Số phận hẩm hưu của 'An Nam tứ đại khí'
An Nam tứ đại khí là bốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo của nước ta thời Lý, Trần bao gồm: Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng chùa Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh. Mặc dù là những vật quốc bảo song khi rơi vào tay giặc, tứ đại khí cái bị cướp, cái bị phá đi không còn hình dáng ban đầu.
Tháp Báo Thiên có tên gọi đầy đủ là Đại thắng tư thiên bảo tháp, được xây cất vào năm Đinh Dậu (1057) đời Lý Thánh Tông. Tháp cao 20 trượng (khoảng 70 m) và gồm 30 tầng (có tài liệu chép là 12 tầng), nằm trong khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phường Báo Thiên (nay ở vào khoảng bên phải đền Lý Quốc Sư đến đầu phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội) nên còn gọi là tháp Báo Thiên.
Tháp Báo Thiên một thời là biểu tượng sự bền vững của nhà Lý. |
Lý do để tháp được coi là một trong tứ đại khí do có số tầng chẵn biểu thị sự cân bằng, ổn định, tĩnh tại, bền vững như triều đình nhà Lý đầy khí thế, sẽ tồn tại dài lâu. Ngọn tháp đúc bằng đồng khắc ba chữ Đao Ly Thiên tỏ ý tưởng của đấng tối cao xông lên tận trời thẳm. Đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc hứng móc ngọt làm thuốc cho vua; vì thế, được Nho thần danh sĩ miêu tả là: “Trấn áp đông tây cũng đế kỳ/Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy/Sơn hà bất động kình thiên trụ/Kim cổ nan nan lập địa chùng?. Dịch: (Trấn giữ đông tây vững đế kỳ/Tháp cao sừng sững thật uy nghi/Là cột chống trời yên đất nước/Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì”.
Tuy nhiên, trận bão năm Mậu Ngọ (1258) đời Trần Thánh Tông đã làm ngọn tháp này bị đổ! Sau khi được trùng tu, tháp lại bị sét đánh sạt mất hai tầng về góc bên đông vào năm Nhâm Tuất (1322) đời Trần Minh Tông. Đến tháng sáu năm Bính Tuất (1406) đời Hồ Hán Thương (84 năm sau khi được trùng tu lần thứ hai) đỉnh tháp lại bị đổ. Thời thuộc Minh (1414-1427), quân Minh đã cho phá tháp để chế súng. Chỗ tháp bị phá sau đó được đổ đất thành gò cao để dựng đàn tràng.
Chùa Một Cột là nơi chuông Quy Điền được đóng (đóng cái gì?). |
Chuông Quy Điền được đúc trong lần sửa lại chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội) vào tháng hai năm Canh Thân (1080) đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12.000 cân đồng (tương đương với 7,3 tấn đồng bây giờ). Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu ruộng sau chùa.
Vì khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là Quy Điền (ruộng Rùa), nhân đó gọi chuông là chuông Quy Điền. Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế súng đạn, hỏa khí.
Tượng chùa Quỳnh Lâm thuộc chùa Quỳnh Lâm, xã Hà Lôi, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh là một trong những ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất đời Trần. Tương truyền, tượng cao đến 6 trượng (khoảng 20 m). Thời giặc Minh xâm lược nước ta (1407-1427), chùa bị phá hủy, pho tượng bị cướp mang đi. Đầu thời Lê, chùa Quỳnh Lâm được dựng lại, nhưng đến đời Thiệu Trị (1841-1847) lại bị đốt trụi!.
Chùa Phổ Minh nơi nhắc nhở về chiếc Vạc Phổ Minh, một trong tứ đại khí. (Ảnh minh họa) |
Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc.
Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí.
Cũng giống như số phận tứ đại khí, bốn ngôi chùa liên quan cũng có số phận khá buồn. Chùa Quỳnh Lâm bị đốt trụi thời Thiệu Trị, chùa Sùng Khánh thời thuộc Pháp cũng bị phá để xây Nhà thờ Lớn, hiện chỉ còn chùa Diên Hựu (Một Cột) và chùa Phổ Minh.
Blogger Gốc Sậy bình: “Thật quá hẩm hiu khi tấm ảnh được chú thích ‘Tháp Báo Thiên một thời là biểu tượng sự bền vững của nhà Lý‘ lại là tháp Hòa Phong nay vẫn còn đứng ở chếch cửa Bưu điện Hà Nội; ảnh ‘Chùa Phổ Minh nơi nhắc nhở về chiếc Vạc Phổ Minh‘ lại là ảnh chụp chùa Quỳnh Lâm…” http://anhbasam.wordpress.com/
Sao lại chú thích "Chùa Một Cột là nơi chuông Quy Điền được đóng"?
Sao lại chú thích "Chùa Một Cột là nơi chuông Quy Điền được đóng"?
Và trên VIETNAMNET
Những giếng vuông cổ bí ẩn hơn 600 tuổi
- Những giếng nước cổ hơn 600 năm tuổi ở xã Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc không chỉ đặc biệt bởi hình vuông ở miệng giếng mà còn mang những bí ẩn qua các câu chuyện của người dân trong vùng.
Không như giếng ở các vùng nông thôn miền Bắc, những chiếc giếng cổ ở Bá Hiến đều có miệng hình vuông được ghép từ 4 phiến đá hình chữ nhật (còn gọi là tang giếng) với độ sâu từ 4 đến 7m và quanh năm đầy ắp nước.
