Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

Sơ khảo về nền văn minh và nghệ thuật kiến trúc của vương quốc Champa

Trần Kỳ Phương

I. Tìm hiểu về nền văn minh Champa
Vấn đề hình thành vương quốc Champa: Khái niệm cấu trúc vương quốc theo mô hình các tiểu vương quốc
Cho đến những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng, việc tìm hiểu lịch sử của vương quốc cổ Champa quả là khó khăn và phức tạp. Trong những công trình cập nhật nhất, các nhà nghiên cứu có thẩm quyền trên lĩnh vực này đều nhận định rằng, sở dĩ có tình trạng trên là vì những tài liệu liên quan đến vương quốc cổ này chủ yếu là dựa vào những ghi chép rất rời rạc và mơ hồ của Trung Hoa hay của Việt Nam về vùng đất mà vương quốc này đã được thiết lập tại miền Trung Việt Nam; hoặc dựa vào những minh văn Champa đã được tìm thấy, mà, phần lớn đều không có niên đại chính xác..

Cũng dựa theo sử liệu Trung Hoa, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, năm 192/3, vì không chịu được sự cai trị hà khắc của quan lại nhà Hán nên nhân dân huyện Tượng Lâm đã nổi dậy giết huyện lịnh giành lấy chủ quyền và thành lập một quốc gia độc lập. Người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Khu Liên hay Khu Lân được nhân dân tôn lên làm vua .

Về địa bàn của cuộc khởi nghĩa này, đến nay vẫn còn nhiều tranh luận, tựu chung, có hai luận điểm cần được quan tâm, đó là:
(1) cuộc khởi nghĩa đã dẩn tới sư ra đời của nước Lâm ấp, vào khoảng năm 192/3, đã xảy ra trong miền đất mằm giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân, tại một địa điểm quanh vùng Huế ngày nay, rồi về sau, trong khoảng từ thế kỷ thứ 4, vương quốc này lớn mạnh và thôn tính dần các tiểu quốc đã chịu ấn Độ hoá ở phía nam đèo Hải Vân và nó được đổi tên thành Champa vào khoảng thế kỷ thứ 7 ;
(2) địa bàn chính của cuộc khởi nghĩa là tại huyện Tượng Lâm nằm trong vùng Trà Kiệu, tỉnh Quảng Nam, nơi có nhiều di tích nghệ thuật và chứng cứ khảo cổ học, nhất là dựa trên kết quả của những cuộc khai quật khảo cổ học trong những năm gần đây cũng như trong so sánh với những cứ liệu về địa-lịch sử của khu vực này .

Vương quốc nhỏ mới thành lập này đã được nhiều thư tịch cổ Trung Hoa và Việt Nam đề cập đến bằng nhiều danh hiệu khác nhau như Lâm ấp (khoảng 192-758 ), rồi Hoàn Vương (khoảng 758-866), và cuối cùng là Chiêm Thành (từ khoảng 866-1471). Danh hiệu Chiêm Thành là một phiên âm và dịch nghĩa của từ Champàpura nghĩa là thành phố của Champa /Chàm .
Thật ra, danh hiệu Champa đã xuất hiện trong văn bia Chàm từ năm 658/657; và trong văn bia Khmer vào năm 668 .

Do tiếp xúc với nền văn minh ấn Độ rất sớm bằng con đường hải thương, nên vương quốc Champà, tương tự như các vương quốc cổ khác ở Đông Nam á đương thời, có thể đã áp dụng một cơ cấu chính trị như những vương quốc ở miền Nam ấn Độ, nghĩa là trong một vương quốc có nhiều tiểu vương quốc được liên kết lại với nhau, mỗi tiểu vương quốc được gọi là mandala .

Lãnh thổ của vương quốc Champà được thảo luận là trải dài từ phía nam đèo Ngang thuộc tỉnh Quảng Bình đến lưu vực sông Đồng Nai thuộc tỉnh Đồng Nai ngày nay (khoảng từ vĩ tuyến 11 đến 18 ) bao gồm các bình nguyên trên miền duyên hải, đó là một dãi đất hẹp nằm ép sát giữa dãy Trường Sơn và biển Đông, bị chia cắt thành nhiều vùng nhỏ bởi các ngọn đèo; nhưng, cũng có ý kiến cho rằng lãnh thổ của vương quốc này bao gồm cả vùng cao nguyên và miền núi Trung phần .

