tìm đường về phía đông vào những vùng đồi núi thuộc miền Trung Việt Nam ngày nay và sau đó là phía bắc đến Phúc Kiến và sau đó là khu vực Dương Tử của Trung Quốc.
Ảnh hưởng của lúa chín sớm ở Trung Quốc
Theo Ho (1956), việc đưa giống lúa Champa vào Trung Quốc và mối quan tâm của hoàng đế nhà Tống về việc tiếp nhận giống lúa này đã khiến cho những giống lúa chín sớm này trở nên phổ biến. Perkins (1969) và Zeng (1998) đặt ra câu hỏi về ván đềnày, Zeng cho rằng các giống hsien (indica) trong nước không phổ biến rộng rãi phù hợp hơn với vùng đồng bằng trong khi lúa Champa phù hợp hơn với vùng cao nguyên. Ho (1956) thừa nhận rằng sự khác biệt giữa lúa giống hsien bản xứ và lúa giống champa mới đưa vào ngày càng giảm theo thời gian, đến độ rằng vào thời Minh (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII), thì các thuật ngữ (tên gọi các giống lúa) đã trở nên giống nhau.
Tuy nhiên, có một sự nhất trí chung là tăng sản lượng gạo thông qua cả ở việc tạo ruộng bậc thang ở vùng cao và mở rộng canh tác hai vụ ở vùng đất thấp được tưới nước giải quyết được vấn đề an ninh lương thực một cách cấp thời, nhưng lại khuyến khích di cư và tăng dân số ở các vùng trồng lúa ở miền Nam Trung Quốc.
Phần cuối
Không cần nói quá lên về tầm quan trọng của các tính trạng có trong các giống lúa aus như chín sớm.  Garris và cộng sự (2005) lưu ý rằng mặc dù các chủng loại aus đã nhận được ít sự chú ý hơn so với japonica hoặc indica trong các chương trình nhân giống, Chịu hạn và chín sớm là những đặc điểm thích nghi có thể hữu ích trong các ứng dụng sinh trưởng.
Trong nửa thế kỷ qua, cuộc cách mạng xanh đã dẫn tới sự gia tăng sản xuất lúa gạo một cách nhanh chóng, đặc biệt là ở các vùng đất thấp được tưới tiêu tốt, ít nhất là tạm thời giải quyết vấn đề an ninh lương thực ở Châu Á. Giống đầu tiên trong số các giống cây trồng 100 ngày trưởng thành của vùng đất thấp nhiệt đới IR36 đã được Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IAEA) công bố năm 1976. Trong khi một số người hoan nghênh việc  IR 36 đã được áp dụng rộng rãi, các nhà khoa học khác lo ngại rằng việc thiếu sự đa dạng trong các tế bào chất gây ra một nguy cơ về sự bùng phát dịch bệnh và côn trùng. Ngoài ra có một nghịch lí, vì công nghệ này đã bị khai thác triệt để nên an ninh lương thực lại trở thành mối quan tâm.
Vì những lý do trên và khi chúng ta bước vào kỷ nguyên khan hiếm nước ở nhiều nước Châu Á và đang quan tâm đến sự thay đổi khí hậu, các nhà khoa học đang chú ý nhiều đến sự phát triển của các giống tốt trong điều kiện môi trường bất lợi. Hiện nay, việc nghiên cứu các gen có thể cho phép các giống gạo chịu đựng được các áp lực phi sinh học như hạn hán, lũ lụt và nhiễm mặn. Các giống vùng cao như những loài được tìm thấy trong quần thể aus cho thấy một nguồn tiềm năng cho các gen như vậy. Nói tóm lại, những đặc điểm của lúa gạo ngày nay mà những người nhân giống hiện nay tìm kiếm cũng giống như những người nông dân và hoàng đế thời Tống Trung Quốc từng tìm kiếm.
References Tài liệu dẫn
Bray F. Agriculture. Vol. VI Part 2. In: Needham J, editor. Science and civilization in China. Cambridge: Cambridge University Press; 1984.
Bray F. The rice economies: technology and development in Asian Societies. Oxford: Basil Blackwell Ltd.; 1986.
Chang T-T. Rice, economic and biological importance. In: Kiple KF,Ornelas KC, editors. The Cambridge world history of food. Cambridge: Cambridge University Press; 2000.
Garris AJ, Tai TH, Coburn J, Kresovich S, McCouch S. Genetic structure and diversity in Oryza sativa L. Genetics. 2005;169:1631–8.
Hall DGE. History of South-East Asia. New York: St. Martin’s Press; 1981.
Ho P-T. Early-ripening rice in Chinese history. Economic History Review New series. 1956;9(2):200–18.
International Rice Research Institute. Major research in upland rice. Annual report. Los Banos: IRRI; 1975.
Kovach MJ, Sweeney MT, McCouch SR. New insights into the history of rice domestication. Trends Genet. 2007;23(11):578–87.
Perkins D. Agricultural development in China 1368–1968. Chicago: Aldine; 1969.
Sharma SD. Rice: origin, antiquity, and history. Enfield: Science Publishers; 2010.
Sweeney MT, Thompson MJ, Chou YG, Park YJ, Williamson SH, Bustamante CB, McCouch SR. Global dissemination of a single mutation conferring white pericarp in rice. PLoS Genet. 2007;3 (8):e133.
Thurgood G. From ancient cham to modern dialects. Honolulu: University of Hawaii Press; 1999.
Zeng X. Huang-lu rice in Chinese history. Agric Archaeol. 1998;3:292– 311.




