Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009

Giải nghĩa lịch sử

Giải nghĩa lịch sử
Jorn Rusen
Lê Hải dịch và chú thích
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14651&rb=0302

Giới thiệu: Giáo sư người Đức Jorn Rusen hiện đang là một trong số những lý thuyết gia sử học hàng đầu thế giới, thuộc trào lưu những người viết sử sau giai đoạn mà Francis Fukuyama và nhiều người khác mô tả là lịch sử đã cáo chung. Hiện đang là chủ tịch Viện Nghiên cứu Cao cấp về Các khoa học Nhân văn (Institute for Advanced Studies in the Humanities) ở Essen, ông cũng đồng thời là người khởi xướng và biên tập cho loạt sách
[1] nghiên cứu lịch sử thế giới theo nhân sinh quan mới, bắt đầu từ năm 2002, mà đến nay – mùa Thu năm 2008 – tập sách thứ 11 vừa được xuất bản. Bản gốc tiếng Anh của bản dịch này là lời tựa cho tất cả các tập sách được xuất bản trong series này, cũng có thể coi là tuyên ngôn cho một hệ tư tưởng đang ngày càng phổ biến trong làng sử gia phương Tây.
Giai đoạn bắt đầu của thế kỷ 21 cũng là lúc khái niệm “lịch sử” chuyển tải những nội dung trái ngược nhau trong tư duy. Từ một phía, 10–15 năm qua ghi nhận rất nhiều lời tuyên bố là lịch sử đã cáo chung
[2] . Khi nói đến những thay đổi về cơ bản của diễn biến chính trị toàn cầu trong hai năm 1989–1990, hay về hậu hiện đại, hoặc thách thức đối với vai trò áp đảo của phương Tây từ phía xu hướng phản thuộc địa và đa văn hóa, “lịch sử”, như chúng ta từng biết theo truyền thống phương Tây, bị tuyên bố đã chết, đã lạc hậu, đã bị vượt qua, và đã đến hồi kết thúc. Từ phía còn lại, có cả một làn sóng toàn cầu của những khám phá về mặt học thuật trong các lĩnh vực có thể coi là “mang tính lịch sử” một cách tự nhiên: quá trình xây dựng bản sắc cá nhân và bản sắc tập thể [3] thông qua ký ức; ứng dụng và chức năng trong văn hóa, xã hội và chính trị của “phép kể quá khứ”; cùng các kết cấu tâm lý của ghi nhớ, ức chế và hồi tưởng [4] . Ngay cả các ngành học có vẻ như kêu gọi “kết thúc lịch sử” (toàn cầu hóa, chủ nghĩa hậu hiện đại, tư tưởng đa văn hóa) cũng nhanh chóng biến thành hiện tượng “lịch sử” rất tự nhiên. Hơn vậy, “lịch sử” và “ký ức lịch sử” còn xâm nhập không gian văn hóa đại chúng (từ các kênh truyền hình chuyên về lịch sử cho đến phim Hollywood). Chúng trở thành những yếu tố quan trọng hơn bao giờ hết trong các cuộc tranh luận đại chúng và đàm phán chính trị (ví dụ các bàn cãi về dư âm của cuộc chiến ở Nam Tư cũ, hay thảo luận về quá trình thống nhất châu Ấu hoặc những di sản từ các chế độ toàn trị). Nói cách khác, hơn bao giờ hết từ sau ngày “lịch sử” bị khai tử, “các vấn đề lịch sử” có vẻ như đang quay lại báo thù. Tình thế tiến thoái lưỡng nan này đòi hỏi phải có một hướng đi mới, hoặc ít nhất là một thể hiện mới về mặt lý thuyết. Hơn vậy, nó đòi hỏi phải có một hệ thống lý thuyết mới cho ngành sử học. Lý thuyết này không chỉ dành riêng cho một phân ngành bên trong ngành sử, cũng không phải là một tập hợp có hệ thống các định nghĩa, “qui luật” và luật lệ có giá trị phổ quát. Điều cần thiết là một ngành học đa ngành và liên văn hóa. Ngay tại thời điểm mà lịch sử bị tuyên bố là “đã qua”, cái ngay lập tức kết thúc chính là lý thuyết lịch sử. Phê bình theo phương pháp nhiều chiều (deconstruction) của Hayden White [5] đối với trường phái kể chuyện của các sử gia trong thế kỷ 19 có thể được coi là lời cuối cho lý thuyết lịch sử – khi mà lời phê bình cho tuyên bố của ngành về tính hợp lý đã đặt ra điểm kết thúc cho ý thức hợp lý của ngành; vì phê bình đó không phải là ý thức hợp lý theo luật nhân quả (rational self-reflection). Tuy nhiên, từ cuối thập niên 1980s, “nghiên cứu mang tính phê phán về ký ức lịch sử” bắt đầu nhân rộng bên trong ngành lý thuyết lịch sử [6] . Nhưng mà bên trong phân ngành này người ta bỏ sót vấn đề là bất kỳ khảo sát nào vào ký ức lịch sử trong bối cảnh văn hóa khác nhau đều không chỉ là nghiên cứu mang tính đột phá, mà còn là viên gạch cho cả một lý thuyết bao quát hơn trong lịch sử. Bất kỳ phân tích nào đối với dù ngay cả một tình trạng đơn giản của ký ức lịch sử cũng không thoát khỏi các vấn đề thuộc về về lý thuyết và triết học cho môn lịch sử [7] . Và ngược lại: các tư duy trừu tượng nhất của các triết gia sử học cũng ngay lập tức gặp phải một phản ví dụ tự nhiên nhất trong quá trình ghi nhớ (ví dụ, khi cha mẹ kể lại các trải nghiệm trong quá khứ cho con cái nghe, hay khi một cộng đồng dân gốc Phi châu nhớ lại thời thuộc địa và công cuộc giải phóng). Cho đến khi nào chúng ta không công nhận mối liên hệ tự nhiên giữa lý thuyết lịch sử rắc rối nhất và các vận hành của ký ức lịch sử ẩn thân sâu nhất trong văn hóa và cuộc sống hàng ngày của con người, chúng ta sẽ tiếp tục bị mắc kẹt trong tư duy tuyến tính, vốn coi biến thể văn hóa của ký ức chỉ đơn giản là các đối tượng lý thú cho nghiên cứu hơn là nhận ra đó như là các ví dụ “làm thế nào để giải nghĩa lịch sử”. Bộ sách Making Sense of History đặt mục tiêu làm cầu nối bắc qua khoảng trống giữa lý thuyết lịch sử và các nghiên cứu về ký ức lịch sử. Đóng góp trong đó là hầu hết các ngành học về văn hóa và xã hội, khai phá một phạm vi rộng lớn các hiện tượng thuộc về một lãnh vực có thể đặt tên là “giải nghĩa lịch sử” (Historische Sinnbildung). Bộ sách không chỉ vượt ranh giới giữa các ngành học, mà còn giữa các nền văn hóa, xã hội, chính trị và lịch sử bao quanh đó. Thay vì giản lược ký ức lịch sử xuống thành một dạng mới nào đó của ngành “cấu trúc thực tế” xã hội hay văn hóa, đóng góp của bộ sách chính là soi sáng các hiện tượng cụ thể trong ký ức lịch sử: tìm cách diễn giải chúng như các ca nghiên cứu trong ngành nghiên cứu cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm đang dần hình thành để “giải nghĩa lịch sử”. Theo trục chung đó, các bài luận lý thuyết không chỉ muốn thiết lập một hệ thống lý thuyết và phương pháp mới trong nghiên cứu lịch sử, mà còn đưa ra các cách nhìn so sánh, liên ngành, và liên văn hóa nhằm giúp thông hiểu cái có thể gọi là “công trình toàn cầu về ký ức lịch sử”. Công việc này không đòi hỏi phải loại trừ các đánh giá phê bình đối với chức năng làm công cụ cho hệ tư tưởng của ký ức lịch sử, nhưng mục tiêu chính của bộ sách không phải là đi tìm các hệ tưởng hay định nghĩa chính trị, cũng không phải là phương pháp luận tách rời hệ tư tưởng về “giải nghĩa lịch sử”. Nói cách khác, bộ sách có ý định nghiên cứu các hoạt động văn hóa liên quan tới quá trình tạo ra nghĩa cho lịch sử trong vai trò một thể đặc biệt quan trọng của suy nghĩ và hành động của con người, một ngành học có thể đóng góp vào các loại hình thông hiểu qua lại mới. Trong thời đại toàn cầu hóa nhanh chóng, mà chủ yếu thể hiện trên bình diện kinh tế và chính trị (và rất ít trên bình diện văn hóa) thì việc xây dựng các dạng thức như vậy là nhiệm vụ khẩn cấp. Sử gia, chuyên gia nhân học, triết gia, các nhà xã hội học, tâm lý học và lý thuyết gia văn chương, cũng như các chuyên gia trong những ngành như truyền thông và nghiên cứu văn hóa [8] , cùng nhau khám phá các vấn đề như sau: Cái gì tạo ra “ý” (sense) và “nghĩa” (meaning) cho lịch sử? Trong những nền văn hóa khác nhau thì các khái niệm về “thời gian” (time) giữ vai trò tiềm ẩn như thế nào? Dạng đặc biệt nào của “nhân sinh quan” (perception) chuyên chở các khái niệm đó và liên quan với những vấn đề chung nào? Đâu là phương pháp thường dùng nhất để diễn tả ý nghĩa lịch sử? Rộng khắp từ các quan điểm chung cho đến lập luận lý thuyết cho các ca nghiên cứu, các bài viết đề cập tới rất nhiều vấn đề liên quan tới câu hỏi về “ý nghĩa lịch sử”, bao gồm các đề tài như bản sắc tập thể, tâm lý và phân tâm học của ký ức lịch sử, hay không gian liên văn hóa của tư duy lịch sử. Nói chung, các bài viết đều thể hiện rằng ký ức lịch sử không phải là chức năng riêng biệt của các hoạt động văn hóa mà con người dùng để thể hiện chính mình trong thế giới họ sinh ra, mà các ký ức đó còn bao gồm những ngành nghiên cứu đặc biệt trong tư duy đương đại của đời sống con người. Các ngành này xét quá trình tâm lý nối kết quá khứ, hiện tại và tương lai từng được phương Tây tổng quát hóa và thể chế hóa, được coi là các phạm trù đặc biệt trong văn hóa mà chúng ta gọi là “lịch sử”. Trong số các khả năng đặc biệt của con người như tư duy, hành động, và đau khổ đòi hỏi phải có “tư duy lịch sử” đặc biệt gồm có (1) quá trình xây dựng và duy trì bản sắc tập thể, (2) quá trình tái xây dựng qui luật tư duy sau thảm họa và các sự kiện hủy diệt hàng loạt, (3) thách thức phải tạo ra qui luật tư duy được thể hiện bởi, và thông qua quá trình đối đầu với các nhóm cực đoan khác, và (4) kinh nghiệm chung về thay đổi và thỏa hiệp. Theo đúng mục tiêu chung của bộ sách Making Sense of History là mô tả một khu vực nghiên cứu liên ngành mới (chứ không phải đưa ra một lý thuyết riêng), các tập sách được thiết kế không phải nhằm để tạo ra các khu vực chung và chức năng của quá trình ghi nhớ lịch sử như khởi đầu cho một cách tiếp cận mới cho ngành sử ký; thay vào đó, khai phá các khu vực này trong tư cách các nhánh nhỏ của ngành nghiên cứu “các nền văn hóa sử”. Ví dụ như một điểm tập trung là phạm trù bản sắc tập thể (collective identity). Các quan điểm lý thuyết và vấn đề phổ quát được xem xét đặc biệt trong mối quan hệ qua lại với bản sắc, với cái khác (otherness) và tính đại diện. Cùng lúc, các ca nghiên cứu về quá trình hình thành bản sắc giới tính (đặc biệt là với phụ nữ), về bản sắc sắc tộc, và các loại hình khác nhau cùng sân khấu chính trị của bản sắc dân tộc cũng được được đính kèm. Các bài luận về vấn đề này sẽ nhằm mục tiêu chỉ ra rằng bất kỳ khái niệm nào về “bản sắc” như đang bị tách rời khỏi biến đổi lịch sử không chỉ kéo theo các vấn đề về lý thuyết, mà còn bỏ qua thực tế là đa số các dạng hiện đại của bản sắc tập thể bao gồm khả năng tự chuyển đổi theo thời gian. Do vậy, các bài luận sẽ không coi bản sắc là công cụ để phân biệt, mà là một “hoạt động” văn hóa cụ thể đang diễn ra của sự khác biệt. Mục tiêu sẽ là chứng minh khả năng sản sinh của “ý nghĩa” là điểm khởi đầu cho nhận thức luận, cũng như chính nó là một khu vực nghiên cứu lý thuyết và thực hành. Một số tập sách sẽ tập trung vào quá trình hình thành “thời gian” [9] và “lịch sử” trong tâm lý, phân tích mối liên hệ qua lại giữa ký ức, đạo đức và tính nguyên bản trong các loại hình khác nhau của câu chuyện lịch sử hay hồi ký. Các thành quả từ những nghiên cứu tâm lý thực hành (về sự phát triển của nhận thức hiện tại và lịch sử ở trẻ em, hay cơ chế tâm lý của quá trình tái dựng các kinh nghiệm trong quá khứ) sẽ được thảo luận trong ánh sáng của các nỗ lực muốn phác thảo một lý thuyết tâm lý cho khái niệm nhận thức lịch sử quanh phạm trù “cốt truyện” và “cấu trúc kể chuyện của thời gian lịch sử”. Một tập sách đặc biệt sẽ dành cho các tiếp cận từ môn phân tâm học để nghiên cứu ký ức lịch sử, xét lại các tranh cãi trước đây về mối quan hệ giữa phân tâm học và lịch sử, cũng như giới thiệu các công trình nghiên cứu gần đây. Thay vì chỉ đơn giản đưa ra một số góc nhìn từ ngành phân tâm học, vốn có nhiều khả năng được tiếp nhận và vận dụng trong một số khu vực của ngành nghiên cứu lịch sử, tập sách này cũng sẽ kết hợp các nhân sinh quan lịch sử với phân tâm học, chẳng hạn như khám phá ngay chính lịch sử của ngành phân tâm học, cũng như không gian “nhận thức” tiềm ẩn và chuyển giao các vấn đề khoa học và phi khoa học của ký ức lịch sử. Hơn vậy, tập sách cũng sẽ nhấn mạnh đặc biệt đến các dạng thức tổng quát hóa vượt ranh giới (transgenerational) của trí nhớ, về phạm trù của vết thương lòng như khái niệm then chốt trong ngành này, và về các ca nghiên cứu có thể mở hướng cho nhiều nghiên cứu mới. Trong kế hoạch sẽ có một tập hợp các bài viết tập trung đặc biệt vào không gian liên văn hóa của tư duy lịch sử, khái quát hóa các nền văn hóa sử học từ Ai Cập cổ đại cho đến Nhật Bản hiện đại. Với quan điểm khuyến khích nghiên cứu so sánh, tập sách sẽ gồm những bài luận tổng hợp và các ca nghiên cứu được soạn thảo nhằm đưa ra các diễn giải so sánh trên cơ sở các tài liệu cụ thể, cũng như khả năng áp dụng hệ thống lý thuyết đó vào các so sánh mới. Dưới ánh sáng của các thành tựu hiện tại của hệ thống quan điểm thế giới xoay quanh vấn đề sắc tộc (ethnocentrism), tập sách này sẽ tập trung vào câu hỏi là các nghiên cứu văn hóa và xã hội sẽ phản ứng như thế nào trước thách thức này. Mục tiêu sẽ là phản biện lại lối tư duy lấy sắc tộc làm trung tâm bằng cách bắc cầu cho khoảng trống hiện nay giữa quá trình toàn cầu hóa nhanh chóng – thể hiện qua tăng trưởng hơn bao giờ hết