Trong so sánh với những khảo sát từ địa lý miền Trung Việt Nam, có thể giả định rằng mỗi tiểu vương quốc/mandala được thiết lập trên địa bàn này, đã dựa vào năm yếu tố phong thủy như: (1) Núi Thiêng (tượng trưng thần Siva); (2) Sông Thiêng (tượng trưng nữ thần Ganga, vợ thần Siva); (3) Cửa Biển Thiêng (cảng-thị, nơi trao đổi hàng hoá, mậu dịch hải thương, là trung tâm kinh tế); (4) Thành Phố Thiêng/Hoàng Thành (nơi cư ngụ của vua và hoàng tộc hoặc lãnh chúa, là trung tâm vương quyền); (5) Đất Thiêng/Thánh Đô (nơi thờ tự thần linh và tổ tiên, là trung tâm tín ngưỡng) .

Chẳng hạn, tiểu quốc Amaravati, ở vùng Quảng Nam ngày nay, được hình thành dựa trên năm yếu tố sau:
1) Núi Thiêng là Mahaparvata/Đại Sơn Thần/Thần Siva hay núi Mỹ Sơn/Răng Mèo;
2) Sông Thiêng là sông Thu Bồn;
3) Cửa Biển Thiêng/Cảng-Thị là vùng Cửa Đại/Hội An;
4) Thành Phố Thiêng/Hoàng Thành là Simhapura/Thành Sư Tử tại Trà Kiệu;
5) Đất Thiêng/Thánh Đô là Srisanabhadresvara tại Mỹ Sơn.
Ranh giới của mỗi tiểu vương quốc, có thể, được phân biệt bởi những ngọn đèo; tuy nhiên, đây cũng chỉ là một ranh giới tạm thời và có tính chất tượng trưng, vì, đất đai được cai quản bởi thần linh theo tín ngưỡng ấn Độ giáo.

Theo đó, trong vương quốc Champà có ít nhất là năm (?) tiểu vương quốc từng được nhắc đến trong văn bia Champa, so sánh với địa hình miền Trung, có thể bao gồm các vùng sau đây:
1. Châu Ulik/Ô Lý/ hoặc Indrapura (?): Gồm khu vực từ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, nằm giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân ngày nay; dựa theo các giòng sông chính là sông Gianh, sông Nhật Lệ, sông Thạch Hãn, sông Bồ, sông Hương, và đặc biệt hệ thống đầm phá Tam Giang, để thiết lập các cảng-thị ;
2. Châu Amaravati: Gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi nằm giữa đèo Hải Vân và đèo Bình Đê (?); dựa theo các giòng sông chính là sông Hàn, sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ, sông Châu ổ, sông Trà Khúc... để thiết lập các cảng-thị;
3. Châu Vijaya: Gồm Bình Định, Phú Yên nằm giữa đèo Bình Đê (?) và đèo Cù Mông hoặc đèo Cả (?); dựa theo các giòng sông chính là sông Côn và sông Ba để thiết lập các cảng-thị;
4. Châu Kauthara: Gồm Khánh Hòa phía nam đèo Cả đến núi Đồng Bò (?) gần Cam Ranh; dựa theo giòng sông Cái ở Nha Trang để thiết lập cảng-thị;
5. Châu Panduranga: Gồm Ninh Thuận, Bình Thuận từ núi Đồng Bò (?) đến lưu vực Đồng Nai; dựa theo các giòng sông chính là sông Dinh, sông Lòng Sông, sông Cà Ty để thiết lập các cảng-thị .

Mỗi tiểu vương quốc có kinh đô riêng với các tổ chức kinh tế, quân sự độc lập được cai trị bởi các tiểu vương hoặc các lãnh chúa. Mỗi tiểu vương quốc lại gồm nhiều tiểu vùng nhỏ hơn được cai trị bởi các thủ lĩnh địa phương. Các tiểu vương quốc nhỏ yếu phải thần phục tiểu vương quốc lớn mạnh, giàu có hơn. Vị vua hùng mạnh nhất vương quốc được tôn xưng là rajadhiraja nghĩa là vua của vua. Nhiều cứ liệu bằng minh văn và lịch sử đã chứng minh rằng, vương quốc Champa đương thời không áp dụng thể chế 'trung ương tập quyền'; ngược lại, ít nhiều nó được tổ chức theo mô thức 'địa phương cát cứ ', vì mỗi tiểu vương quốc đều có thể chế chính trị tự trị và có quyền ly khai ra khỏi vương quốc để xây dựng lấy một tiểu quốc độc lập .
Do địa thế thuận lợi và phát triển giàu mạnh nên tiểu vương quốc Amaravati, dựa theo sông Thu Bồn ở vùng Quảng Nam ngày nay, đã trở thành trung tâm của vương quốc trong nhiều thế kỷ. Những di tích kiến trúc đền-tháp rất quy mô và phong phú được xây dựng tại đây trong suốt nhiều thế kỷ, từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13, như Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương, v.v. đã chứng minh điều đó.