Lâm Thị Mỹ Dung dịch

Khi đọc và dịch bài này, có mấy vấn đề không rõ cần suy nghĩ

1. Đó là mẫu của giống lúa Champa, mà nhà di truyền học Susan McCouch ở Cornell chạy thử DNA và xác định thuộc giống aus được thu thập thời gian nào và vùng nào của Champa để đưa ra kết luận giống lúa Champa là lúa vùng cao khi mà địa hình của vương quốc này rất đa dạng và không thiếu những đồng bằng màu mỡ và có hệ thống tưới tiêu tốt. 
2. Lúa vụ Chiêm của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ được tin là do nhập của Champa và vì thế nên có tên gọi Chiêm gắn với Chiêm Thành có đặc tính chín sớm và ít nhạy cảm với ánh sáng hay không 














Thứ Bảy, 1 tháng 7, 2017

GIẾNG

Đi miền Trung từ những năm đầu 90, chân ướt chân ráo, cái gì cũng lạ.

Nhờ Thầy Vượng, nhờ đồng nghiệp, bạn bè từ Hà Nội và đặc biệt là từ địa phương từ xóm đến tỉnh mà vỡ được rất nhiều điều, học bao thứ hay đúng nghĩa của ″Đi một ngày đàng, học một sang khôn và học thầy không tầy học bạn″.

Cũng sau những chuyến điền dã như vậy mình rút ra được một vài thứ cần tránh trong nghiên cứu, trong tất cả những điều đó, đáng sợ nhất là định kiến và kinh nghiệm. Ví dụ điển hình về cái gọi là định kiến và kinh nghiệm chủ nghĩa chúng ta thấy rất rõ trong nghiên cứu về giếng Champa và kỹ thuật giếng Champa (rộng ra là ảnh hưởng Champa trong lịch sử và văn hoá  của người Việt ở miền Bắc và miền Trung).

Trước hết, để tồn tại được ở miền Trung, cư dân của Vương quốc Champa chắc chắn phải có những kỹ thuật và phương thức khai thác và sử dụng nước phù hợp, trước hết là đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và canh tác... Điểm nổi bật trong sử dụng nước của cư dân Champa trước đây và của người Chăm Ninh Thuận hiện nay là phân biệt rạch ròi chức năng tín ngưỡng, tôn giáo với chức năng sinh hoạt, tưới tiêu. Do vậy trong tất cả các khu đền tháp Champa kể cả những nơi người Việt phá tan hoang thì giếng và dấu vết giếng vẫn còn. Cách đào giếng và xây giếng của cư dân CP cũng rất đa dạng, phụ thuộc vào địa hình và vật liệu khu vực, ở vùng cồn cát có loại giếng Mội khai thác nước ngầm tự phun lên, ở vùng sườn đồi đất đỏ bazan Quảng Trị, giếng  xếp đá thành từng mức theo  độ dốc, thu gom những mạch nước chảy từ  trên xuống và từ trong ra, ở vùng gò núi và đồng bằng duyên hải loại giếng nổi bật nhất và nhiều nhất là giếng hình vuông, đáy kè gỗ khai thác thu gom nước mạch, xây bằng gạch hay xếp đá tuỳ theo nguồn vật liệu địa phương. Đặc điểm chung của tất cả những giếng này là do có mạch tốt nên gần như không bao giờ bị cạn kiệt, nước trong và ngọt.