về mức độ lệ thuộc kinh tế và chính trị giữa các quốc gia và các châu lục – và mức tăng trưởng tương tự theo chiều thiếu hụt mối thông hiểu qua lại giữa các thể chế văn hóa. Các bài luận sẽ cố gắng chỉ ra sự cần thiết phải liên lạc liên văn hóa [10] cả về cơ sở chung của nhiều nền văn hóa sử, lẫn sự khác biệt giữa chúng. Sự liên lạc này có vẻ không chỉ là có thể, mà còn điều kiện cần đầu tiên cho bất kỳ phép thử nào muốn giảm bớt khoảng cách văn hóa trên bình diện chính trị, bất kể là giữa các quốc gia hay bên trong các xã hội ngày càng đa văn hóa mà chúng ta đang sống. Điểm nhấn đặc biệt của bộ sách về vấn đề khác biệt văn hóa và liên lạc liên văn hóa thể hiện ý đồ của nhóm biên tập muốn vượt khỏi các mối quan tâm nằm trong định chế khoa học. Vấn đề liên lạc liên văn hóa là một thách thức lớn, và cũn là hi vọng lớn cho một công trình nhắm tới một hệ thống lý thuyết chung cho hiện tượng chung về “nhớ lại quá khứ”. Mặc dù trên thực tế “khác biệt văn hóa” từng là cụm từ thường gặp trong thập niên 1990s, đề tài này vẫn còn chứa đựng một mâu thuẫn cũng tương tự như tình hình hiện nay của phạm trù “lịch sử”. Các nước đã công nghiệp hóa gần đây tăng cường can thiệp chính trị và kinh tế vào nghị trình của phần còn lại của thế giới. Về phía mình, các nước đang phát triển cùng các nước cựu hoặc đang cộng sản phải nhận ngày càng nhiều (có lúc bắt buộc) các cơ cấu chính trị và kinh tế hiện đại. Vậy mà quá trình tạm gọi là hữu nghị qua lại trên bình diện chính trị và kinh tế lại đi kèm với mức độ thiếu kiến thức đáng kể, hay thậm chí thiếu cả sự quan tâm, về bối cảnh lịch sử và văn hóa của các quốc gia liên quan. Cho nên, các dạng chính thức đang tồn tại về liên lạc liên văn hóa, vốn thường bị đòi hỏi trong các bàn cãi của dư luận, lại thiếu đúng cái “văn hóa” trong đó, khiến đề tài và các vấn đề được phân tích trong bộ sách này (bản sắc, ký ức, hoạt động văn hóa, lịch sử, tôn giáo, triết học, văn học) nằm ngoài cái đang được liên lạc một cách rõ ràng – như thể các vấn đề đó không ảnh hưởng đáng kể tới các nghị trình chính trị và kinh tế. Tuy vậy, nhìn từ phía còn lại, các tiếp cận phổ biến từ phía các lý thuyết gia trong ngành văn hóa và những triết gia thuộc trường phái phê bình ở phương Tây thường cho rằng nói chung không thể liên lạc liên văn hóa trên một mặt bằng chung về “bản sắc văn hóa” – đặt cơ sở trên giả thiết là không tồn tại một mặt bằng chung như vậy (hiện thực hóa khái niệm “khác biệt”) – hoặc chính trị hóa các khác biệt văn hóa theo cách mà chúng bị hạ thấp xuống mức thuần túy vật chất nhằm xây dựng các vị trí cho đối tượng văn hóa. Mặc dù các hiểu biết tự thân được coi là “phê bình”, các tiếp cận khoa học này lộ ra là có tương ứng với quá trình loại trừ “văn hóa” trên bình diện trao đổi chính trị và kinh tế giữa các quốc gia. Do vậy, lý thuyết về văn hóa có lẽ phản ứng lại quá trình loại trừ văn hóa bằng cách loại trừ chính mình. Bộ sách Making Sense of History này có ý định đối phó với quá trình loại trừ đó bằng cách đưa ra một phương pháp nghiên cứu văn hóa mà trong đó khái niệm “văn hóa” được coi trọng đặc biệt mà không hòa tan nó vào nền chính trị bản sắc hay quá trình hiện thức hóa khái niệm cho rằng không thể bắc cầu cho “các khác biệt”. Cùng lúc công trình cũng nhằm mục tiêu tái giới thiệu phạm trù “lý thuyết lịch sử” không còn tách rời ra khỏi ký ức lịch sử và quá trình ghi nhớ như các hoạt động văn hóa cụ thể nữa, mà tìm cách khám phá các hoạt động đó, diễn giải chúng như các mối nối khác nhau của một nỗ lực toàn diện (nếu đa dạng) để “giải nghĩa lịch sử”. Do đó, bộ sách Making Sense of History cho rằng mỗi đóng góp khoa học cho vấn đề liên lạc liên văn hóa cần mở cửa trở lại với các đối thoại khoa học vào chính bản chất lịch sử (historicity) và bối cảnh văn hóa, cũng như các kiến thức mới về những hoạt động văn hóa khác, nhưng không mang tính hàn lâm, về “hình thành ý nghĩa” như các hình thức cũng quan trọng đối với tư duy của con người (human orientation) và quá trình tự hiểu về bản thân (các hoạt động mà chức năng chung của nó cũng không khác bao nhiêu so với các đóng góp của chính các tư tưởng khoa học). Dạng tuyên ngôn mới cho các thảo luận khoa học hiện đại thể hiện trong nhiều bối cảnh văn hóa, với ý định đặt điểm khởi đầu cho liên lạc liên văn hóa, là một công việc không thể đáp ứng toàn bộ, hay thậm chí chỉ phác thảo, trong một bộ sách vài quyển. Vì vậy, bộ sách Making Sense of History nên được coi là phép thử đầu tiên để vẽ ra lãnh vực nghiên cứu phù hợp với các ý định chung vừa kể: ngành học của “các nền văn hóa lịch sử”. Ý tưởng cho bộ sách này được hình thành trong quá trình nghiên cứu dự án có tên “Giải nghĩa lịch sử: Nghiên cứu liên ngành trong kết cấu học, logic và chức năng của nhận thức lịch sử – Phép so sánh liên văn hóa”, vốn đã kết thúc thành công. Dự án này được thực hiện ở Trung tâm nghiên cứu liên ngành (Zentrum fur interdisziplinare Forschung; ZiF) của Đại học Bielefeld, Đức, trong hai năm 1994–1995. Công trình được giúp đỡ một phần từ Viện nghiên cứu cao cấp về nhân loại ở Essen, thuộc trung tâm khoa học mang tên Northrhine Westfalia (Kulturwissenschaftliches Institut Essen; KWI). Công trình bao gồm một loạt các hội thảo và nhóm thảo luận. Các luận văn được chọn lọc tạo thành sườn chính cho các tập sách trong bộ sách này. Công việc phân loại, biên tập và hoàn chỉnh các bộ sách mất nhiều thời gian mà tập đầu tiên (bản tiếng Anh) vừa được xuất bản năm 2002. Cuộc tranh luận đang tiếp diễn trong ngành nhân văn về các cơ sở của nó và đặc biệt là về vai trò và chức năng của lịch sử không hề thay đổi đã xác nhận tâm điểm của bộ sách là đã đặt ra những vấn đề cơ bản trong cách giải nghĩa của tư duy lịch sử [11] . Bản tiếng Việt © 2008 talawas
[1]Do NXB Bergahn Books xuất bản, trang bìa và giới thiệu sơ lược được trình bày trên trang mạng http://www.berghahnbooks.com/series.php?pg=maki_sens >[2]Nổi bật nhất là quan điểm của triết gia Mỹ gốc Nhật Francis Fukuyama, được trình bày đầu tiên qua essay mang tên The End of History? đăng trên tạp chí chính trị quốc tế The National Interest năm 1989 và sau đó xây dựng lên thành tập sách xuất bản năm 1992: The End of History and the Last Man. Hệ thống lý luận của Fukuyama được nối tiếp từ nền tảng triết học Friedrich Hegel.[3]Mời đọc thêm bài phân tích về mối quan hệ giữa bản sắc cá nhân và bản sắc tập thể từ góc nhìn xã hội học của Jerzy Szacki, Lê Hải dịch: “Bản sắc tập thể hay Bản sắc xã hội của cá nhân”.[4]Trào lưu này của các sử gia Hoa Kỳ cũng có thể dễ dàng ghi nhận qua làn sóng bùng nổ các tập sách giải nghĩa lại lịch sử Việt Nam, đơn cử như: Mark Bradley và Marilyn Young biên tập (2008) Making Sense of the Vietnam wars: Local, National and Transnational Perspectives NXB ĐH Oxford; Hồ Tài Huệ Tâm biên tập (2001) The Country of Memory: Remaking the Past in Late Socialist Vietnam NXB ĐH California; Trần Tuyết Nhung và Anthony Reid biên tập (2006) Vietnam: Borderless Histories NXB ĐH Wisconsin; Duncan McCargo biên tập (2004) Rethingking Vietnam: State, party and political change in Vietnam NXB Routledge... Có thể coi tuyên bố của Keith Taylor (phần nào được giải thích qua bài phỏng vấn dành cho đài BBC, được lưu ở địa chỉ Internet http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2003/09/030912_keithtaylor.shtml) là cột mốc ghi nhận bước ngoặt về lý thuyết sử học khi từ bỏ cách nhìn bản sắc thống nhất mà ông đã từng trình bày trong tập sách (1991) The Birth of Vietnam, NXB ĐH California, hay các sử gia chuyên về Việt Nam cùng thời như David Marr, Emile Durkheim và D.R.Sardesai. Nếu trước kia bản sắc tập thể (bản sắc dân tộc) là một điểm qui chiếu không đổi cho sử gia thì nay bản sắc cũng là một thay đổi mang tính lịch sử theo chiều thời gian, và bản sắc cũng không còn là một khối đơn vị, tự thân tạo thành từ nhiều thành phần khác nhau (ví dụ như phân tích của Amin Maalouf) và mang tính chất khác nhau khi đi từ tầm xã hội xuống từng tập thể và mỗi cá nhân (ví dụ như phân tích của Jerzy Szacki).[5]Lý thuyết gia sử học chịu nhiều ảnh hưởng của phép duy vật biện chứng lịch sử, hiện là giáo sư của ĐH Stanford và ĐH California ở Santa Cruz. GS Hayden White nhận thấy lịch sử luôn là một kịch bản được dựng lại, ít nhiều theo một trong bốn loại hình: chuyện tình, truyện châm biếm, hài kịch và bi kịch. Sử gia không chỉ là người tìm hiểu quá khứ mà còn phần nào tạo dựng ra lịch sử theo một trong bốn hệ tư tưởng được chấp nhận: bảo thủ, tự do, cực đoan và vô chính phủ.[6]Ví dụ như công trình của sử gia Mác-xít Eric Hobsbawm, viết theo ký ức cá nhân hoặc từ góc nhìn không lấy phương Tây làm trung tâm – showFile.php?res=12616&rb=0302[7]Ký ức (memory) là phạm trù đang là tâm điểm tranh cãi và được tìm giải pháp lý thuyết từ nhiều ngành học cùng lúc: triết học, khoa học nhận thức, tâm lý học, nhân học, văn chương, chính trị và xã hội học, cùng các ngành nhỏ và các liên ngành hình thành trong quá trình nghiên cứu một trường hợp cụ thể.[8]Cultural studies: tên ngành học do lý thuyết gia Mác-xít Stuart Hall thành lập ở Anh trong thập niên 1970s và nhanh chóng phát triển trên thế giới, nghên cứu truyền thông và xã hội qua mô hình ngữ pháp và mối quan hệ ngữ nghĩa cùng cốt truyện: showFile.php?res=12761&rb=0104[9]Thời gian không đơn giản là một trục tuyến tính mà trong các ngành khoa học xã hội còn được chia ra thành nhiều dạng thức khác nhau. Ví dụ đơn giản có thời gian thực mà mỗi người sống theo nhịp của môi trường tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, mùa màng... và thời gian do các nghi lễ qui định, du nhập qua tôn giáo hay từ nền văn hóa khác như lịch Tây, đồng hồ và chuông nhà thờ, rằm, Tết và lễ Phật Đản. Thời gian cũng có thể được ghi nhận hoặc thể hiện qua không gian (ví dụ như các công trình xây dựng nối tiếp nhau qua năm tháng), vật chất (ví dụ như thay đổi về chất và lượng của cùng một mặt hàng) hoặc phức tạp hơn là qua cách sắp xếp trình tự (ví dụ theo cốt truyện, theo nhân vật, sự kiện, hay theo thứ tự nào khác) trong ký ức của mỗi cá nhân, hay trong ký ức tập thể được 'vật thể hóa' qua các hoạt động văn hóa như lễ hội. Ví dụ lịch sử hiện đại và hậu hiện đại của Việt Nam đang được một số trường phái ghi nhận thông qua chiều tâm linh, đơn cử như các công trình của: Kwon Heon-ik (2008) Ghosts of War in Vietnam, NXB ĐH Cambridge; Shaun Malarney (2002) Culture, Ritual and Revolution in Vietnam, NXB ĐN Hawaii; Đỗ Thiện (2003) Vietnam Supernaturalism: Views from the Southern Region, NXB Routledge; Nguyễn Thị Hiền và Karen Fjelstad biên tập (2006) Possessed by the Spirits: Mediumship in Contemporary Vietnamese Communities, SEAP; Philip Taylor (2007) Modernity and Re-enchantment: Religion in Post-revolutionary Vietnam, ISAS...[10]‘Intercultural communication’ trong nguyên bản tiếng Anh, là tên của một trường phái trong khoa học và cũng là một chuyên ngành nhỏ, có lúc còn được gọi là cross-cultural communication, ghi nhận và nghiên cứu sự thay đổi khi thông tin được dịch chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Có thể lấy ví dụ cụ thể như các hệ giá trị, khái niệm và tư tưởng phương Tây khi du nhập vào Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20 thường rất khác so với bản gốc vì đã qua hai lần chuyển dịch qua trung gian tiếng (văn hóa) Hán hoặc Nhật. Trong phạm vi bài viết này tác giả muốn đề cập đến độ rơ giữa các khái niệm và hệ thống lý luận cơ sở cùng văn hóa làm nền tảng cho nó, khác nhau không chỉ giữa các quốc gia cùng là phương Tây mà còn có lúc giữa các trường đại học nằm ở các vùng khác nhau trong cùng một quốc gia, những cơ sở khiến người ta hiểu khác nhau khi đề cập tới cùng một khái niệm như lịch sử.[11]Tiếp theo là một paragraph cám ơn những người đã đóng góp vào bộ sách, có chỉnh sửa tùy theo mỗi tập sách. Nội dung trong tập thứ ba cùng biên tập với Jurgen Straub như sau: “Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với các nhân viên của Trung tâm Nghiên cứu Liên ngành tại Đại học Bielefeld, cũng như nhân viên của Viện Nghiên cứu Cao cấp về Các khoa học Nhân văn ở Essen. Tôi cũng muốn cám ơn các biên tập và đồng biên tập của từng tập sách trong bộ sách này, và tất nhiên là tất cả những ai đã đóng góp nỗ lực cùng kiên nhẫn để hoàn thành nó. Cuối cùng, tôi muốn cám ơn bà Angelika Wulff đã giúp quản lý điều hành, và vợ tôi, Inge, đã ủng hộ nhiệt tình bằng cách giúp biên tập bài viết của tôi.” Tập sách thứ 11 về cách diễn tả quốc gia qua lịch sử, truyền thông và nghệ thuật đang được xuất bản vào mùa thu năm nay.