Theo truyền thuyết, vương quốc Champà được cai trị bởi hai dòng tộc là Cau (Kramuk Vansh), tiếng Chăm gọi là Pinang; và Dừa (Narikel Vansh ), tiếng Chăm gọi là Li-u. Dòng Cau/Trống cai trị miền Bắc (Ulik/Indrapura (?), Amaravati, Vijaya); dòng Dừa/Mái cai trị miền Nam (Kauthara, Panduranga).
Như các tín ngưỡng cổ phổ biến ở Đông Nam á, tín ngưỡng cổ truyền của người Champà/Chàm theo thuyết vũ trụ lưỡng nghi (dualisme cosmologique): mái-trống/mẹ-cha/biển-núi/dừa-cau, tín ngưỡng này đã được dung hòa với các tôn giáo du nhập từ ấn Độ như ấn Độ giáo/Bà-la-môn giáo và Phật giáo để trở thành tín ngưỡng chính của các vương triều Champà.

Hai thánh đô chính của các vương triều Champà là Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang đã phản ảnh rõ nét về tín ngưỡng này.
Vì dựa theo thuyết lưỡng hợp-lưỡng phân, cho nên Mỹ Sơn, thánh đô của miền Bắc vương quốc được tạo dựng để thờ đấng thần-vua/devaraja Bhadres'vara/Cha/Núi/Cau; và Pô Nagar Nha Trang, thánh đô của miền Nam vương quốc, thờ nữ thần Bhavagati/Pô Yan Ina Nagar/Thiên Y-A-Na/ Mẹ/ Biển/ Dừa. Chính vì thế mà Mỹ Sơn được chọn nằm sâu trong một thung lũng kín đáo có núi cao bao bọc; ngược lại, Pô Nagar Nha Trang được xây dựng trên một ngọn đồi đơn độc ven sông sát cửa biển . Có lẽ, sự thống nhất hai mìền của vương quốc Champa đã dựa vào sự hoà hợp có tính tượng trưng này (?!).

Gần đây, các nhà khảo cứu cho rằng, cư dân Champà/Chàm được hình thành bởi nhiều sắc tộc khác nhau thuộc hai nhóm ngôn ngữ Nam Đảo/Austronesian, ngữ hệ Malayo- Polynesian/Mã Lai-Đa Đảo; và Nam á/Austroasiatic, ngữ hệ Môn-Khmer, mà, ngày nay một bộ phận của họ vẫn còn sinh sống ở cao nguyên miền Trung . Trong các sắc tộc này, có thể, người Chăm, một bộ phận nói tiếng Malayo-Polynesian cư trú ở vùng ven biển, là các nhóm tộc người đã điều hành mạng lưới nội thương giữa miền ngược và miền xuôi, chiếm một vai trò chủ thể trong các cộng đồng cư dân Champa/Chàm .

Ngôn ngữ Chăm đã xuất hiện trên một minh văn có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 và các nhà nghiên cứu cho rằng, đương thời, tiếng Chăm đã được xử dụng như một ngôn ngữ hành chánh cho cả vương quốc .