Từ lâu người dân trong vùng vẫn cho rằng những giếng này do người Trung Quốc làm nên gọi là giếng “Tàu” do trên mỗi giếng nước đều có khắc chữ Hán. Nhưng mới đây ban văn hóa xã có nhờ những chuyên gia Hán - Nôm của tỉnh về dịch nghĩa thì được biết giếng được làm từ thời Hồng Đức, cách đây hơn 600 năm.
Hiện nay còn chừng hơn chục chiếc giếng cổ nằm rải rác chủ yếu ở 4 thôn: Thích Chung, Quang Vinh, Thiện Chi và Bá Hương nhưng không phải chiếc nào cũng nguyên vẹn. Theo các cụ cao niên trong xã thì vì nhiều lý do có những giếng cổ đã bị lấp không còn vết tích. Số khác người dân đã lấp rồi nhưng sau vì các giếng đào mới đều cạn nước vào mùa khô nên lại phải khơi lại giếng cổ luôn đầy ắp nước quanh năm.
Chiếc giếng cổ thuộc cụm đình chùa Giao Sam, thôn Thích Chung vẫn còn gần như nguyên vẹn với hình vuông đặc trưng của miệng giếng. Những hình sóng lượn trên các tấm đá làm tang giếng theo các cụ cao niên của thôn cho biết đó là các dấu tích của việc mài dao kiếm từ hàng trăm năm. Các phiến đá được ghép lại với nhau bằng mộng như đồ mộc qua thời gian hàng trăm năm đã vênh nhau. Những vết dây buộc gàu kéo nước hằn sâu vào các phiến đá làm tang giếng. Theo các chuyên gia Hán – Nôm thì chiếc giếng này có niên đại Hồng Đức 1490. Cứ đến mùa khô, khi các giếng trong các gia đình đều cạn sạch nước thì bà con trong thôn Thích Chung lại ra chiếc giếng cổ này lấy nước. Chiếc giếng cổ này ở thôn Thiện Chi trước đây đã lấp, cách đây 3 năm do khan hiếm nước ở các giếng mới đào, chính quyền thôn khơi lại giếng cổ này nhưng xây bằng gạch với miệng giếng tròn. Tuy nhiên các phiến đá cổ dùng làm tang giếng vẫn được dựng xung quanh sân giếng. Anh Dương Văn Chiến ở thôn Thiện Chi cho biết nhiều người ở nơi khác đến hỏi mua các phiên đá nhưng dân làng kiên quyết không bán vì họ coi nó là hồn cốt của làng. Chiếc giếng cổ nằm trong vườn nhà ông Dương Văn Lại ở thôn Bá Hương vẫn còn được giữ gần như nguyên vẹn. Chị Dương Thị Hà, con dâu ông Lại cho biết chị vẫn hàng ngày dùng nước ở giếng này, vào mùa khô các giếng khác đều cạn người dân trong xóm thường giặt giũ, xin nước ở giếng này. Giống như mọi giếng cổ trong vùng, ở tang giếng cũng được khắc niên đại bằng chữ Hán. Chiếc giếng cổ nằm ven đường làng ở thôn Thiện Chi này không còn dấu tích của chiếc giếng cổ. Được chính quyền thôn khơi lại sau nhiều năm đã lấp để giải quyết tình trạng thiếu nước vào mùa khô và hoàn toàn xây bằng gạch. Theo người dân trong thôn thì các phiến đá làm tang giếng cổ vẫn chìm sâu dưới lòng giếng. Nằm ven đường làng thuộc thôn Thích Chung, chiếc giếng cổ này cũng được khơi lại sau nhiều năm bị lấp vùi. Chiếc giếng vẫn được “phục chế” theo dáng cũ, miệng vẫn vuông nhưng xây bằng gạch. |
Một chiếc giếng ven đường làng đã bị lấp từ lâu vẫn còn lại phiến đá làm tang giếng “Trơ gan cùng tuế nguyệt”. Các cụ cao niên trong vùng cho biết các giếng cổ đồng loạt bị lấp trong thời kỳ vận động xã viên vào hợp tác xã vì cho rằng đó là tàn tích của chế độ phong kiến. |
blogger Gốc sậy bình: “Trình độ của các PV Văn hóa (và cả BBT) bây giờ thật đáng báo động. Ngoài chuyện ảnh trong bài về Tứ đại khi của Đất Việt còn là chuyên ‘Những giếng vuông cổ bí ẩn hơn 600 tuổi’. Nhà cháu đã đến khảo sát hệ thống giếng này. Đọc hết chả thấy BÍ ẨN ở đâu. Có nhẽ cho thêm phần ly kỳ và rùng rợn PV bịa chuyện ‘giếng ‘Tàu’ và ‘các dấu tích của việc mài dao kiếm từ hàng trăm năm.’ Dân làng từ xưa chỉ biết quốc ngữ hay sao mà phải nhờ chuyên gia Hán Nôm mới đọc được chữ khắc ở thành giếng? Còn các vệt mòn trên miệng giếng đều là vết dây gầu, dao kiếm nào? Bậy bạ nhất là dùng Dân trong vùng và các cụ cao niên làm ‘bình phong’. Nhà cháu đã phản hồi ở VNN đề nghị sửa mà vẫn chưa hết bức xúc nên phải xả tiếp.”
Lạy giời..
Trả lờiXóaÔi bức ảnh của Đất Việt.
Còn VNN thì không muốn bàn nữa, toàn vống lên mấy chuyện ma mãnh, ly kỳ rởm.
Thế đấy, thế đấy!
Trả lờiXóa