Nguồn: http://books.google.com/books?id=aN75LNV4SLsC&pg=PA1&dq=making+sense+of+history&ei=kecISb_CM4HYtgP8iPmiAg#PPR7,M1

Tưởng nhớ về các bi kịch của dân tộc cũng thiêng liêng như tưởng nhớ về những chiến thắng



D. MEDVEDEV: Hôm nay – Ngày tưởng niệm những nạn nhân của những vụ thanh trừng chính trị. Mười tám năm đã trôi qua kể từ khi ngày này xuất hiện trên cuốn lịch như ngày ghi nhớ.

Tôi tin tưởng vững chắc rằng tưởng nhớ về những bi kịch của dân tộc cũng thiêng liêng không khác gì tưởng nhớ về những chiến thắng. Và điều cực kỳ quan trọng là để cho những người trẻ tuổi nắm được không chỉ là những kiến thức lịch sử, mà còn có được những tình cảm công dân. Họ đã có khả năng xúc cảm chia sẽ một trong những bi kịch khủng khiếp nhất trong lịch sử nước Nga. Còn ở đây không phải tất cả đơn giản như thế.
Hai năm trước đây, các nhà xã hội học đã tiến hành cuộc thăm dò dư luận - hầu như 90 phần trăm những công dân của chúng ta, những thanh niên ở độ tuổi từ 18 đến 24, đã không thể gọi được tên của những người nổi tiếng, những người đã chịu đau khổ hay là đã chết trong những năm ấy vì các cuộc trấn áp. Và, điều này, tất nhiên, không thể không làm chúng ta lo lắng.
Không thể hình dung nổi quy mô của sự đàn áp mà vì nó các dân tộc của đất nước chúng ta đã phải chịu đau khổ. Đỉnh điểm của nó xảy ra vào thời kỳ 1937 – 1938. Alexander Solzhenitsyn đã gọi “potoya” vô tận của những người bị trấn áp vào những năm đó như “dòng sông Volga đau khổ của nhân dân”. Trong suốt hai mươi năm trước chiến tranh một loạt các tầng lớp nhân dân đã bị tiêu diệt. Dân Cazak trên thực tế đã bị thủ tiêu. Những người nông dân đã bị trấn áp đẫm máu và “bị phi phú nông”. Và ngay cả tầng lớp trí thức, cả công nhân và cả sỹ quan đã bị truy tróc về chính trị. Những đại diện của các tôn giáo khác nhau cũng chịu chung cảnh ngộ.
Ngày 30 tháng mười – đó là Ngày tưởng nhớ đến hàng triệu những số phận bi thương. Về những con người đã bị bắn không cần đến tòa án và điều tra, về những con người bị tống vào các trại cải tạo và bị đày ải, mất hết những quyền công dân vì những nghề nghiệp “không phải thế” hay là vì “nguồn gốc xã hội” lừng danh. Nhãn hiệu “ những kẻ thù của nhân dân” và “ những tay sai” của chúng lúc bấy giờ được gán cho hàng loạt các gia đình.
Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ cẩn thận: hàng triệu người chết do bị đàn áp và bị oan sai – hàng triệu người. Họ bị mất tất cả mọi quyền con người. Thậm chí những quyền được mai táng xứng đáng theo cách con người, còn suốt những năm dài tên tuổi của họ đã bị xóa khỏi lịch sử.
Nhưng đến bây giờ có thể nghe rằng vô số những nạn nhân này đã được minh oan bởi những mục đích nhà nước cao cả nào đó.
Tôi tin tuởng vững chắc rằng không thể có sự phát triển nào của đất nước, không thể có những thắng lợi nào của nó, sự tự tôn có thể đạt được bằng cái giá đau khổ và tổn thất của con người.

Không có cái gì có thể đặt cao hơn giá trị mạng sống của con người.
Và không có cái gì có thể biện minh cho những cuộc đàn áp.


Chúng ta đang dành nhiều sự quan tâm cho cuộc đấu tranh với sự xuyên tạc lịch sử của chúng ta. Và không hiểu tại sao đôi lúc chúng ta cho rằng người ta đang nói về việc không thể chấp nhận sự xem xét lại những kết quả của cuộc Chiến tranh Ái quốc Vĩ đại.
Không chấp nhận những biện minh cho những kẻ đã tiêu diệt dân tộc chúng ta dưới dạng khôi phục lại sự bình đẳng của lịch sử cũng không kém phần quan trọng.


Tưởng nhớ những nạn nhân của các cuộc thanh trừng chính trị. Photo AFP

Sự thật là những tội ác của Stalin không làm giảm bớt những công lao của nhân dân đã dành được chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Ái quốc Vĩ đại. Đã làm cho đất nước của chúng ta trở thành một cường quốc công nghiệp hùng mạnh. Đưa nền công nghiệp, khoa học, văn hóa của chúng ta lên tầm quốc tế.
Chấp nhận quá khứ của mình như nó đã tồn tại, - chính trong đó là sự chín muồi của quan điểm công dân.
Việc nghiên cứu quá khứ, vượt qua thái độ thờ ơ và mong muốn quên đi những mặt bi kịch của nó cũng không kém phần quan trọng. Và không một ai, ngoài chính chúng ta, có thể làm việc đó.
Một năm trước, vào tháng chín, tôi đã đến Magada. Đài kỷ niệm Ernst Vô danh “Chiếc mũ sắt đau buồn” đã gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt. Đài kỷ niệm đã được dụng lên không những nhờ vào các nguồn kinh phí của nhà nước, mà còn nhờ vào sự quyên góp.
Chúng ta cần xây dựng những trung tâm bảo tàng-kỷ niệm như thế, những trung tâm sẽ truyền ký ức về những điều đã trải qua - từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dĩ nhiên, công việc tìm kiếm những nơi chôn cất hàng loạt con người , khôi phục tên tuổi của những người đã chết, và trong trường hợp cần thiết - phục hồi danh dự cho họ cũng cần phải được tiếp tục.

Tôi biết rằng đề tài này cũng được những người tham gia blog của tôi quan tâm.

Không thể hiểu được những cội nguồn của rất nhiều vấn đề của chúng ta, những khó khăn của nước Nga hôm nay tách rời khỏi lịch sử phức tạp.

Nhưng một lần nữa tôi mong muốn được nói: không ai ngoài chính chúng ta, có thể giải quyết được những vấn đề của chúng ta. Dạy cho con em chúng ta sự tôn trọng pháp luật, tôn trọng những quyền con người, những giá trị cuộc sống con người, những nguyên tắc đạo đức bắt nguồn trong những truyền thống của dân tộc chúng ta và trong tôn giáo của chúng ta.
.
Không ai, ngoài chính chúng ta, có thể giữ gìn ký ức lịch sử và truyền lại ký ức ấy cho những thế hệ mới. – Kichbu -




Память о национальных трагедиях так же священна, как память о победах


Д.МЕДВЕДЕВ: Сегодня – День памяти жертв политических репрессий. Прошло восемнадцать лет с тех пор, как этот день появился в календаре как памятная дата.
Я убеждён, что память о национальных трагедиях так же священна, как память о победах (Quá tuyệt vời! thế mới đáng mặt chính trị gia lớn!). И чрезвычайно важно, чтобы молодые люди обладали не только историческими знаниями, но и гражданскими чувствами. Были способны эмоционально сопереживать одной из величайших трагедий в истории России. А здесь не всё так просто.
Два года назад социологи провели опрос ¬– почти 90 процентов наших граждан, молодых граждан в возрасте от 18 до 24 лет, не смогли даже назвать фамилии известных людей, которые пострадали или погибли в те годы от репрессий. И это, конечно, не может не тревожить.
Невозможно представить себе размах террора, от которого пострадали все народы страны. Его пик пришёлся на 1937–1938 годы. «Волгой народного горя» называл Александр Солженицын бесконечный «поток» репрессированных в то время. На протяжении двадцати предвоенных лет уничтожались целые слои и сословия нашего народа. Было практически ликвидировано казачество. «Раскулачено» и обескровлено крестьянство. Политическим преследованиям подверглись и интеллигенция, и рабочие, и военные. Подверглись преследованиям представители абсолютно всех религиозных конфессий.
30 октября – это День памяти о миллионах искалеченных судеб. О людях, расстрелянных без суда и без следствия, о людях, отправленных в лагеря и ссылки, лишённых гражданских прав за «не тот» род занятий или за пресловутое «социальное происхождение». Клеймо «врагов народа» и их «пособников» легло тогда на целые семьи.
Давайте только вдумаемся: миллионы людей погибли в результате террора и ложных обвинений – миллионы. Были лишены всех прав. Даже права на достойное человеческое погребение, а долгие годы их имена были просто вычеркнуты из истории.
Но до сих пор можно слышать, что эти многочисленные жертвы были оправданы некими высшими государственными целями.
Я убеждён, что никакое развитие страны, никакие её успехи, амбиции не могут достигаться ценой человеческого горя и потерь.
Ничто не может ставиться выше ценности человеческой жизни.
И репрессиям нет оправданий
.

Мы много внимания уделяем борьбе с фальсификацией нашей истории. И почему-то зачастую считаем, что речь идёт только о недопустимости пересмотра результатов Великой Отечественной войны.
Но не менее важно не допустить под видом восстановления исторической справедливости оправдания тех, кто уничтожал свой народ.
Правда и то, что преступления Сталина не могут умалить подвиги народа, который одержал победу в Великой Отечественной войне. Сделал нашу страну могучей индустриальной державой. Поднял на мировой уровень нашу промышленность, науку, культуру.
Принять своё прошлое таким, какое оно есть, – в этом зрелость гражданской позиции.
Не менее важно изучать прошлое, преодолевать равнодушие и стремление забыть его трагические стороны. И никто, кроме нас самих, этого не сделает.
Год назад, в сентябре, я был в Магадане. Мемориал Эрнста Неизвестного «Маска скорби» произвёл на меня глубокое впечатление. Он ведь был воздвигнут не только на государственные средства, но и на пожертвования.
Нам нужны такие музейно-мемориальные центры, которые будут передавать память о пережитом – из поколения в поколение. Безусловно, должна быть продолжена и работа по поиску мест массовых захоронений, восстановлению имён погибших, а в случае необходимости – их реабилитации.
Я знаю, что эта тема волнует и участников моего блога.
Вне сложной истории, противоречивой по сути истории нашего государства зачастую просто не понять корни многих наших проблем, трудностей сегодняшней России.
Но я ещё раз хотел бы сказать: никто, кроме нас самих, наши проблемы не решит. Не воспитает в детях уважение к закону, уважение к правам человека, к ценности человеческой жизни, к нравственным нормам, которые берут начало в наших национальных традициях и в нашей религии.
Никто, кроме нас самих, не сохранит историческую память и не передаст её новым поколениям.

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

QUẢN LÝ NGUỒN TÀI NGUYÊN VĂN HOÁ ĐƯƠNG ĐẠI

QUẢN LÝ NGUỒN TÀI NGUYÊN VĂN HOÁ ĐƯƠNG ĐẠI
RUTHANN KNUDSON WOODWARD- CLYDE CONSULTANTS WALNUT CREEK, CALIFORNIA
Trong KHẢO CỔ HỌC MỸ: QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI
DAVID J. MELTZER, DON D. FOWLER VÀ JEREMY A. SABLOFF (CB)
NGƯỜI DỊCH: LÂM THỊ MỸ DUNG VÀ CHU HƯƠNG LY