Vai trò quan trọng của mậu dịch hải thương trong nền kinh tế của vương quốc Champa
Quyền lợi kinh tế chính của các vương triều Champà chủ yếu dựa vào nguồn thuế thu nhập từ nội thương và ngoại thương . Nhờ nguồn lợi thu thuế rất dồi dào nên các vương triều Champa đã có thể xây dựng được nhiều công trình kiến trúc tôn giáo đồ sộ mà ngày nay vẫn tồn tại ở miền Trung.
Cư dân Champa/Chàm là những thương nhân giỏi. Dựa theo theo những dòng sông lớn ở miền Trung Việt Nam, họ biết thiết lập một hệ thống trao đổi hàng hóa từ miền xuôi lên miền ngược, một mô hình kinh tế rất phù hợp với địa lý của vùng đất này, giữa cư dân miền biển và miền núi; chẳng hạn, có thể họ đã hình thành một hệ thống nội thương để trao đổi các loại muối, mắm, tôm cá khô, đường mía, vải sợi, đồ gốm, mã não, thuỷ tinh, đồ đồng thau, v.v.. từ miền xuôi để đổi lấy những loại lâm sản quý như: trầm hương, quế, mật ong, hồ tiêu, các loại gia vị, ngà voi, sừng tê ngưu, thú lạ, chim quý, các loại cây gỗ quý, v. v.. của các cư dân miền ngược ; nguồn hàng hiếm quý này được tập trung tại các cảng-thị nơi có hệ thống ngoại thương để trao đổi buôn bán với các thương nhân ấn Độ, ả Rập, Trung Hoa, Nhật Bản, v.v.. Có nhiều cảng-thị lớn được thiết lập tại các cửa biển trọng yếu như cửa Nhật Lệ (Quảng Bình), cửa Việt (Quảng Trị), cửa Tư Hiền (Thừa Thiên-Huế), cửa Đại Chiêm (Hội An, Quảng Nam), cửa Sa Kỳ (Quảng Ngãi), cửa Thị Nại (Quy Nhơn), cửa Nha Trang (Khánh Hoà), cửa Phan Rang (Ninh Thuận), cửa Phan Rí, cửa Phan Thiết (Bình Thuận) . Trầm hương của người Champà được thương nhân ả Rập gọi là Canfì là một món hàng rất qúy hiếm từng làm say mê các thương nhân và quý tộc ở Trung Đông và Đông á .
Về nông nghiệp, người Champa/Chàm chủ yếu trồng lúa nước và các loại nông sản khác như mía, bắp, khoai, sắn, thuốc lá, các loại ngũ cốc, v.v.. trên những cánh đồng ven sông. Họ biết sử dụng thành thạo kỹ thuật thủy lợi để đem nước từ sông vào ruộng bằng những cổ xe nước, mà trước đây vào đầu thế kỷ 20, còn thấy rất phổ biến ở vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi; hoặc một hệ thống những máng nước trên đất đỏ ba-dan như ở vùng Gio Linh, Quảng Trị ; hoặc sử dụng một hệ thống kênh mương quy mô như đập Ya-Trinh ở Ninh Thuận; những hệ thống thuỷ lợi này, ngày nay, vẫn còn để lại nhiều vết tích ở miền Trung Việt Nam. Tuy nhiên, do chỉ có những đồng bằng hẹp ven sông dọc miền duyên hải nên chắc là nền nông nghiệp của Champa đã không thể phát triển mạnh .

Sở hữu một bờ biển dài hơn 1000 km, nên nền hàng hải và ngư nghiệp của Champà rất phát triển. Người Champà/Chàm biết đánh bắt những loại thuỷ sản quý như đồi mồi, ngọc trai, yến sào, vi cá v.v.. để bán sang Trung Hoa ; hoặc sản xuất muối biển trên các cánh đồng muối lớn ven biển mà ngày nay vẫn còn được tiếp tục khai thác tại miền Trung như Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Hòn Khói (Khánh Hoà), Cà Ná (Ninh Thuận) ; chế biến các loại mắm, các loại hải sản phơi khô như cá, tôm, tép, mực, v.v.. cung cấp cho các thương nhân dùng để trao đổi nguồn hàng lâm thổ sản với các cư dân miền núi. Đồng thời, họ cũng là những thủy thủ gan dạ và là những nhà hàng hải tài ba để có thể kiểm soát và giao dịch trên một hải phận rộng lớn bao gồm nhiều hải cảng trọng yếu . Về kỹ thuật hàng hải, người Chàm đã đóng được những loại ghe thuyền có trọng tải lớn có thể đi dài ngày trên biển, kỹ thuật này vẫn còn bảo lưu cho đến cho đến những thập niên đầu thế kỷ trước tại miền Trung Việt Nam .

Người Champa/Chàm cũng biết trồng dâu nuôi tằm và trồng cây cổ bối/kapok/bông gòn để dệt tơ lụa và vải sợi . Họ dệt được một loại sa rất mỏng và nhiều loại vải, lụa có hoa văn tinh xảo mà ta có thể thấy rất phổ biến trên các tác phẩm điêu khắc qua nhiều thế kỷ. Vải sợi của Champa được ưa chuộng tại Trung Hoa trong nhiều thế kỷ . Nghệ thuật dệt vải với các kiểu hoa văn tinh tế và thẩm mỹ cao, ngày nay, vẫn còn được bảo lưu trong các cộng đồng người Chăm ở vùng Phan Rang, Phan Rí cũng như trong các cộng đồng cư dân ở miền Thượng.

Kỹ thuật luyện kim, chế tác vàng bạc và các loại trang sức qúy cũng rất phát triển. Nhiều kiểu trang sức đẹp bằng vàng ngọc được chạm trổ cầu kỳ trên nhiều pho tượng cũng như nhiều bộ trang sức bằng kim loại qúy là đồ tế nhuyễn đã được tìm thấy tại hầu hết các di tích đền-tháp . Vùng đất mà Champa chiếm hữu cũng là vùng đất có nhiều mỏ vàng phong phú vẫn còn được khai thác cho tới ngày nay, chẳng hạn mỏ vàng Bồng Miêu ở Quảng Nam .