Bên cạnh những giếng có thể xác định được chủ nhân chắc chắn là cư dân Champa thì ở miền Trung cũng có nhiều giếng khai thác nước mạch ngầm xây bằng gạch, hình tròn mà các nhà nghiên cứu và người dân gọi là giếng Chăm, đây là vấn đề rất đau đầu và chưa có cách thức nào để xác định và cũng chưa có nghiên cứu nào đến nơi đến chốn. Đôi khi để kín kẽ, người ta gọi là giếng đào xây theo kỹ thuật Champa. Tuy nhiên cần lưu ý ở miền Trung bên cạnh lớp cư dân Champa còn có lớp cư dân Việt và cư dân Minh Hương, liệu họ có mang tới đây những kỹ thuật đào giếng của mình (như của người Minh Hương), hay đơn thuần chỉ là học kiểu thích nghi sinh thái đã có sẵn của cư dân Champa?  

Quay trở lại với những giếng đào lấy nước mạch ngầm xây gạch, xếp đá ong, xếp đá đôi khi gặp lẻ tẻ hay tập trung ở không gian văn hoá truyền thống của người Việt ở miền Bắc Việt Nam, nơi mà giếng đất thu gom nước mạch ngang và nước mưa và bể hay chum chứa nước mưa đã từ lâu thành biểu tượng vừa hay vừa dở. Đa phần các nhà nghiên cứu gắn loại giếng này với kỹ thuật giếng Champa vì trước hết đây là kỹ thuật lạ so với kỹ thuật giếng đất của người Việt và sau đó là những sự kiện lịch sử đã được ghi lại về di trú của tù binh Champa. Có thể có lý, nếu chúng ta nghiên cứu một cách cặn kẽ lối sinh hoạt của cư dân nơi đó, địa bàn phù hợp với ghi chú về  di trú của cộng đồng người Champa trong lịch sử và nếu có thể cả những phân tích DNA của cư dân nơi đó hiện nay để so sánh với người Chăm hiện nay, phân tích di truyền về ngôn ngữ và nhiều thứ nữa như kỹ thuật đào, tìm mạch và vật liệu ... Tuy nhiên hiện đang thiếu vắng những nghiên cứu liên ngành kiểu này, nên cứ thấy hao hao,″ xôi giống xôi, thủ giống thủ” thì bảo đó là kế thừa hay ảnh hưởng từ nơi khác.  

Thưc ra, hình dạng giếng, cách thức đào và xây giếng còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện địa hình, địa mạo, ở vùng bán sơn địa, giếng đào sâu hun hút rất nhiều, xây gạch, xây bằng đá ong, xếp đá ...  liệu có nên gắn với giếng Champa? Những giếng tròn sâu xây bằng gạch thời Lý, thời Trần... trong khu khai quật Hoàng thành Thăng Long khơi lên nước vẫn trong, những giếng xếp đá ở Bình Xuyên, Vĩnh Phúc có niên hiệu thời Lê..., nên xếp vào truyền thống nào cho hợp lý và khoa học.

Những giếng  (tương truyền 72 cái) ở Yên Sở gắn với địa bàn cũ của Colony tù binh Champa với những hàng dừa xanh (nơi từng quay bộ phim Vĩ tuyến 17 Ngày và Đêm) liệu có thể chắc chắn là đào theo kỹ thuật giếng Champa hay do tù binh Champa đào không?

Kỹ thuật lan truyền đôi khi trực tiếp và nhiều khi gián tiếp và khảo cổ học giếng còn rất mung lung.

Vì thế chỉ là cái giếng thôi mà đau hết cả đầu!