Tài nguyên khảo cổ như là mối quan tâm của Cộng đồng


Quản lý tài nguyên văn hoá (CMR-Cultural Resource Manegement) hơn cả khảo cổ và hơn cả "khảo cổ học cộng đồng" hay "khảo cổ học hợp đồng” (Cleere 1984a, 1984b; Gruber trong cuốn sách này; Lipe 1984; Trigger trong cuốn sách này; cũng xem Workman 1985:1)). Trên thực tế, quản lý tài nguyên văn hoá đang trở nên chuyên nghiệp hơn, điều đó đòi hỏi một hệ thống triết học phù hợp, sự quan tâm hợp lý, giáo dục và kinh nghiệm nghề nghiệp. Các nhà khảo cổ học đã bắt đầu một cách có hiệu quả trong việc tiến tới chuyên nghiệp hoá quản lý nguồn tài nguyên văn hoá từ đầu những năm 1970, nhưng bây giờ nó trở nên phức tạp hơn nhiều, thực tiễn liên ngành nhân học ngày càng rộng hơn. Nhưng có lẽ quan trọng nhất trong quản lý tài nguyên văn hoá là phạm vi, quan điểm chủ yếu giữa những nhà khảo cổ chuyên nghiệp và nghiệp dư về bản chất cộng đồng (public nature) của những nguồn tài nguyên cũng như phương thức nghiên cứu (xem Fowler 1981). Bài viết này trước hết sẽ đề cập tới những vấn đề chung, sau đó là những yếu tố trong thời điểm hiện tại, trong cả tương lai của quản lý nguồn tài nguyên văn hoá và cuối cùng là những trách nhiệm cụ thể, những thời cơ của thực tế khảo cổ trong quản lý nguồn tài nguyên văn hoá.
Ai là người sở hữu những địa điểm khảo cổ? Hoặc những tài liệu về nó một khi chúng được mang đi khỏi những chỗ ấy? Hay những tư liệu lưu giữ thông tin về bối cảnh của địa điểm ? Ai hay cái gì có quyền nói như thế nào về các địa điểm khảo cổ, bao gồm cả thực trạng, thông tin và cả cách nó bị đối xử? Đó có thể là những câu hỏi rất đơn giản nhưng nó lại là những vấn đề cơ bản để chúng ta xem xét dưới góc độ của một nhà khảo cổ mà nó chưa được đề cập thậm chí ở trong phần mở đầu của cuốn sách dành cho những người mới vào nghề (xem Shaer và Ashmore 1985; Thomas 1979).
Câu trả lời phần nào đấy nằm trong sự xác định lịch sử về sở hữu đất đai và đấy là yếu tố quan trọng trong chính trị xã hội của khảo cổ học (Gero và những người khác 1983; Hanen và Kelley 1983; Leone 1981) và trong mối quan hệ giữa khảo cổ học và di sản (Cleere 1984a, 1984b, 1984c; Fowler trong cuốn sách này; Wilson và Loyala 1982). Ở một số quốc gia, nơi mà có sự ràng buộc trực tiếp giữa những người chủ sở hữu đất đai với những người bản địa, những người mà có những tài sản khảo cổ còn lại có thể dùng cho nghiên cứu, người chủ sở hữu những di sản này thì thường xuyên cất giữ để phô trương sự trang trọng cho mình. Ở một số nước khác, đặc biệt là ở Mỹ, nơi mà những điều luật về quyền làm chủ đất đai có sức ảnh hưởng lớn, có sự xuất hiện những xung đột chung nhằm chống lại sự quản lý nguồn tài nguyên khảo cổ.
Nước Mỹ không có những điều luật hợp pháp rõ ràng về chủ sở hữu những nguồn tài nguyên khảo cổ. Đây là một phần kết quả do không có sự kế thừa liên tục giữa cộng đồng chính trị của Hoa Kỳ và những người Mỹ tiền sử (prehistoric Americans (tức người bản địa -ND), như Fowler và Trigger đã từng tranh luận trong tập sách này. Tuy nhiên, có vấn đề trực tiếp hơn gây ra tình trạng khác biệt về lịch sử của Mỹ và Anh từ 200 năm về trước.
Vào cuối những năm 1700, khi những nước Thực dân phát triển hiến pháp và những dự luật về quyền lợi của biên giới quốc gia, nơi mà trước đó không có người Mỹ gốc Âu ( Euro-Americans) ở, vấn đề sở hữu di sản khảo cổ lại không được đề cập tới. Những tài liệu khảo cổ, phần lớn là không được biết đến trong thời điểm đó, gắn với đất đai và không được nhận thức như những giá trị cộng đồng quan trọng. Để chống lại những luật lệ được phát triển từ hệ thống pháp luật phong kiến của Hoàng gia Anh, những điều luật về quyền sử hữu riêng của những người chủ đất đai đã được thiết lập một cách rõ ràng trong Quyền và Luật mới của Mỹ, cái được coi là "Điều luật biết nói" trong Đạo luật bổ sung lần thứ Năm: "... Tài sản riêng sẽ không được dùng làm của chung mà không có sự bồi thường". Đất đai là của riêng, những thắc mắc về vấn đề tài nguyên khảo cổ đã không được đề cập tới, bởi vì những tài liệu khảo cổ đã trở thành tài sản sở hữu riêng.
Ở Canada cũng có những tình trạng giống như ở Mỹ, bởi vì những lý do lịch sử tương tự (Cinq-Mars 1984; Falkner 1977; Janes và Arnold 1983; Sutherland 1983). Nhưng ở Úc, luật pháp chung của Anh được ban bố rộng rãi và Hoàng gia giới hạn tất cả những tài nguyên di sản của những người chủ bao gồm bao gồm cả những tài sản riêng (McKinley và Jones 1979; Pearson và Temple 1984), bởi vì những người chủ này sở hữu tất cả khoáng sản của Hoàng gia. Một tình trạng không được đảm bảo cho những người chủ đất đai đã diễn ra bằng việc thông qua những đạo luật, như là Hiệp định Tài nguyên đất đai Bản xứ (lãnh thổ phía bắc) và Hiệp định Pitjantjara, “người bản xứ thâu tóm toàn bộ những lợi tức đất đai bao gồm cả bề mặt và khoáng sản bao gồm cả nguồn lợi khảo cổ học) trên phần đất mênh mông” (Berndt 1982; Knudson 1985).
Đưa ra “Đạo luật bổ sung lần thứ năm”, đạo luật về vị thế hợp pháp của chính quyền liên bang, nhà nước và địa phương hiện hành về sở hữu địa điểm khảo cổ học ở nước Mỹ hoàn toàn chỉ là sự sở hữu bề mặt. Đây là cơ sở cơ bản của “Đạo luật Cổ vật” năm 1906 (P.L. 59-209, 34 Stat. 437, 16 USC 431-433). Đạo luật này được ban bố tới công chúng ở Phần I và nó đã được áp dụng cho bất kỳ một di tích cổ nào "trên mảnh đất được sở hữu hay quản lý bởi chính phủ Mỹ" (nhấn mạnh thêm) và do đó nó cung cấp cơ sở để đánh giá những thông tin được đưa ra về các vấn đề của những nhà chức trách liên bang (tức là bằng hợp đồng, giấy phép, hay right-of-way).Tuy nhiên, sự áp dụng vị thế hợp pháp hiện nay rất đa dạng, và đây là yếu tố chìa khoá để hiểu được vai trò của chúng ta với tư cách là nhà khảo cổ học ở đất nước này. Nhưng cái ngưỡng hợp pháp kịch tính nhất trong việc quản lý nguồn tài nguyên văn hoá ở nước Mỹ đương đại và tương lai lại không phải là Đạo luật về Cổ vật năm 1906, "Moss-Bennett" (P.L. 93-291, 88 Stat. 174, 16 USC 469), hay Đạo luật về Bảo vệ nguồn Tài nguyên Khảo cổ (P.L. 96-95, 93 Stat. 721, 16 USC 470a), dù cho mỗi chúng đều đóng góp quan trọng vào việc phổ biến giá trị cộng đồng của khảo cổ học. Hơn nữa, “Đạo luật về Chính sách Quốc gia Môi trường (NEPA)” (P.L. 90-190, 83 Stat. 852, 42 USC 4321) đã ban bố việc sử dụng đất và cơ chế quản lý tài nguyên hợp pháp mà không thèm đếm xỉa gì tới khái niệm sở hữu tư nhân. Cả NEPA và cả những đạo luật, những chương trình khác về kế hoạch quản lý nguồn tài nguyên được cho là động lực chính thúc đẩy đằng sau “khảo cổ học CMR,” (Lipe 1978: 143) và khái niệm về bản chất cộng đồng của mọi tài nguyên ẩn đằng sau chúng. Mỗi một người có trách nhiệm trong việc sử dụng và bảo tồn nguồn tài nguyên khảo cổ cần phải hiểu sự thay đổi quan trọng này trong triết học của Mỹ về nguồn tài nguyên của họ. Ngày nay và trong tương lai, nguồn tài nguyên tự nhiên, xã hội và văn hoá của Mỹ đã được thừa nhận như là một phần của tài sản quốc gia và thái độ ứng xử với chúng liên quan đến vấn đề cộng đồng. Điều đó thực sự đúng ngay cả ở trong viễn cảnh quốc tế, nơi mà “sự biến đổi của môi trường quốc tế thể hiện sự thay đổi cơ bản trong nhận thức của con người về cuộc sống trên trái đất”, bao gồm cả “môi trường văn hoá” (Caldwell 1984: 3-4)..
Trong suốt một thế kỷ qua, những nhà khảo cổ có hành lang pháp lý để thông qua những đạo luật khẳng định rằng tài nguyên khảo cổ là một phần của tài sản quốc gia. Rất nhiều những lời mở đầu chung trong những cuốn sách về nhân chủng học hay khảo cổ học giải thích về sự quan trọng của tài nguyên khảo cổ trong việc cung cấp những thông tin cho các giá trị xã hội cộng đồng (xem thêm Beals và những người khác 1975: 16-19, 687-699). Lyon (1982) đã đưa ra kỷ nguyên Hạ thấp thực tiễn khảo cổ học cộng đồng chính yếu (Major Depression-era public archaeological practice). Khái niệm đó đã được nhắc đến trong Đạo luật về Cổ vật năm 1906 và trong đạo luật Nguồn Cứu hộ năm 1960 (P.L. 86-523, 74 Stat. 220, 16 USC 469-469c) cùng với phần được sửa đổi năm 1974, nhưng nó cũng chẳng rõ ràng gì hơn. Và một lần nữa, có thể chính nó là một phần rộng lớn của chức năng của sự không liên tục về di truyền giữa những người bản địa ở khu vực khảo cổ và cộng đồng hiện đại (bao gồm cả những nhà khảo cổ) ủng hộ việc khai quật địa điểm. Trái lại, Đạo luật về những Địa điểm Lịch sử năm 1935 ( P.L. 74-292, 49 Stat. 666, 16 USC 461-467) và Đạo luật Bảo tồn Lịch sử Quốc gia năm 1966 (P.L. 89-665, 80 Stat. 915, 16 USC 470), bao gồm cả bản bảo cáo rõ ràng về hiện trạng chung của những công trình lịch sử ( Uỷ thác Nhà nước (National Trust) về Bảo tồn Lịch sử 1980,1983), ở đây đã nói về tiếp nối văn hoá và mối quan hệ cùng gốc giữa những người bản địa và những người đương đại. Đạo luật về Bảo vệ nguồn Tài nguyên Khảo cổ năm 1979 (P.L. 96-95, 93 Stat. 721, 16 USC 470a) nói rằng "tài nguyên khảo cổ trên đất công hay đất của những người Anhđiêng là một phần không thể thay thế của tài sản Quốc gia" (Phần 2 (a); nhấn mạnh), nhưng nó không được triển khai một cách rõ ràng, trái lại, Đạo luật về Bảo vệ nguồn Tài nguyên Khảo cổ (phần 101, nhấn mạnh) khẳng định rằng
(a)... Đây là chính sách nhất quán của chính phủ Liên bang... để tận dụng mọi cách thức khả thi và giới hạn... nhằm khuyến khích và xúc tiến những phúc lợi chung, để xây dựng và bảo tồn những điều kiện mà trong đó (con người) và tự nhiên có thể tồn tại trong sự hài hoà và đáp ứng những đòi hỏi phát sinh của xã hội, kinh tế và những vấn đề khác từ những thế hệ hiện nay và tương lai của nước Mỹ.
(b)... Đây là trách nhiệm nhất quán của chính phủ Liên bang, trong việc tận dụng mọi phương thức khả thi... để cải thiện, kết hợp những kế hoạch, chức năng, cũng như chương trình của Liên bang, và cuối cùng là nguồn tài nguyên để dân tộc có thể
(1) Thực hiện những trách nhiệm cho mỗi thế hệ chăm sóc môi trường docác thế hệ mai sau uỷ nhiệm .
(2) Bảo đảm cho mọi người Mỹ sự an toàn, lành mạnh, điều hữu ích, vẻ đẹp và văn hoá của môi trường bao quanh.
(3) Đạt được đến trình độ tốt nhất trong việc sử dụng những lợi ích của môi trường mà không gây nên bất kỳ sự suy thoái, sự rủi ro về an toàn sức khoẻ, những rắc rối không ai mong muốn và những hậu quả không trù tính trước nào.
(4) Duy trì những khía cạnh quan trọng của lịch sử, văn hoá, tự nhiên của di sản dân tộc chúng ta và gìn giữ bằng mọi giá một môi trường tạo ra sự đa dạng và phong phú cho sự lựa chọn của mỗi cá nhân.
(5) Đạt được sự cân bằng giữa dân số và sử dụng tài nguyên sẽ cho phép nâng cao chất lượng và tiện nghi cuộc sống; và
(6) Nâng cao khả năng phục hồi nguồn tài nguyên và tiếp cận một cách nhanh chóng trong việc phục hồi, tái chế nguồn tài nguyên đã bị cạn kiệt.
(c) Nghị viện đã nhận ra rằng mỗi một con người nên sống trong môi trường trong lành và phải chịu trách nhiệm góp phần vào việc bảo vệ và nâng cao môi trường.
Đây là những trích dẫn đầy đủ hơn về quản lý những địa điểm khảo cổ dưới một vài đoạn của Đạo luật về Bảo vệ nguồn Tài nguyên Khảo cổ, Đạo luật về bảo vệ nguồn tài nguyên khảo cổ đã được bổ sung năm 1980 (P.L. 96-515, 94 Stat. 2987, 16 USC 470) , và những đạo luận dự kiến, như Quản lý Đất đai Liên bang và Đạo luật Chính sách năm 1977 (FLPMA) (P.L. 94-579, 90 Stat. 2743, 43 USC 1701), và Đạo luật Quốc gia về Quản lý rừng năm 1976 (P.L. 94-588, 90 Stat. 2949, 16 USC 1600), và Kiểm soát Khai khoáng Bề mặt và Đạo luật Khai hoang năm 1977 (P.L. 95-87, 91 Stat. 445, 30 USC 1201 và tiếp theo) mà tất cả chúng đều phải thay đổi để tuân theo những Đạo luật về Bảo vệ Nguồn tài nguyên Khảo cổ, điều đó là kết quả của sự bổ sung chính sách về những giá trị công đồng cho tất cả những địa điểm khảo cổ. Thêm vào đó là sự gia tăng của khảo cổ học lịch sử, lĩnh vực mà ở đó có sự liên tục văn hoá và tông tộc trực tiếp giữa quá khứ và hiện tại, khuyến khích nhận thức của cộng đồng về giá trị . Điều này được củng cố bằng một đoạn văn bản của Nghị quyết Chung của Tự do Tôn giáo Da đỏ Mỹ ( AIRFJR) vào năm 1978 (P.L. 95-341, 92 Stat. 469, 42 USC 1966) (Cơ quan Đặc nhiệm Liên bang năm 1979) và sự gia tăng độ phức tạp chính trị của cộng đồng người Mỹ Bản địa, và sự nhận thức rõ ràng của cộng đồng này về tính tiếp nối giữa cộng đồng hiện tại của họ và những nguồn tài nguyên khảo cổ đã được nghiên cứu ở tại đất nước này (Holmes 1982).
Với tư cách là nhà khảo cổ học, chúng ta đã làm cho những chính trị gia lớn (và bằng sự lôi kéo các cử tri ủng hộ cho họ) tin vào ý nghĩa của nguồn tài nguyên khảo cổ (Knudson 1982). Một khi đã được tin tưởng, việc bổ sung những chính sách như thế không cho phép ai (kể cả những nhà khảo cổ học) đứng ngoài quy trình giải trình cộng đồng nhằm xử lý những nguồn tài nguyên đó.
Theo cách đó, ”có một sự đồng lòng đạo đức sâu rộng rằng sự bảo tồn lâu dài một phần đáng kể quá khứ văn hoá của chúng ta có lợi cho cộng đồng nhân loại” (Knudson 1984: 245-247). Việc quản lý những nguồn tài nguyên văn hoá của chúng ta cần được thực hiện trong bối cảnh của những mục đích cộng đồng đa dạng, và những nhà khảo cổ học cần có một trách nhiệm đạo đức để hành xử đúng mực trong bối cảnh cộng đồng này.
Trong suốt năm mươi năm tiếp đó, hầu hết tiền bạc dành cho khảo cổ học ở mọi nơi trên thế giới đều được đưa đến từ những két bạc cộng đồng, hoặc từ những nhà đầu tư, người mà bị luật pháp yêu cầu đóng góp để phục vụ cho khảo cổ học. Hầu hết những đề án có liên quan tới khảo cổ học sẽ được liên hệ tới những vấn đề cộng đồng lớn hơn và sẽ chia sẻ với “khảo cổ học” ở bối cảnh rộng hơn của “quản lý tài nguyên văn hoá”, và thậm chí rộng hơn nữa trong bối cảnh quy hoạch và quản lý môi trường tài nguyên đa dạng. Công chúng sẽ đòi hỏi rằng tiền bạc phải được sử dụng một cách có hiệu quả, và đòi hỏi một cách rất bình thường rằng công việc khảo cổ cần được thực hiện có hiệu quả, đúng quy cách và công khai những vấn đề phát sinh (xem Keel 1979 về đánh giá tương tự).
Phạm vi của Quản lý Tài nguyên Văn hoá Đương đại
Khái niệm Tài nguyên ”Văn hoá”
Thuật ngữ “quản lý tài nguyên văn hoá” (CMR) được những nhà khảo cổ học nhân chủng học làm việc tại Cơ quan Vườn Quốc gia (NPS) và những cơ quan liên bang khác đưa ra vào đầu những năm 70 (Lindsay và Lipe 1974). Đó là sự phản ứng lại nghĩa rộng của thuật ngữ “khảo cổ học chữa cháy/ khảo cổ học cứu vãn” (Lipe 1978: 121-122; nhưng cũng xem Dunnell 1985; Haag 1985; Haury 1985; Jennings 1985), một sự đáp lại yêu cầu của Đạo luật về Chính sách Môi trường Quốc gia và những phương hướng kế hoạch và quản lý mới khác, một ảnh xạ của kiểu đào tạo khảo cổ học kinh viện truyền thống của thập kỷ 60 và sự phản ứng lại nghĩa vụ quản lý các địa điểm khảo cổ tiền sử trong cộng đồng những người Mỹ bản xứ. Trong suốt thập kỷ sau đó (Dickens và Hill 1978; McGimsey và Davis 1977; Matheny và Berge 1976) thuật ngữ này đã được sử dụng tương ứng với những thuật ngữ "khảo cổ học công chúng", "khảo cổ học hợp đồng” hay "khảo cổ học chính phủ".
Tuy nhiên, trong một vài năm cuối , thuật ngữ này đã hoặc đang bị hàm ẩn trong ý nghĩa rộng rãi của mức độ quan tâm hợp lý, là tất cả các lý do trọng điểm về sự bảo vệ những khía cạnh của văn hoá trong cuộc sống của chúng ta. Ngày nay, ở hầu hết mọi nơi (liên bang, nhà nước, nghiên cứu môi trường địa phương hay dự án nghiên cứu) quản lý tài nguyên văn hoá liên quan tới nhiều thứ và những cách cư xử phản ánh một cách quan trọng nền văn hoá truyền thống của chúng ta, "toàn bộ phức hợp gồm tri thức, niềm tin, hành động, luật pháp, thói quen, những khả năng khác và thói quen đạt được (bởi con người) được xem là những thành viên của xã hội" (Tylor trích dẫn trong Bealss và những người khác 1975: 704). Sự nghiên cứu và niềm yêu thích lớn về ngành nhân chủng học đã làm nền tảng cho sự lựa chọn của thuật ngữ quản lý tài nguyên văn hoá đang được dần trở nên thực tế.