Từ sau thế kỷ 11, người Champa/Chàm học được kỹ thuật làm gốm tráng men của Trung Hoa, họ đã xây nhiều lò gốm mà ngày nay còn thấy vết tích quanh vùng thành Chà Bàn ở Bình Định. Đồ gốm tráng men của Champà đương thời được xuất sang các quốc gia ở vùng Đông Nam á và Trung á từ cửa Thị Nại; những lò gốm tại địa phương này đã hoạt động cho mãi đến các thế kỷ 17-18 . Gốm sứ Champa đã đóng vai trò tích cực vào sự phồn thịnh của nền kinh tế Champa tại châu Vijaya trong những thế kỷ này từ thế kỷ 11/12 đến thế kỷ 14/15 , mà, chứng tích của sự phồn vinh ấy chính là những công trình kiến trúc đền-tháp bề thế vẫn tồn tại ở đây như Dương Long, Hưng Thạnh, Bánh ít, Cánh Tiên, Thốc Lốc, v.v..

II. Vài nét về văn hoá, nghệ thuật và tôn giáo
Về mặt nghệ thuật, người Chàm đã xây dựng được nhiều công trình kiến trúc đền-tháp ấn Độ giáo và Phật giáo rất quy mô với một kỹ thuật điêu luyện, tinh xảo; và một nền nghệ thuật tạo hình đầy cá tính trong suốt nhiều thế kỷ. Ngày nay vẫn tồn tại khoảng 24 nhóm đền-tháp bằng gạch nung và sa thạch tại các di tích nổi tiếng như Mỹ Sơn, Đồng Dương, Pô Nagar Nha Trang, Dương Long, v.v.. cùng với hàng ngàn tác phẩm điêu khắc bằng sa thạch và hợp kim trưng bày tại các bảo tàng. Mỹ thuật Champa đã góp phần tạo nên diện mạo độc đáo của nền nghệ thuật Đông Nam á bên cạnh một nền nghệ thuật ấn Độ kỳ vĩ . Về giá trị độc đáo của nền kiến trúc tôn giáo Champa, chúng tôi sẽ luận bàn ở phần sau.

Tôn giáo ấn Độ giáo/Bà-la-môn giáo được truyền bá đến vương quốc Champà vào những thế kỷ đầu Công nguyên bởi các thương nhân ấn Độ. Tôn giáo này dễ được hoà hợp với tín ngữơng đa thần của cư dân bản địa, do đó, giới thương nhân quý tộc Champa đã nhanh chóng chuyển tục thờ những tảng đá tượng trưng cho thổ thần sang tục thờ linga của tín ngưỡng Siva. ấn Độ giáo là tôn giáo của hoàng gia và giới thương nhân quý tộc, vì vậy, vua và hoàng tộc chính là những người bảo trợ để xây dựng đền-tháp dâng cúng thần linh. ấn Độ giáo được xem là cơ sở chính để hình thành vương quốc Champa trên cơ cấu xã hội và thể chế cũng như đời sống tinh thần. Sự hưng thịnh và suy vong của vương quốc này đã bị chi phối mạnh mẽ bởi tư tưởng ấn Độ giáo trong suốt chiều dài lịch sử; cho nên, một vương quốc được xây dựng trên cấu trúc của hệ tư tưởng ấn Độ giáo tất phải bị yếu thế khi nó đối diện với các quốc gia được cấu trúc theo các hệ tư tưởng khác, chẳng hạn Khổng giáo .