Trong một dãy những sự quan tâm ẩn dưới khối rubic quản lý tài nguyên văn hoá, cấu trúc đánh giá tương tác của môi trường chính là một minh hoạ hữu ích. Hội đồng về qui chuẩn Chất lượng Môi trường phác thảo nên những yêu cầu để Đánh giá Tương tác Môi trường (EIS) định rõ rằng đây là mục quan trọng dưới tiêu đề “Môi trường Nhân tác”, nhưng họ không đưa ra danh sách về chủ đề được đề cập ở trong mục đó. Sau khoảng 15 năm hoạt động EIS đã đề ra các chủ đề chính: chất lượng không khí, địa chất học, đất đai, bề mặt và nước ngầm, những sinh vật sống trong nước và đất, kinh tế xã hội, sử dụng đất và tái tạo, nguồn tài nguyên văn hoá, nguồn tài nguyên sinh vật cổ, nguồn tài nguyên thị giác (visual resources) và âm thanh. “Kinh tế xã hội” là một thuật ngữ bao trùm, nó bao gồm phục vụ xã hội, kinh tế, nhân khẩu học, phúc lợi cộng đồng, và những tương tác biện lý (fiscal impacts). Nó đôi khi còn hàm chứa cả nghĩa tương tác xã hội, chú trọng hơn tới những giá trị văn hoá truyền thống (ví dụ Ban Nội vụ Hoa Kỳ (1983) đánh giá tác động của New Mexico lên những giá trị Navajo truyền thống). “Tài nguyên văn hoá” tới nửa đầu thập kỷ bảy mươi thường bị hạn chế trong việc dùng để chỉ các công trình lịch sử và các địa điểm khảo cổ. Hiện nay khái niệm này thường xuyên được dùng để chỉ:
1. Những nguồn tài nguyên khảo cổ học tiền sử, lịch sử, công nghiệp, thương nghiệp trên đất liền và dưới biển, chú trọng tới những cái đủ tiêu chuẩn được công nhận là Khu bảo tồn lịch sử Quốc gia (36 CFR 800).
2. Những công trình lịch sử, hay kiến trúc, công trình cơ khí (xem Fitz Simons 1968-1973; Johnson 1985; Ban Nội vụ Hoa Kỳ 1981) chính thức (xem Fitch 1982) hay địa phương (xem Brunskill 1982; Glassie 1975; Marshall 1981; Pillsbury và Kardos 1969; Wilson 1984) hay phong cảnh văn hoá (xem Jakle 1980; Jellicoe và Jellicoe1982; Melnịc 1980; Stilgoe 1982), một lần nữa chú trọng tới những cái đủ tiêu chuẩn được công nhận là Khu bảo tồn Lịch sử Quốc gia và đủ điều kiện để đăng ký với Cục Khảo sát Di tích Lịch sử Mỹ (HABS) hoặc HAER).
3. Các giá trị truyền thống hay văn hoá “phi vật thể”, bao gồm cả những tín ngưỡng cổ xưa của người Mỹ theo Đạo luật Tự do Tôn giáo của người da đỏ Châu Mỹ (xem Uỷ ban Oregon về Phúc lợi Anh Điêng 1980), những truyền thống văn hoá dân gian và lịch sử truyền miệng (xem Chambers 1985a; Howell 1981; Huth 1941; McDaniel 1982; Sitton và những người khác 1983).
Giống như những vấn đề về môi trường, những vấn đề về “nguồn tài nguyên văn hoá”, ngày nay được nhắc đến ở hầu hết các khu vực quy hoạch tại khắp nơi trong cả nước. Việc quản lý nguồn tài nguyên văn hoá có thể bị ảnh hưởng bởi những đề án lớn hoặc phụ thuộc vào những kế hoạch quản lý có phần phức tạp, rắc rối, hay bất cứ một loại đề án nào. Nó bị ảnh hưởng bởi vấn đề chuyên môn về thời tiền sử, lịch sử và khảo cổ biển; tìm kiếm thông tin (như Cơ quan Lưu trữ và Ghi chép Quốc gia Mỹ 1974), tài liệu, lời kể, kiến trúc và lịch sử cơ khí (xem Karamanski 1985), nhân học, và những nghiên cứu về đời sống dân gian; cũng như những đặc điểm riêng về vùng, hay về văn hoá. Nguồn tài nguyên văn hoá có tác động đến những kế hoạch đánh giá hay quản lý, bao gồm cả sự đề nghị để tránh bất kỳ một tác động bất lợi nào, cần phải dành riêng một phạm vi tối đa cho những đánh giá có tính thời sự hay nguyên tắc. Một lời đề nghị rằng những đường ống dẫn cần phải di rời để tránh những ảnh hưởng nghiệm trọng có thể xảy ra tại những địa điểm khảo cổ, một lời đề nghị tránh những ảnh hưởng mỹ quan trong việc đặt những phần bảo vệ đường ống dẫn xuyên qua rừng hơn là qua đồng cỏ. Những người đang hành nghề quản lý nguồn tài nguyên văn hoá vì vậy cũng cần phải có sự hiểu biết, sự nhạy cảm tới tất cả những vấn đề về môi trường khác, những vấn đề phải được đề cập trong cách quản lý và các kế hoạch. Hơn nữa, phát triển những kế hoạch chính là kết quả của cách quản lý chắc chắn và hiệu quả trong lịch sử quản lý nguồn tài nguyên văn hoá của chúng ta, những nhà chức trách cần phải quan tâm đến ngân sách, thời gian biểu, nhân viên, hiệu quả liên lạc với người hoạch định chính sách phi khảo cổ học.
Năm 1980, bằng một phần trong Đạo luật Bổ sung về Bảo tồn Lịch sử Quốc gia, Quốc hội đã chỉ thị cho Bộ Nội vụ Mỹ và Thư viện của Trung tâm văn hoá dân gian Mỹ của Quốc hội cần
Trình bày một bản báo cáo tới Tổng thống và Nghị viện trong việc giữ gìn và bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể... Bản báo cáo này sẽ bao gồm cả những lời đề nghị về việc lập pháp và những hoạt động hành chính của chính phủ liên bang nhằm giữ gìn, bảo vệ và khuyến khích mở rộng nhiều lĩnh vực truyền thống lịch sử, dân tộc, và văn hoá dân gian truyền thống làm cơ sở và biểu hiện sống động ở di sản Châu Mỹ chúng ta (P.L. 96-515, mục 502).
Nghiên cứu về bảo tồn văn hoá (Loomir 1983) có thể là xác định thông dụng về “nguồn tài nguyên văn hoá” đối với Chính phủ Liên bang hiện tại và trong tương lai. Nền tảng nhận thức của nó là nhân học, “di sản văn hoá” được dùng để xác định như một tập hợp những tài nguyên, giá trị hữu thể và vô thể, rõ ràng bao gồm cả nguồn tài nguyên lịch sử và khảo cổ. Một định nghĩa tương tự đã được sử dụng trong Hội đồng Nguồn tài nguyên Quốc gia, Uỷ ban Nghiên cứu Môi trường (1982), những dự án nước sạch liên bang cần đến sự đánh giá việc quản lý nguồn tài nguyên văn hoá. Mới gần đây, Uỷ ban Di sản Califonia (1984) đã dùng định nghĩa rộng này về “nguồn tài nguyên di sản văn hoá” để hoạch định những đánh giá có giá trị lâu dài về phương hướng bảo tồn công trình lịch sử quốc gia hay chương trình quản lý tài nguyên văn hoá.
Khái niệm ”Quản lý“
Đạo luật về khảo cổ học của Liên bang (được phát triển từ việc hưởng ứng chương trình giải đáp và sự cố gắng vận động hành lang ở nghị viện của các nhà khảo cổ học) đã có tác dụng, một sự đối phó với việc biến mất dần những nguồn tài nguyên không thể phục hồi. Sự điều chỉnh về dự luật và phương thức tiến hành đã quy định những thói quen của mọi người trong việc sử dụng những tài nguyên đó như thế nào. Chính phủ chưa bao giờ vạch ra một chương trình quốc gia để kiểm kê vị trí của toàn bộ các địa điểm, để có được những ý kiến đánh giá tương đối về cái gì cần được bảo vệ, sử dụng và cái gì có thể phá huỷ mà không cần bảo vệ. Điều này có lẽ phản ảnh một mối bận tâm bên trong trong suốt thế kỷ trước với việc phát triển khảo cổ học như là một nghề nghiệp được thừa nhận với những phương thức nghiên cứu, những phương pháp kỹ thuật, và những nguyên tắc riêng và đạo đức (Wildesen 1984). Điều này cũng thừa nhận, cho đến gần đây, sự thiếu phương thức tiếp cận, thiếu những công cụ để sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia (xem Spaulding 1985: 3070, thiếu quá trình chuyên nghiệp hoá và thiếu những định hướng quan trọng trong việc thăm dò và khai quật khảo cổ (Gero 1985).
Trái lại, Đạo luật Bảo tồn Lịch sử Quốc gia , Chính sách Môi trường Quốc gia và dự luật quản lý sử dụng đất đai đang tiên phong thực hiện, và hướng tới để phát hiện và ước lượng về nguồn tài nguyên để có thể quản lý hữu hiệu hơn. Quản lý là một chính sách quốc gia phổ biến trong việc xử lý ra sao đối với các nguồn tài nguyên văn hoá, chính sách đó đang được bổ sung bởi cơ quan liên bang để đáp lại những phát hiện chung về mặt ý nghĩa và những giá trị lâu dài của nguồn tài nguyên văn hoá. Nhân tố quyết định của nỗ lực quản lý này là sự quy hoạch và Đạo luật Bảo tồn Lịch sử Quốc gia ( Điều 102 (a) (20 trong Đạo luật gốc năm 1966 (Điều 101 (b) (3) trong Điều luật bổ sung năm 1980) yêu cầu rằng mỗi bang cần phát triển “kế hoạch bảo tồn lịch sử toàn liên bang”. Trong mười lăm năm trước, một cơ sở dữ liệu lớn được phát triển. Điều đó nói với chúng ta rằng, bất kỳ địa điểm nào, đã được hay chưa được xác định, và những địa điểm được biết đến với nhiều khả năng có ý nghĩa kỹ thuật, lịch sử hoặc văn hoá xã hội hơn (King 1981). Cơ sở dữ liệu cho phép chúng ta có thể dự báo trước sự phân loại của những giá trị khảo cổ quan trọng, do đó nó làm cho những quyết định của người quản lí có cơ sở hơn. Tất cả những vấn đề đó là nền tảng cho kế hoạch tốt hơn.
Cơ quan Bảo tồn Quốc gia đã chỉ đạo phát triển kế hoạch bảo tồn lịch sử toàn liên bang (Bộ Nội vụ Hoa Kỳ 1980) ; Hội đồng Cố vấn về Bảo tồn Lịch sử (1982) đã phác thảo một bản báo cáo về tình hình quy hoạch, họ tin là cần thiết phải cung cấp một bối cảnh tiến hành hoạch định kế hoạch; Quân đội Mỹ và Cơ quan Bảo tồn Quốc gia gần đây có ký hợp đồng phát triển đề cương về những hoạt động có tính quốc gia hợp với dự án để Quân đội tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý khảo cổ (Knudsson và những người khác 1983). Nhiều những kế hoạch bảo tồn lịch sử bang đã được phác thảo trên khắp cả nước (xem Brown và những người khác 1982; Lyneis 1982; Hội đồng Lịch sử Massachusets 1980). Tất cả những điều đó đã cung cấp cơ sở để quyết định về cách xử lý đối với từng nguồn tài nguyên một cách tổng hợp hơn là xử lý đơn lẻ .
Trách nhiệm và thời cơ của khảo cổ học
Tất cả các nhà khảo cổ chuyên nghiệp hay nghiệp dư đều có trách nhiệm thông báo với mọi người cách xử lý đúng đắn nhất với nguồn tài nguyên khảo cổ (địa điểm, hiện vật, vật, mẫu, dữ kiện, tài liệu ghi chép, báo cáo) có thể cả trong phạm vi giá trị văn hoá khác, chương trình quản lý nguồn tài nguyên khác và cả chính sách hiện tại. Có rất nhiều tranh cãi về những hướng nghiên cứu của các nhà khảo cổ học xung quanh vấn đề phạm vi giàng buộc, quản lý chung (Brose 1985; Keel 1979; Lipe 1978; Knudsson 1979; Portnoy 1978; Mayer Oakes và Portnoy 1979; McGimsey và Davis 1977; Bộ Nội vụ Hoa Kỳ 1985; 24-29), nó bao gồm cả gánh nặng về tiền bạc mà Quỹ Khoa học Quốc gia trả và tiền tư nhân phải chi trả để kiếm được giấy phép triển khai công việc.
Việc xử lý đúng đắn, bao gồm cả trách nhiệm của những nhà khảo cổ chuyên nghiệp tìm hiểu nhu cầu của chi nhánh hay công ty để nghiên cứu giải quyết vấn đề tài chính và bằng sự hiểu biết, để tiến hành và tuân theo hợp đồng rằng khi cần thiết có thể trao đổi trực tiếp. Việc xử lý đúng đắn cũng bao gồm cả trách nhiệm của những nhà khảo cổ trong việc bảo vệ, và nếu có thể để đề cao, giá trị nghiên cứu của những nguồn tài nguyên khảo cổ đến mức có thể, dành riêng để trao đổi với khách hàng về những yêu cầu và điều kiện của họ. Nó cũng bao gồm cả trách nhiệm, đến mức tối đa, khai báo nội dung của những giá trị phát sinh trong những nghiên cứu, tới công chúng dưới hình thức dễ hiểu nhất. Hơn nữa, hình thức ấy cần phải linh hoạt như là thời trang để những nhà khảo cổ nghiệp dư có thể tiến tới hiểu một cách sâu sắc về giá trị chung trong tác động của những vấn đề của xã hội hiện đại tới các khía cạnh lịch sử .
Hiện tại, và cả trong tương lai, quản lý nguồn tài nguyên khảo cổ sẽ nằm trong phạm vi của “ngành quản lý nguồn tài nguyên văn hoá”. Do đó trách nhiệm của những người thực hành khảo cổ là phải quen với những giá trị chuyên nghiệp, nghiệp dư và khách hàng dưới sự che trở của Quản lý Nguồn tài nguyên văn hoá và với tất cả những nội dung liên quan tới tất cả những cách thức quản lý nguồn tài nguyên văn hoá khác, đưa ra phạm vi của hoạt động quản lý nguồn tài nguyên văn hóa. Cùng với những hiểu biết sâu sắc, đưa ra phạm vi chính trị xã hội của khảo cổ học, đó cũng là trách nhiệm của những nhà khảo cổ chuyên nghiệp để tạo mối liên hệ với những hoạt động khác của quản lý nguồn tài nguyên văn hoá.
Tin tức tốt là sự thi hành trách nhiệm luôn kèm theo cả những cơ hội lớn. Điều quan trọng nhất là việc bổ sung thêm nhiều những dữ liệu nghiên cứu từ thập kỷ trước và có khả năng nó sẽ tiếp tục được bổ sung một cách đáng kể. Một ví dụ là những bản tóm tắt về kế hoạch định hướng khảo cổ học đưa ra cho chúng ta những số liệu lớn về các địa điểm, một nhân tố chủ yếu trong việc xác định vị trí một cách rõ ràng hay nghiên cứu phương tiện sinh sống.
Những số liệu đó đem lại rất nhiều cơ hội cho những dự án trợ cấp mang lại những hiệu quả lợi nhuận, sử dụng cho những quỹ nghiên cứu ít ỏi từ Hiệp hội Địa lý Quốc gia thuộc Quỹ Khoa học Quốc gia (Casteel 1980; Yellen và những người khác 1980; Yellen và Greene 1985). Hơn nữa, thu thập và đánh giá những dữ liệu khảo cổ kết hợp với việc thu thập những dữ liệu khác đem lại cơ hội nâng cao hơn tính sâu sắc của những nguyên tắc cho việc nghiên cứu khảo cổ học của chúng ta. Một ví dụ như là một cơ hội đã được sự đánh giá của Cơ quan Đánh giá ảnh hưởng Môi trường EIS về ảnh hưởng của nguồn tài nguyên văn hoá tới địa điểm trong đề án sản xuất về điện (Bộ Nội vụ Hoa Kỹ 1982, 1983). Một ví dụ khác là sự hoàn thiện nguồn tài nguyên văn hoá và chương trình khai thác trong phạm vi của dự án phát triển xây dựng (Knudson 1983).
Các nhà khảo cổ học được huấn luyện cơ bản như là những nhà khoa học xã hội, nếu không đặc biệt như những nhà nhân chủng học hoặc nhà lịch sử học hoặc trong Nghiên cứu Châu Mỹ. Giống như một nhà khảo cổ học được huấn luyện về nhân chủng học, tác giả này nhận ra rằng khảo cổ học trong phạm vi quản lý Nguồn Tài nguyên Văn hoá mang lại sự thực tế hơn cho tiêu chuẩn đào tạo và thực hành về khảo cổ học trong đó nó thúc đẩy những nhà nghiên cứu hiểu và điều khiển một cách có hiệu quả về xã hội, kinh tế và chính trị của những tiểu văn hoá của những đoàn, những sở nơi mà họ phải làm việc: Những công sở của liên bang, những chuyên viên dầu và gas, những cố vấn về công trình và kiến trúc, và những vấn đề khác. Những nhà khảo cổ chuyên nghiệp khác hình như cũng cho rằng nó có thể đúng (Nelsson và Paredes 1985; Opie 1983).
Lipe (1978: 133) đã chú giải rằng trong những phạm vi hiện tại của thực tiễn khảo cổ một trong những điều cần thiết nhất có thể là lời mở đầu của "sự đổi mới hơn". Drucker ( 1985: 67) định nghĩa sự đổi mới "sự nỗ lực tạo ra sự biến đổi quan trọng trong tổ chức kinh tế hoặc tiềm lực xã hội" và giải thích rằng "sự đổi mới có thể được điều khiển một cách có hệ thống - nếu ai đó biết nơi nào hoặc làm thế nào ". Drucker đã thảo luận về sự đổi mới trong phạm vi thương mại của sự phấn đấu cho những thành công trong cạnh tranh, nhưng lại đưa ra phạm vi chung về khảo cổ học cho rằng nhừng người hành nghề khảo cổ đang đấu tranh vì những mục tiêu giống nhau. Phạm vi đó đã đưa ra những trách nhiệm cũng như các cơ hội về ý nghĩa của sự đổi mới. Trong trường hợp đặc biệt, sự cân bằng về những giới hạn trong ngân quỹ của quân đội Mỹ với cái hoàn thành những khái quát về khảo cổ và những kế hoạch quản lý ở nhiều những hệ thống của nó chống lại sự đổi mới vay mượn của những khái niệm từ cách phân tích (Goddard 1984, Keeney và Raiffa 1976) để hoàn thành việc kiểm kê kế hoạch quản lý khảo cổ mà hiện giờ đang dẫn đầu cách quản lý chắc chắn về ý nghĩa thời tiền sử và nguồn tài nguyên khảo cổ lịch sử trong những cơ sở đó (Constance Ramirez 1985, Bộ Quốc phòng, trao đổi cá nhân).
Như Wildesen bình luận tại cuộc mít tinh hàng năm lần thứ 50 của SAA trong khi đọc bài viết này của tác giả:
Điều quan trọng nhất của cuộc hành trình dài, chúng ta phải có một cơ hội để làm nên sự khác biệt. Chúng ta có thể giúp đỡ những người dân hiểu một cách sâu sắc về khoảng cách quá khứ, không như là những nhóm nhỏ có quan tâm đặc biệt, nhưng như là cả một phần trong môi trường tôn giáo, xã hội, chính trị kinh tế đương đại. Bằng sự nhất trí về những trách nhiệm cơ bản của chúng ta, và việc nói về những vấn đề thuận lợi trong những cơ hội rõ ràng của chúng ta, chúng ta có thể giúp đỡ để bảo đảm, bởi vì những chỉ thị của Đạo luật Bảo tồn lịch sử Quốc gia, "rằng cơ sở lịch sử, văn hoá của quốc gia nên được bảo tồn như là những thực thể sống của cuộc sống cộng đồng chúng ta và phát triển để đưa ra những định hướng cho con người Châu Mỹ ".
Lời cảm ơn
Rất nhiều cá nhân đã ủng hộ và đóng góp ý kiến cho bài viết này. Tôi đặc biệt gửi lời cám ơn chân thành tới Leslie Wildensen, người mà năm 1985 tôi đã không thể tham dự buổi họp mặt và thậm chí không cả thảo luận được về bài viết này, đã chịu trách nhiệm về nguồn gốc bản thảo của tài liệu và chuẩn bị giới thiệu cho những ý kiến còn chưa được hoàn chỉnh này được thêm phần hợp lý.
Tôi cũng rất biết ơn Russel G. Handsman và Robert W. Paynter do những đánh giá của họ về ý tưởng và cấu trúc của cả hai vấn đề.

Tài liệu dẫn
Advisory Council on Historic Preservation
1982 Planning in Context (bản thảo), Manuscript on file, Advisory Council on Historic Preservation, Washington, D.C.
Beals, Ralph L., Harry Hoijer vaf Alan R. Beals
1975 An Introduction to Anthropology, 5th edition. MacMilan Publishing Company, Inc., New York.
Berndt, R. M. (editor)
1978 Environmental Protection: Legistation and Programs of the Environmental Protection Agency. Library of Congress, Washington, D.C.
Bosselman, Fred, David Callies and John Banta
1973 The Taking Issue: A Study of the Constitutional Limits of Governmental Authority to Regulate the Use of Privately-owned Land Without Paying Compensation to the Owners. Council on Environmental Quality, Washington, D.C.
Brose, David S.
1983 Good Enough for Government Works? A Study in “Grey Archaeology”. American Anthropologist 87 (2): 370-377.
Brown, Theodore M., Kay L., Killen, Helen Simons, and Virginia Wulfkuhle
1982 Resource Protection Planning Process for Texas. Texas Historical Commission, Austin.
Brunskill, R. W..
1982 Illustrated Handbook of Vernacular Architecture. Faber and Faber, London.
Caldwell, Lynton Keith
1984 International Environmental Policy: Emergence and Dimensions. Duke University Press, Durham.
California Heritage Task Force
1984 California Heritage Task Force, a report to the Legislature and People of California, sacramento, August 1984. Joint Legislative Publications Commission, Sacramento.
Casteel, Richard W.
1980 National Science Foundation Funding of Domestic Archaeology in United States: Where the Money Ain’t. American Antiquity 45 (1): 170-180.
Chambers, Erve (editor)
1985a Practicing Folklore. Practicing Anthropology 1985 (1,2): 4-24.
1985b Social Factors in Federal Environmental Planning, Practicing Anthropology 1985 (1,2):2.
Cinq-Mars, Jasques
1984 A Critique of Rescue Archaeology in the New World: Canada. Presentation at second New Conference on Rescue Archeology, Dallas. Tape recorded, on file with Organization of American States, New York.
Cleere, Henry
1984a ( Editor). Approaches to the Archaeological Heritage; A Comparative Study of World Cultural Resource Management System. Cambridge University Press. Cambridge
1984b World Cultural Resource Manegement: Problems and Perspectives. In Approaches to the Archaeological Heritage; A Comparative Study of World Cultural Resource Management System, edited by Henry Cleere pages 1-11. Cambridge University Press. Cambridge.
1984c (Moderator) The Social and Political Realities of Rescue Archaeology. Presentation at Second New World Conference on Rescue Archaeology, Dallas.Tape recorded, on file with Organization of American States, New York.
Dickens, Roy S., Jr., and Carole E. Hill
1978 Cultural Resource Planning and Management. Westfield Press: Boulder.
Drucker, Peter F.
1985 The Discipline of Innovation. Harvard Business Review 85 (3): 67-72.
Dunnell, Robert C.
1985 Archaeological Survey in the Lower Mississippi Alluvial Valley, 1940-1947: A Landmark Study in American Archaeology. American Antiquity 50(2): 297-300.
Falkner, Ann
1977 Without Our Past? A Handbook for the Preservation of Canada’s Architectural Heritage. University of Toronto Press, in association with the Ministry of State for Urban Affairs and Publishing Centre, Supply and Services, Toronto.
Federal Agencies Task Force
1979 American Indian Religious Freedom Act report, P.L. 95-341. U.S. Department of the Interior, Washington, D.C.
Fitch, James Marston
1982 Historic Preservation: Curatorial Management of the Built World. McGraw-Hill Book Company, New York.
FitzSimons, Neal
1968-1973 Engineer as Historian. Commitee on History and Heritage of American Civil Engineering, American Society of Civil Engineers, Kensington, Maryland.
Fowler, peter J.
1981 Archaeology, the Public and the Sense of the Past. In Our Past Before Us, Why Do We Save It? edited by David Lowenthal and Marcus Binney, pages 56-69. Temple Smith, London.
Gero, Joan M.
1985 Socio-Politics and the Woman-at-Home Ideology. American Antiquity 50(2): 342-350.
Gero, Joan M., David M.Lacy, and Michael L.Blakey (editors)
1983 The Socio-Politics of Archaeology. University of Massachusetts, Department of Anthropology, Research Report 23.
Glassie, Henry
1975 Folk Housing in Middle Virginia. University of Tennessee Press, Knoxville.
Goddard, Haynes C.
1984 An Introduction to Uncertainty Analysis in Environmental Decision Making. The Environmental Professional 6 (2): 172-184.
Haag, William G.
1985 Social and Philosophical Frameworks for Archaeology. In The Socio-Politics of Archaeology, edited by Gero, Joan M., David M.Lacy, and Michael L. Blakey .University of Massachusetts, Department of Anthropology, Research Report 23: 107-117. Amherst.
Haury, Emil W.
1985 Reflections: Fifty Years of Southwestern Archaeology. American Antiquity 50(2): 383-394.
Holmes, Barbara, editor.
1982 American Indian Concerns with Historic Preservation in New Mexico. New Mexico Archaeological Council, Albuquerque.
Howell, Benita J.
1981 A Survey of Folklife along the Big South Fork of the Cumberland River. Department of Anthropology, University of Tennessee Press, Knoxville.
Huth, Hans
1941 Report on the Preservation of Mountain Culture in Great Smoky Mountains National Park. National Park Service, Washington, D.C.
Janes, Robert R., and Charles D. Arnold
1983 Public Archaeology in the Northwest Territories. The Musk-ox 33:42-48.
Jellicoe, Jesse D.
1985 The Landscape of Map, Shaping the Environment from Prehistory to the Present Day. Van Nostrand Reinhold Company, New York.
Jennings, Jesse D.
1985 River Basin Surveys: Origins, Operations, and Results, 1945-1969. American Antiquity 50(2): 281-296.
Johnson, Leland R.
1985 The Davis Island Lock and Dam, 1870-1922. U.S. Army Corps of Engineers, Pittsburgh.
Karamanski, Theodore J.
1985 Logging, History, and the National Forests: A Case Study of Cultural Resource Management. The Public Historian 7 (2): 27-40.
Keel, Bennie C.
1979 A View from Inside. American Antiquity 44 (1): 164-170.
Keeney, Ralph L., and Howard Raiffa
1976 Decisions with Multiple Objectives: Perferences and Value Tradeoffs. John Wiley and Sons, New York.
King, Thomas F.
1981 Historic Preservation and Sociocultural Impacts: A Developing Relationship. Practicing Anthropology 4 (1).
Knudson, Ruthann
1979 Commentary: Management in Historic Preservation. COPA Communication 1979 (March):2. (Committee on Public Archaeology, Society for American Archaeology.)
1982 Basic Principles of Archaeological Resource Management. American Antiquity 47(1): 164-166.
1983 An Archaeological Test of the Lower Fort MacArthur Area (CA-LAN-1129H), West Channel/Cabrillo Beach Recreational Complex, Port of Los Angeles, San Pedro, California. Woodward-Clyde Consultants, Santa Ana, California.
1984 Ethical Decision Making and Participation in the Politics of Archaeology. In Ethics and Values in Archaeology, edited by Ernestene L. Green, pages 243-263. The Free Press, New York.
1985 Book Review, “Aboriginal Sites, Rights and Resource Development” edited by R.M.Berndt. American Anthropologist 87 (2): 457-459.
Knudson, Ruthann, David J. Fee, and Steven E. James
1983
A Work Plan for the Development of Archaeological Overview and Management Plans for Selected U.S. Department of the Army DARCOM Facilities. Woodward-Clyde Consultans, Walnut Creek, California.
Leone. Mark P.
1981 Archaeology’s Relationship to the Present and the Past. In Modern Material Culture: The Archaeology of Us, edited by Richard Gould and Michael Schiffer, pages 5-14. Academic Press, New York.
Lindsay, Alexander J., Jr., and William D.Lipe
1974 Introduction. In Proceedings of the 1974 Cultural Resource Management Conference, Federal Center, Denver, Colorado, edited by William D.Lipe and Alexander J. Lindsay, Jr.. Museum of Northern Arizona, Technical Series 14:vii-xii.
Lipe, William D.
1978 Contracts, Bureaucrats and Research: Some Emerging Problems of Conservation Archaeology in the United States. In Archaeological Essays in Honor of Ivring B. Rouse, edited by Robert C. Dunnell and Edwin S. Hall, Jr., pages 121-147. Mouton Publishers, New York.
1984 Value and Meaning in Cultural Resources. In Approaches to the Archaeological Heritage: A Comparative Study of World Cultural Resource Management Systems, edited by Henry Cleere, pages 1-11. Cambridge University Press. Cambridge.
Loomis, Ormond H (coordinator)
1983 Cultural Conservation: The Protection of Cultural heritage in the United States. Library of Congress, Washington, D.C.
Lyneis, Margaret M. (coordinator)
1982 An Archaeological Element for the Nevada Historic Preservation Plan. University of Nevada, for the Nevada Division of Historic Preservation and archaeology, Las Vegas.
Lyon II, Edwin A.
1982 New Deal Archaeology in the Southeast: WPA, TVA. NPS, 1934-1942. Doctoral dissertation. Louisiana State University, Baton Rouge. (University Microfilms, Ann Arbor.)
Marshall, Howard Wight
1981 American Folk Architecture: A Selected Bibliography. Publications of the American Folklife Center, 9 Library of Congress, Washington, D.C.
Massachusetts Historical Commission
1980 Cultural Resources in Massachusetts: A Model for management. revised edition. Division of State Plans for Grants, Heritage Conservation and Recreation Service, U.S. Department of the Interior, Washington, D.C.
Matheny, Ray T., and Dale I. Berge
1976 Symposium on Dynamics of Cultural Resource management. U.S. Forest Service, Southwestern Region, Archaeological Report 10.
Mayer-Oakes, William J., and Alice W. Portnoy, editors.
1979 Scholars as Contractors, Interagency Archaeological Services Division, Heritage Conservation and Recreation Service, U.S. Department of the Interior, Washington, D.C.
McGimsey III, Charles R., and Hester A. Davis
1977 The Management of Archaeological Resources: The Airlie House Report. Society for American Archaeology, Washington, D.C.
McKinley, J.R., and K.L. Jones (editors)
1979 Archaeological Resource Management in Australia and Oceania. New Zealand Historic Places Trust, Wellington.
Melnicj, Robert Z.
1980 Preserving Cultural and Historic Landscapes. U.S. Department of the Interior, National Park service, Cultural Resources Management Bulletin 3(1): 1-2,6.
National Research Council, Environmental Studies Board
1982 Assessing Cultural Attributes in Planning Water Resources Projects: Report of the Panel on Cultural Attributes in Water Resources Projects. National Research Council. Washington, D.C.
National Trust for Historic Preservation
1980 Preservation: Toward an Ethic in the 1980s. The Preservation Press. Washington, D.C.
1983 With Heritage So Rich. The Preservation Press. Washington, D.C.
Nelson, Hal, and J: Anthony Paredes (editors)
1985 Goverment and Industry, “Any Comments on the Sociology Section, Tony?”: Commitee Work as Applied Anthropology in Fishery Management. Human Organization 44 (2): 177-186.
Opie, John
1983 The Uses of History in the Search for a Common Ground in the Environmental Debate: SOL/QOL values. The Environmental Professional 5 (4): 260-272.
Oregon Commission on Indian Services
1980 American Indian Cultural Resources: A Preservation Handbook. Oregon Commission on Indian Services, Salem.
Pearson, Michael, and helen Temple (editors)
1984 Historical Archaeology and Conservation Philosophy. Heritage Council of New South Wales, Sydney.
Pillsbury, Richard, and Andrew Kardos
1969 A Field Guide to the Folk Architecture of the Northwestern United States. Geography Publications at Dartmouth 8. (Special Edition on Geographical Lore.)
Portnoy, Alice W. (editor)
1978 Scholars as Managers, or How Can the Managers Do It better. Interagency Archaeological Services, Office of Archaeology and Historic Preservation Division, Heritage Conservation and Reaction Service, U.S. Department of the Interior, Washington, D.C.
Sharer, Robert J., and Wendy Ashmore
1985 Fundamentals of Archaeology. The Benjamin/Cummings Publishing Company, Inc., Menlo Park, California.
Sitton, Thad, george L. Mehaffy, and O.L.Davis, Jr.
1983 Oral history: A Guide for Teachers (and Others). University of Texas Press, Austin.
Spaulding. Albert C.
1985 Fifty Years of Theory. American Antiquity 50(2): 301-308.
Stilgoe, John R.
1982 Common Landscape of America, 1580 to 1845. Yale University Press, New Haven.
Stipe, Robert E. (editor)
1980 New Directions in Rural Preservation. U.S. Department of the Interior, Washington, D.C.
Sutherland, Patricia D.
1983 Discussant’s Comments. Northern Archaeology Symposium, Pt. Two: Current Trends. The Musk-ox 33: 92-93.
Thomas, David Hurst
1979 Archaeology. Holt, Rinehart and Winston, New York.
U.S. Department of the Interior.
1980 Resource Protection Planning Process. Division of State Plans and Grants, Heritage Conservation and Recreaction Service, U.S. Department of the Interior, Washington, D.C.
1981 Historic American Engineering Record Field Instructions. National Park Service. U.S. Department of the Interior, Washington, D.C.
1982 Cultural Resources Technical Report for the Environmental Impact Statement on Public Service Company of New Mexico’s Proposed New Mexico Generating Station and Possible New Town. U.S. Department of the Interior, Bureau of Land Management, New Mexico State Office, Santa Fe.
1983 Final Environmental Impact Statement on Public Service Company of New Mexico’s Proposed New Mexico Generating Station and Possible End Uses of the Ute Mountain Land Exchange. New Mexico State Office, Bureau of Land Management, U.S. Department of the Interior, Santa Fe.
1985 A Review of the Unsuitability Criteria in Federal Coal Leasing. Bureau of Land Management, Office of Surface Mining Reclamation and Enforcement, and Fish and Wildlife Service, U.S. Department of the Interior; Forest Service, U.S. Department of Agriculture, Washington, D.C.
U.S. National Archives and Records Service
1974 Guide to the National Archives of the United States. U.S. National Archives and Records Service, General Services Administration, Washington, D.C.
Wildesen, Leslie E.
1984 The Search for an Ethic in Archaeology: An Historical Perspective. In Ethics and Values in Archaeology, edited by Ernestene L. Green, page 3012. The Free Press, New York.
Wilson, Mary
1984 Log Cabin Studies. U.S. Forest Service, Intermountain Region, Cultural Resource Report 9.
Wilson, Rex L., and Gloria Loyola (editors)
1982 Rescue Archeology: Papers from the First New World Conference on Rescue Archaeology. The Preservation Press, Washington, D.C.
Workman, William B., compiler
1985 Cultural Resource management Archaeology in Alaska: Current Status and Future Prospects. Alaska Historical Commission Studies in History 148.
Yellen, John E., and Mary W. Greene
1985 Archaeology and the National Science Foundation. American Antiquity 50(2): 332-341.
Yellen, John E., Mary W. Greene and Richard T. Louttit
1980 A Response to “National Science Foundation Funding of Domestic Archaeology in the United States: Where the Money Ain’t” .American Antiquity 45(1): 180-181.