Ngôi đền đầu tiên của ấn Độ giáo ở thánh đô Mỹ Sơn dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4/5 để thờ linga của đấng thần-vua Bhadresvara, đây cũng là ngôi đền thờ linga sớm nhất ở vùng Đông Nam á. Hệ phái Saivaite được xem như tín ngưỡng chính của các vương triều Champa với tục thờ thần-vua/devaraja. Những vị thần chính của ấn Độ giáo đều được tôn thờ tại vương quốc này. Hình tượng các vị thần Brahma/Đấng Sáng Tạo; Visnu/Đấng Bảo Tồn; Siva/Đấng Huỷ Diệt và Tái Tạo đã được thể hiện trên nhiều tác phẩm điêu khắc và được ca ngợi trong văn bia Champa qua nhiều thế kỷ. Bên cạnh những vị nam thần, hình tượng các vị nữ thần ấn Độ giáo, như Sarasvati, Laksmi, Parvati, Uma, Durga, v.v.. cũng rất được ngưỡng mộ. Đặc biệt, trong những văn bia quan trọng của Champa thường đề cập đến một vị nữ thần bản xứ, đó là nữ thần Uroja, Bà được ca ngợi là gốc rễ của vương quốc Champa; hình tượng của Bà được thể hiện trên các đài thờ bằng những bộ vú phụ nữ no tròn tượng trưng cho bầu sữa mẹ và nguồn sản sinh trù phú từ đất đai của vương quốc; hình tượng của Bà Chúa Xứ Pô Yan Ina Nagar, theo thần thoại Chăm được sinh ra từ mây trời và bọt biển, Bà là đấng Sáng Tạo nên trần gian, sinh ra gỗ quý, cây cối và lúa gạo.. đã được 'ấn Độ hoá' thành nữ thần Bhagavati thờ tại thánh đô Pô Nagar Nha Trang . Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong quá trình tiếp xúc với ấn Độ giáo, tín ngưỡng Champa đã trải qua ba thời kỳ, đó là: thời kỳ tín ngưỡng bản địa nguyên thủy, thời kỳ tiếp xúc và dung hoá ấn Độ giáo, thời kỳ quay về với tín ngưỡng bản địa .

Văn học Phạn ngữ/Sanskrit đã trở thành nền tảng trí thức của Champa, ít nhất là từ thế kỷ thứ 4/5 cho đến thế kỷ 15, mà có thể được biết rõ qua một hệ thống minh văn thật phong phú . Những bản anh hùng ca nổi tiếng như Ramayana và Mahabharata thường được nhắc đến thường xuyên trong các minh văn tìm thấy ở khắp mọi miền của vương quốc, được ưa chuộng thể hiện thành nhiều hình tượng trong nghệ thuật điêu khắc ; và ngày nay, vẫn còn lưu truyền trong các chuyện cổ dân gian Chăm tại Ninh Thuận và Bình Thuận .

Phật giáo có thể cũng đã truyền đến vương quốc này cùng thời với ấn Độ giáo. Tôn giáo này đã có những hoạt động phong phú tại Champa trong suốt nhiều thế kỷ. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 7 phổ biến hệ phái Tiểu Thừa/Hinayana, pháp sư Nghĩa Tịnh, người Trung Hoa, khi ghé đến Champa vào cuối thế kỷ thứ 7 (671-695), cho biết rằng đương thời hai hệ phái Chính Lượng Bộ/Aryasammitiya và Nhất Thiết Hữu Bộ/Sarvàstivàda được truyền bá tại đây ; từ thế kỷ thứ 8 trở về sau phổ biến hệ phái Đại Thừa/Mahayana ; đặc biệt, tông phái Kim Cương Thừa/Vajrayana đã hoạt động mạnh mẽ trong suốt thế kỷ 9-10 . Các cảng-thị Champa đã từng là nơi dừng chân cho các nhà truyền giáo ấn Độ trên đường đến Đông á và của các tăng sĩ Trung Hoa trên con đường hành hương đến ấn Độ trong nhiều thế kỷ; trong khi chờ đợi gió mùa, các nhà hành hương Trung Hoa đã học chữ Phạn/Sanskrit tại các cảng-thị này trong nhiều năm, trước khi đến thỉnh học kinh điển tại các Phật viện ở ấn Độ hoặc Sri Lanka . Phật viện Đồng Dương ở Thăng Bình, Quảng Nam dựng vào cuối thế kỷ thứ 9 (875) dưới triều vua Indravarman, là một di tích Phật giáo Đại thừa quan trọng nhất ở Đông Nam á. Nhiều tác phẩm điêu khắc Phật giáo bằng sa thạch và bằng đồng thau, hầu hết thể hiện hình tượng đức Bồ-tát Quán Thế Âm đã được tìm thấy phổ biến khắp vương quốc, nhưng tập trung tại miền Bắc; trong đó, phải kể đến hai pho tượng đồng có kích thước lớn tìm thấy tại di tích Đồng Dương, một thể hiện hình tượng đức Phật thuộc thế kỷ thứ 7 và một thể hiện đức Bồ-tát Quán Thế Âm/Laksmindra-Lokesvara thuộc thế kỷ thứ 9, là những kiệt tác của nền điêu khắc Phật giáo á châu .