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2009

Nhiệt đới buồn và "tư duy về kẻ khác"


Tác giả: Linh Thủy

http://tuanvietnam.net/2009-10-28-nhiet-doi-buon-va-tu-duy-ve-ke-khac-
Sự xuất hiện bản tiếng Việt cuốn "Nhiệt đới buồn" đánh dấu một sự kiện quan trọng trong đời sống tinh thần của chúng ta.

"Một sự kiện trong đời sống tinh thần"
Tác phẩm thuộc hàng xuất sắc nhất của Claude Lévi-Strauss - Nhiệt đới buồn, bản tiếng Việt vừa được giới thiệu ra mắt. Trong cuộc trao đổi có tên "Tư duy về những kẻ khác" do NXB Tri thức tổ chức, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc đã coi đây là "sự kiện quan trọng trong đời sống tinh thần của chúng ta".
Tác giả Claude Lévi-Strauss được coi là một trong những nhà nhân học, dân tộc học, một nhà tư tưởng và nhà văn lớn nhất của thế giới trong nửa cuối thế kỷ XX.

Tọa đàm "Nhiệt đới buồn" và Tư duy về những kẻ khác. Ảnh: Phương Loan
Nhiệt đới buồn là tác phẩm hội tụ những tư tưởng triết học, nhân học - một tác phẩm chuyên ngành nhưng lại được viết dưới dạng du ký, mang vẻ đẹp và hương vị của một tác phẩm văn học.
Theo giới thiệu của TS. Olivier Tessier - Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, Nhiệt đới buồn được viết vào lúc danh tiếng hàn lâm của tác giả Claude Lévi-Strauss đã vượt ra khỏi giới hạn riêng của lĩnh vực nhân học. Ông là hình ảnh của một nhà khoa học dấn thân ở tầm quốc gia và quốc tế.
Chẳng hạn, trong cuốn sách của mình, Lévi-Strauss xác định một lý thuyết về "liên minh hôn nhân", ở trung tâm "Lý thuyết cấu trúc về quan hệ họ hàng". Nhận thấy tình trạng phổ biến của việc cấm loạn luân, thay vì tìm cách cắt nghĩa sự thể này, ông coi thực trạng đó chính là cốt lõi của quan hệ họ hàng: vì một người đàn ông không thể cưới một người họ hàng gần của mình, chị em gái hay con gái của mình, nên anh ta đem cho người ấy làm vợ của những người đàn ông khác và ngược lại.
"Cuộc lang thang của một trí tuệ thiên tài mời gọi ta tham gia vào một cuộc hành trình thật sự khai mở trong việc tư duy về những kể khác bằng cách mô tả - như sự đa dạng không cùng của các mối quan hệ có thể có giữa con người với thiên nhiên, đồng thời đưa ra một phán xét không tha thứ đối với những tàn phá do tình trạng nô lệ hóa của chủ nghĩa thực dân ở Ấn Độ và sự đồng nhất hóa về văn hóa do phương Tây áp đặt."

Một trong những điều có thể suy nghiệm từ tác phẩm cho thấy một "sự thật cay đắng": "Sự sản xuất ra một nền văn hóa đại chúng, giống như một nền canh tác độc canh thay thế một cách dữ dằn một đa dạng thực vật, dẫn đến một sự chuẩn mực hóa các kiểu thức và đồng nhất hóa về văn hóa đồng nghĩ với đánh mất bản sắc, sự khác biệt và năng lực sáng tạo, và cuối cùng, là tính nhân văn",
Tác phẩm là "suy tư trăn trở chưa xong của người đã đi tìm đến các dân tộc nguyên thủy để lần lại con đường đi đã đưa nhân loại đến hôm nay, và tự hỏi một cách đau đớn, đồng thời lại vui mừng như một phát hiện cơ bản: chúng ta đã đi đến chỗ gì hơn tình trạng ban đầu, xa hơn 'nơi ta đã cất bước ra đi'", nhà văn Nguyên Ngọc.
Không chỉ có 'Marx kinh điển"
Dịch giả Đỗ Lai Thúy, trong phần giới thiệu về xuất xứ bản thảo cuốn sách (đầu tiên tại Tạp chí Văn hóa - Nghệ Thuật), đã nhận xét: "Quá trình tiếp nhận về cấu trúc luận ở Việt Nam là rất khó khăn".
Ông cho biết: "Trước kia, học giả Nguyễn Từ Chi đã nghiên cứu khá kĩ về lý thuyết nhân học, dự định trình bày trong 7 buổi. Nhưng chỉ đến buổi thứ 2, bài trình bày của ông đã bị lệnh dừng vì bị cho là... học thuyết tư sản".
Theo ông Thuý, "VN vốn chỉ coi trọng một số học thuyết là kinh điển - cơ bản là học thuyết Marx. Tuy nhiên, còn rất nhiều vị "tổ sư" nữa mà chúng ta cần tìm hiểu".
Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhấn mạnh, việc xuất hiện các tác phẩm kinh điển trong điều kiện hiện nay ở nước ta là hết sức cần thiết, phục vụ cho việc nâng cao dân trí.
Cũng phải nói thêm rằng, việc chọn dịch, xuất bản những cuốn sách thuộc hàng kinh điển của thế giới đến độc giả VN là cả một câu chuyện gian nan.
Dịch giả Đỗ Lai Thuý cho biết, Tủ sách "Văn hóa học" hiện cũng chỉ mới ra mắt được 7, 8 tác phẩm. Việc thực hiện "Tủ sách" này hoàn toàn dựa vào việc xoay xở từ những khoản kinh phí khác, và cũng không có tư cách pháp nhân để làm.
GS Chu Hảo - Giám đốc NXB Tri thức cho biết, Quỹ văn hóa Phan Chu Trinh (tên gọi trước là Qũy dịch thuật Phan Chu Trinh) từng đề ra danh mục 500 cuốn sách kinh điển cần dịch, giới thiệu tới độc giả VN. Thực thực tế, mới chỉ làm được vài chục cuốn. Bởi lẽ kinh phí hạn chế, không hề được nhà nước hỗ trợ, khó tìm người dịch tốt.
Với số lượng phát hành mỗi đầu sách từ 500 - 1000 bản, số sách kinh điển thậm chí còn không đủ tới tay các nhà nghiên cứu, chưa dám nói phổ biến rộng khắp cho nhiều độc giả.