Hồi giáo cũng đã du nhập vào vương quốc này từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ 8, nhưng chỉ hoạt động bền bỉ khoảng từ thế kỷ 10-11 trở về sau. Có thể Hồi giáo đã truyền đến Champa vào các thời kỳ khác nhau bởi hai đợt quan hệ. Đợt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 8- 9 bởi các thương nhân ả Rập, Ba Tư, ấn Độ, Trung Hoa; trong khi, đợt thứ hai xảy ra vào khoảng thế kỷ 16-17 qua các cuộc giao dịch hải thương với Hồi giáo ở Mã Lai. Đã có những cộng đồng Hồi giáo sinh sống tại các cảng-thị Champa trong nhiều thế kỷ, ngoài những thương nhân, họ còn là thợ thủ công, học giả và các giáo sĩ .

Ngày nay, một bộ phận người Chăm của tiểu quốc Panduranga ở miền Nam vương quốc sống quy tụ quanh vùng Phan Rang, Phan Rí thuộc tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Người Chăm ở đây vừa theo đạo Bà-la-môn, được gọi là Chăm Bà-la-môn; và vừa theo đạo Hồi truyền thống, được gọi là Chăm Bà-ni; và một bộ phận theo Hồi giáo sống ở miền tây Nam bộ. Tổng số người Chăm hiện ở Việt Nam khoảng 100.000 người. Tôn giáo Bà-la- môn đã bị biến thể cho phù hợp với tín ngưỡng địa phương, các vị thần chính của tôn giáo này không còn được tôn thờ nữa; thay vào đó, người Chăm Bà-la-môn thờ các vị thần địa phương, cúng tế tổ tiên và thờ các vị vua có công với đất nước đã được thần thánh hóa để trở thành tam vị nhất thể (trinity) là Pô Kloong Garai, Pô Ramê và nữ thần Pô Yan Ina Nagar. Người Chăm ở vùng này vẫn giữ được cá tính văn hoá độc đáo và mạnh mẽ của họ trong đời sống tinh thần và vật chất .

Từ sau thế kỷ thứ 15 khi các vương triều Champa từ bỏ vùng lãnh thổ phía bắc vương quốc cho Đại Việt, thì, các nhóm tộc người thuộc cư dân Champa trước kia đã cộng cư với các nhóm cư dân Việt đến từ các miền Thanh Nghệ tiếp tục khai thác những quyền lợi kinh tế dồi dào ở vùng đất này. Trong quá trình cộng cư đó, các nhóm cư dân này đã tạo nên một sắc thái văn hoá riêng biệt trên vùng đất cũ của Champa; chúng ta có thể thấy rằng nền văn minh của vương quốc cổ Champa đã góp phần tích cực vào việc hình thành cá tính và bản sắc độc đáo của văn hoá miền Trung Việt Nam; đặc biệt, cho đến ngày nay, những đặc tính của nền văn minh xưa cổ này vẫn được bảo tồn trong phong tục tập quán, nghệ thuật kiến trúc, kỹ thuật hàng hải, ngư nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp, thủ công nghiệp, lễ hội, tín ngưỡng dân gian, âm nhạc, ẩm thực, v.v. của các vùng cư dân đang sinh sống tại đây .


III. Khảo luận về kiến trúc đền- tháp Champa

"Yama/Diêm-vương đã ban cho chúng ta một nơi an trú trên trần gian. Quả vậy, Yama cai quản trần gian và chính Ngài bảo trợ cho kẻ phụng hiến một nơi an trú trên trần gian này" [Satapatha Brahmana, VII. I. 1.3]