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2009

Phỏng vấn ít chính thức

Từ giáo trình [1] ĐH De Montfort,
Lê Hải dịch và chú thích
[...] Những nhà nghiên cứu chọn lựa hình thức phỏng vấn ít chính thức thường quan tâm đến việc tạo ra sự thông hiểu thiên về chất[2] đối với đề tài đang nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là họ sẽ dùng phỏng vấn để có được cái nhìn sâu sắc vào ý nghĩa, diễn giải, giá trị và trải nghiệm của người trả lời phỏng vấn cùng với "thế giới" của người đó. Tiềm ẩn trong phương pháp này là rất nhiều các hiểu ngầm và hệ quả quan trọng mà, đáng để chú ý, có thể phát triển từ, hoặc hơn vậy là song hành, với các phỏng vấn chính thức dùng bảng khảo sát.
Mục tiêu của phỏng vấn ít chính thức.
Các nhà nghiên cứu làm việc với các phỏng vấn ít chính thức tiếp nhận một góc nhìn khác về bản chất của thế giới xã hội mà theo họ, khác với thế giới tự nhiên vì nó được tạo thành chủ yếu là từ ý nghĩa, giá trị và diễn giải. Theo cách nhìn này, con người khác với các vật thể tự nhiên nhờ khả năng biết giải nghĩa hành động của chính mình và của những người khác, phản ứng theo kiến thức của họ và gắn liền cuộc sống và hành động của họ với ý nghĩa (meaning). Những ý nghĩa này không được hiểu như là những thực tại cố định, có thể "đo đếm" được, mà được chủ động tạo dựng và thêm bớt thông qua tương tác xã hội. Nhiệm vụ của người phỏng vấn là tạo ra và thích nghi với những điều kiện mà trong đó người trả lời phỏng vấn sẽ bộc lộ hay "cởi mở" tâm tư hay "chuyện riêng" có liên quan với vấn đề đang nghiên cứu.Theo đó, những ai làm việc với phương pháp này sẽ coi như luôn tồn tại nhiều góc nhìn khác nhau và nhiều chiều trong những người có liên quan đến đề tài hay vấn đề đang nghiên cứu. Các mục tiêu và kỹ thuật phỏng vấn sẽ được áp dụng để giảm bớt những nghi lễ, sự kiểm soát và khoảng cách thường xuất hiện trong kiểu phỏng vấn dùng bảng khảo sát, thay vào đó là loại hình trao đổi, uyển chuyển. Vì vậy phương pháp sẽ đề cao các câu hỏi mở (open-ended) và không trực tiếp, hơn là yêu cầu người trả lời phỏng vấn cung cấp những mảnh thông tin đặc biệt, trả lời những câu hỏi đã cố định sẵn. Người phỏng vấn sẽ không có bảng câu hỏi đặt sẵn, mà chỉ là một danh sách các chủ đề hay điểm cần chú ý và đi theo trong khi thảo luận. Vai trò của người phỏng vấn thường sẽ là bị động, là quá trình nghe chủ động và nhắc nhở, hơn là lo quản lý danh sách câu hỏi cần trả lời.
Loại hình phỏng vấn này cũng thường đi kèm với các loại hình quan sát, mà trong một số trường hợp còn là quan sát có tham gia (participant observation), tức là người phỏng vấn sẽ tham gia các hoạt động hay bối cảnh xã hội (social setting) đang được nghiên cứu. Như vậy các cuộc phỏng vấn sẽ được thực hiện trong bối cảnh và ngữ cảnh "tự nhiên", trong "lãnh thổ" quen thuộc đối với người trả lời phỏng vấn hơn là với người phỏng vấn.
Nói một cách tổng quát thì người phỏng vấn trong phương pháp này sẽ chú ý hơn đến từng cuộc phỏng vấn một - bao gồm cả phần của họ trong đó - và khả năng ảnh hưởng của nó đối với toàn bộ nhữ cận cảnh và dữ liệu thu thập được. Vấn đề này được mô tả bằng khái niệm "phản thân" (reflexivity). Người phỏng vấn sẽ ít đóng vai "kẻ thẩm vấn" mà sẽ thiên về vai "người hướng dẫn" trong cuộc phỏng vấn và trong quá trình "tìm kiếm" qua lại về đề tài đang được nghiên cứu.
Phỏng vấn ít chính thức tương phản với loại hình survey qua các điểm sau:
a. Người phỏng vấn đặt mục tiêu "đi vào bên trong" các ý nghĩa chủ quan và "thế giới" của người được phỏng vấn. Phương pháp này tốn nhiều thời gian hơn, nhưng có khả năng nhận được phản ứng sâu hơn.
b. Cuộc phỏng vấn sẽ ít nghi thức hơn, mở hơn, uyển chuyển hơn và giống cuộc nói chuyện hơn, và sẽ diễn ra trong một bối cảnh tự nhiên hơn.
c. Vai trò của người phỏng vấn và người được phỏng vấn được phân biệt rõ ràng, người phỏng vấn sẽ thay đổi và thích nghi nhiều hơn với người được phỏng vấn trong quá trình khám phá đề tài đang được bàn luận. Trong một số trường hợp thì người được phỏng vấn sẽ là người "đặt nghị trình" hơn là người phỏng vấn.
d. Thay vì tạo ra một danh sách các câu hỏi, người phỏng vấn sẽ dùng chuỗi uyển chuyển các câu hỏi không trực tiếp để kích thích hoặc "lèo lái" người được phỏng vấn vào khu vực đang quan tâm. Do đó, quá trình phỏng vấn sẽ liên tục được nâng cấp.
e. Thông tin ghi lại trong cuộc phỏng vấn sẽ rất khác nhau. Dữ liệu sẽ ít theo kết cấu, ít dự đoán trước và khó áp dụng phương pháp mã hóa và phân tích bằng xác suất thống kê. Cũng khó có thể so sánh dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn khác nhau và dùng các cuộc phỏng vấn làm cơ sở để tổng quát hóa.
Tóm lược
Thế mạnh chủ yếu hay cũng là lợi thế của phương pháp phỏng vấn ít chính thức chính là khả năng thâm nhập sâu và cận cảnh hơn những phương pháp phỏng vấn dùng bảng khảo sát. Sử dụng kỹ năng phỏng vấn ít chính thức, nhà nghiên cứu có thể tiếp cận gần một cách đáng kể đối với ý nghĩa, động cơ, giá trị hay cảm giác của những người đồng ý tham gia cuộc phỏng vấn. Họ có thể "đào sâu hơn" và kết quả của loại hình này thường rất đa dạng về mô tả. Trong khi các cuộc phỏng vấn survey có thể đề cập đến sự tồn tại của một giá trị hay tính chất cụ thể, thì phỏng vấn ít chính thức cho phép nhà nghiên cứu đi thẳng vào trung tâm của vấn đề.Tuy nhiên, thế mạnh đối với một số người lại có thể bị một số người khác coi là điểm yếu. Với các nhà nghiên cứu làm việc với truyền thống survey, các cuộc phỏng vấn không chính thức đáng nghi ngại về nội dung. Đặc biệt là không có bằng chứng hay cơ chế dễ dàng nào để so sánh các câu trả lời, đo đếm hay tổng quát hóa. Để có được "câu chuyện bên trong", cuộc phỏng vấn ít chính thức tạo cơ hội cho sự thiên lệch chủ quan - giá trị của riêng người nghiên cứu hay của người được phỏng vấn - đối với cả hai người tham gia. Thêm vào đó, vì thời gian dài và căng thẳng của cuộc phỏng vấn, thường chỉ phỏng vấn một lượng nhỏ người hơn là so với phương pháp survey. Điều đó ít tạo nổi cơ sở để thực hiện phép tổng quát hóa theo xác suất thống kê. Ngược lại với phương pháp phỏng vấn dùng bảng khảo sát, các phỏng vấn ít chính thức có thể cho chúng ta biết rất nhiều về cá nhân hay ca cụ thể, nhưng lại không thể hiện bao nhiêu về qui luật hay xu hướng. Nhưng ngược lại, điểm mạnh của phỏng vấn ít chính thức cung cấp hình ảnh đầy đủ và hoàn hảo hơn của đề tài.
Cần phải ghi nhớ hai vấn đề ở đây. 1. Trước hết, hai phương pháp phỏng vấn được phát triển để xử lý hai loại câu hỏi và mức độ phân tích khác nhau. Cả hai đều có thế mạnh khi dùng để nghiên cứu các vấn đề và câu hỏi phù hợp. 2. Khác biệt cơ bản của phương pháp định lượng và định tính[3] chính là vấn đề cần được giải quyết ở đây. Câu trả lời đó cho phép nhà nghiên cứu phát triển theo hướng này hay hướng kia. Thứ đến, hai phương pháp phỏng vấn có thể được áp dụng phối hợp trong nghiên cứu. Kỹ thuật phỏng vấn ít chính thức có thể giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển lên thành một bảng khảo sát chính thức, và có thể cung cấp những phương tiện quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo trong một lãnh vực quá phức tạp vượt khỏi giới hạn của survey.Các bước trong phỏng vấn ít chính thứcThực ra không có một phương pháp mẫu nào cho cuộc phỏng vấn ít chính thức. Quá trình phỏng vấn nói chung đòi hỏi phải có một lượng kỹ năng nhất định, kiên nhẫn và tiếp cận nhiều hơn với người được phỏng vấn hơn là trường hợp survey. Các bước tiến hành cũng cần được so sánh với các bước tương tự trong survey[4] và có thể tổng kết thành bốn bước như sau: cụ thể hóa; tiếp xúc; phỏng vấn và phân tích.Cụ thể hóaBước ban đầu, mang tính chuẩn bị này cũng khá giống với những gì đã trình bày trong phần giới thiệu survey. Nó cần định nghĩa chính xác mục tiêu của nghiên cứu, về chuyện tham khảo bất kỳ nguồn thông tin nào khác có liên quan và xác định chung về mục tiêu. Bạn cần cân nhắc toàn bộ cuộc nghiên cứu để cân nhắc việc dùng phương pháp phỏng vấn ít chính thức, và cần cung cấp lý do thuyết phục khi áp dụng đối với đối tượng hay đề tài nghiên cứu. Cần phải định rõ những gì bạn muốn đạt được nhờ sử dụng phương pháp này. Bạn sẽ cần định hình các đề tài và câu hỏi của mình trong điều kiện có thể nhất tại thời điểm này. Cũng cần phải làm một số phỏng vấn thử nghiệm (pilot).
Tiếp xúc
Bạn sẽ phải chọn và liên hệ với những người có nhiều trở thành người được phỏng vấn. Có thể cần phải liên lạc tất cả, hay một lượng người được chọn, từ một nhóm hay địa điểm nhất định, ví dụ như trong một ca nghiên cứu về văn hóa làm việc cụ thể. Điều đó có nghĩa là bạn cần tìm cách liên lạc với nhiều gia đình, những người già, phụ nữ làm việc, các đại diện của những loại người tổng quát. Trong những trường hợp đó bạn sẽ phải thiết lập một điểm liên lạc với những người có nhiều khả năng trở thành người được phỏng vấn sau này. Có thể thực hiện thông qua mạng lưới quan hệ hiện có (ví dụ liên lạc với độc giả của tạp chí thông qua danh sách của nhà phân phối) hay tham gia một sự kiện hay cuộc họp cụ thể nào đó (ví dụ tham gia câu lạc bộ hay nhóm xã hội) để xây dựng quan hệ. Như một phần của quá trình này bạn sẽ phải giới thiệu sơ lược về nghiên cứu của mình và các đề tài bạn muốn bàn thảo trong cuộc phỏng vấn. Nói chung, người phỏng vấn sẽ thích nghi với người được phỏng vấn, và người được phỏng vấn cũng nên có quyền đề nghị nơi gặp. Nhà của họ thường được coi là địa điểm tốt nhất, trừ khi có những yêu cầu đặc biệt nào đó về nơi chốn xảy ra cuộc phỏng vấn theo thiết kế của cuộc nghiên cứu - ở nơi làm việc, trong câu lạc bộ, ở trường v.v.
Phỏng vấn
Hiện có nhiều tranh cãi về cách được coi là hiệu quả nhất khi ghi âm cuộc phỏng vấn ít nghi thức hoặc không chính thức. Các cố gắng tạo ra những loại hình bất nghi thức khác nhau thường bị chuyện ghi âm phá hỏng hoặc ảnh hưởng xấu. Có thể xem thêm chương 23 về các lời khuyên khi ghi âm. Thường thì nên bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách ghi lại tên của người được phỏng vấn và các dữ liệu có liên quan đến dự án. Người được phỏng vấn cũng được bảo đảm về độ bảo mật đối với các câu trả lời của họ và tính chất của cuộc nghiên cứu. Trong cuộc phỏng vấn vô cùng bất chính thức thì cả hai bước đó đều được thay đổi cho phù hợp. Trong một số trường hợp cũng nên nói trước sẽ có bao nhiêu thời gian để bạn có thể chủ động tiến trình phỏng vấn. Nói chung khoảng một giờ đồng hồ là thời gian tối thiểu để có được một cuộc phỏng vấn hiệu quả. Các câu hỏi và nội dung chính cùng chuỗi trình tự nên được chuẩn bị sẵn và cân nhắc từ trước, nhưng các câu hỏi nối tiếp (follow-up) và bàn luận thì không thể có sẵn. Kỹ thuật vòng lặp (looping - phát triển câu hỏi khuyến khích từ chính câu trả lời vừa xong) cũng là kỹ thuật hữu dụng để giữ cho người được phỏng vấn tiếp tục "trôi chảy". Nhiều nhà nghiên cứu đề cao giá trị của các câu hỏi nối tiếp trong trường hợp này.
Phân tích
Khi đã có đủ lượng phỏng vấn cần thiết và tùy thuộc vào phương pháp được sử dụng để ghi lại các cuộc phỏng vấn, bạn sẽ có vô số thông tin và dữ liệu "thô". Nói chung, quá trình phân tích đòi hỏi bạn phải thân thuộc với những thông tin này, "đặt mình" vào các hoàn cảnh khác nhau của những người được phỏng vấn. Như một phần của phương pháp, bạn có thể thấy việc tóm lược mỗi cuộc phỏng vấn sẽ rất hữu dụng, ghi nhận những câu chuyện chính hay các điểm nhất quán trong các vấn đề mà người được phỏng vấn đã đề cập. Báo cáo và diễn giải của những tóm lược đó, thường với trích dẫn và mở rộng đi kèm, sẽ giúp bước cuối cùng trong quá trình viết luận văn. Trong ngữ cảnh của phạm vi nghiên cứu mà bạn đã bắt đầu, những người được phỏng vấn đã nói gì với bạn về đề tài nghiên cứu?
------------------------------------------------------------
[1] Bản gốc tiếng Anh là chương 22 của quyển giáo trình Kỹ năng nghiên cứu cho sinh viên (Research Skills for Students) của De Montfort University (Leceister, Anh quốc), Kogan Page xuất bản năm 1996 (tái bản 1998, 2001) ở London, 128 trang. Tác giả là các giảng viên của trường: Brian Allison, Alun Owen, Arthur Rothwell và Tim O'Sullivan, Carol Saunders, Jenny Rice biên soạn phần về phỏng vấn.[2] (hơn là lượng) qualitative understanding. Trong một thời gian dài phương pháp định lượng (quantitative) chiếm ưu thế và các giáo trình thường giới thiệu phương pháp định tính (qualitative) như phần bổ sung, đối chiếu với các trình bày trước đó về phương pháp định lượng. Đây cũng là trường hợp của giáo trình này. Đoạn văn (thay bằng dấu [...] trong bài dịch ở trên) trước phần này như sau: Chương trước đã nhắc nhở rằng các phỏng vấn chính thức dùng bảng khảo sát (formal survey interview) thường chủ yếu quan tâm đến việc thu thập một lượng lớn dữ liệu thông qua một hệ thống câu hỏi khá chặt chẽ. Cơ sở của phương pháp này thường là nhằm lấy số đo về lượng nếu xét đến trọng tâm nghiên cứu. Ngược lại, các loại hình phỏng vấn ít chính thức được áp dụng khi nhà nghiên cứu muốn bỏ thêm thời gian để phỏng vấn một lượng người nhỏ hơn trong không khí ít trực tiếp, ít máy móc hơn, mà mối quan tâm cũng rất khác nhau.[3] quantitative versus qualitative. Vấn đề cũng được nhiều giáo trình nhắc tới, cũng như phần đầu của chương 12 (trang 70) trong cùng giáo trình này, do Arthur Rothwell biên soạn:Nếu mục tiêu của bạn là biểu diễn kết quả bằng con số thì bạn sẽ lên kế hoạch nghiên cứu định lượng (quantitative). Còn nếu bạn chỉ đơn thuần muốn khám phá xem các yếu tố nào có liên quan trong quá trình tìm hiểu đề tài, không cần biết các yếu tố đó thường xuất hiện như thế nào, thì tức là bạn đang nghiên cứu định tính (qualitative). Khảo sát định tính thường đủ để cung cấp mọi thông tin cần thiết, ví dụ như trong nghiên cứu sự nghiệp thông qua một số ca chọn lọc, hay mô ta xem thay đổi đã được tiến hành như thế nào trong một ngành kinh doanh, thì không cần phải có phân tích số liệu chiếm nhiều thời gian mới đủ tính thuyết phục và hấp dẫn cho công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, thường thì các nghiên cứu định tính được thực hiện như bước loại trừ ban đầu để tiến đến ghi nhận các dữ liệu định lượng. Ví dụ như một bảng câu hỏi định tính có thể dùng để xác định các đề tài quan trọng để lập ra bảng câu hỏi định lượng (quantitative questionnaire). Chắc chắn là đa số các bảng câu hỏi được thiết kế để dùng cho khảo sát định lương, mặc dù chắc chắn cũng có một số được dùng cho phân tích định tính. Nghiên cứu định tính thường dùng các phương pháp thu nhận dữ liệu khác, ví dụ như phỏng vấn và quan sát. Dữ liệu định lượng thường được ghi nhận thông qua các đề nghị lựa chọn trong danh mục có sẵn, dễ phân tích, trong khi bản chất của khảo sát định tính là ngăn dự đoán trước các phạm trù dùng để xếp loại dữ liệu dùng trong phân tích. Do tránh các phức tạo do phân tích xác suất thống kê gây ra mà quá trình phân tích dữ liệu định tính sẽ mất nhiều thời gian hơn rất nhiều.
[4] Được trình bày trong chương trước - chương 21 - của tập giáo trình, cũng chia phỏng vấn survey thành bốn bước tương tự, nhưng mỗi bước lại có những chú ý và mục tiêu khác nhau. Sách có bán trên mạng,