Nghệ thuật kiến trúc của vương quốc cổ Champà mà chúng ta có thể khảo sát chủ yếu là kiến trúc ấn Độ giáo và Phật giáo. Đó là những đền-tháp bằng gạch nung dựng rải rác dọc đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam, từ phía nam Đèo Ngang thuộc tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Bình Thuận, và một vài ngôi đền ở vùng Tây Nguyên. Niên đại của những ngôi tháp này trải dài từ thế kỷ thứ 7/8 đến thế kỷ thứ 17-18. Theo văn bia, phần lớn những đền-tháp trước thế kỷ thứ 7/8 được dựng bằng gỗ, nhưng sau những cơn binh lửa, những ngôi đền này đều bị thiêu hủy, cho đến khoảng thế kỷ thứ 7/8 mới xuất hiện những ngôi tháp xây bằng gạch nung và sa thạch. Chỉ đền-tháp thờ phượng chư thần mới được xây bằng gạch đá, còn nơi trú ngụ của những tu sĩ Bà-la-môn, những người chăm nom, bảo vệ và phục dịch tại đền thờ v.v.. thì bằng gỗ nên chẳng còn để lại dấu vết gì.
Hiện nay, theo thống kê của chúng tôi, chỉ còn lại tất cả 24 nhóm đền-tháp tính từ tỉnh Quảng Bình cho đến tỉnh Bình Thuận, được phân bố như sau:
Quảng Trị: Hà Trung (1 tháp); Thừa Thiên-Huế: Liễu Cốc (2), Mỹ Khánh (1), Linh Thái (1) Quảng Nam: Mỹ Sơn (68), Đồng Dương (1), Bằng An (1), Chiên Đàn (3), Tháp Lạng (2) , Khương Mỹ (3); Bình Định: Thốc Lốc/Phú Lốc (1), Cánh Tiên (1), Bánh ít/Tháp Bạc (4), Thủ Thiện (1), Dương Long (3), Hưng Thạnh/Tháp Đôi (2), Hòn Chuông/Bà Chằng (1); Phú Yên: Tháp Nhạn (1); Khánh Hoà: Pô Nagar Nha Trang (5); Ninh Thuận: Hoà Lai (2); Pô Kloong Garai (3), Pô Ramê (2); Bình Thuận: Pô Đam/Pô Tằm (5), Phú Hài (3); Đắk Lắk: Yang Prong (1).
ở những thánh đô và kinh đô như Mỹ Sơn, Đồng Dương, Pô Nagar Nha Trang, Trà Kiệu, Hà Trung, Chà Bàn v.v.. đền-tháp đều do nhà vua và hoàng tộc dựng lên để thờ phung tổ tiên cùng các đấng thần-vua/devaraja hoặc Phật-vua, những đấng hộ trì vương quyền; còn ở nơi khác, các công trình tôn giáo thường do các vị tiểu vương hoặc đại thần dựng lên để bày tỏ lòng tôn kính đối với chư thần và các vương triều mà họ thần phục như nhiều bi ký đã đề cập. Vì phí tổn rất tốn kém cho nên hầu hết đền-tháp Champà đều được xây dựng và sinh hoạt dưới sự bảo trợ của hoàng gia. Nhà vua cũng cúng hiến đất đai để thờ tự ngôi đền như đã được nhắc đến trong minh văn của đức vua Phạm Hồ Đạt/Bhadravarman (380-413) người tạo dựng ngôi đền đầu tiên ở Mỹ Sơn .
Mặc dù không có những công trình kiến trúc kỳ vĩ, đồ sộ như ở ấn Độ hoặc những di tích nổi tiếng khác trong miền Đông Nam á như Angkor của Campuchia, Pagan của Miến Điện, Bôrôbudur của Inđônêsia v.v.., nhưng đền-tháp Champà nổi bật với vẻ đẹp duyên dáng, nên thơ, giàu nhạc tính.
Những hình tượng điêu khắc phong phú bằng sa thạch trang trí trên tháp kết hợp với những mô-típ hoa văn trang trí đa dạng chạm trổ trên tường gạch đã mang lại cho đền-tháp Champà một mỹ cảm tinh tế; tuy chỉ có những công trình với kích thước vừa phải, nhưng bằng nghệ thuật trang trí điêu luyện, người Champà đã khéo tạo cho nền kiến trúc của họ một vẻ đẹp hoành tráng và trang nghiêm.
Vẻ đẹp của đền-tháp Champà được bộc lộ qua những kiểu thức kiến trúc đa dạng, những kiểu cách hoa văn trang trí độc đáo, và kỹ thuật xây dựng được cải tiến liên tục qua nhiều thế kỷ đã đạt đến chỗ hoàn thiện.

Những đặc tính của ngôi đền trong kiến trúc Champà
Quan niệm kiến trúc Champà chịu ảnh hưởng nghệ thuật ấn Độ. Đó là một tổng thể bao gồm một ngôi đền chính, tiếng Chăm gọi là kalan, kết hợp với những đền thờ nhỏ, những công trình phụ và những bờ tường thấp bao quanh. Kalan tượng trưng cho ngọn núi thần thoại Meru, cái trục của vũ trụ, trung tâm hoàn vũ; bao quanh núi Meru là các thiên thể và những đại dương được tượng trưng bằng những ngôi đền nhỏ và những bờ tường thấp (Minh họa số 1).
Ngôi đền chính hay kalan là kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể đền-tháp. kalan là nơi thờ linh tượng của các vị thần ấn Độ giáo hay Phật giáo; hoặc một bộ linh vật yoni-linga đặt trong chánh điện .
Kalan chính là nơi trú ngụ của chư thần. Thân tháp được giải thích như một hang động và mái tháp mang hình tượng ngọn núi/shikhara đều là nơi an ngụ lý tưởng của thần linh. Các bức tường phía bên ngoài tháp được chạm trổ cầu kỳ đến từng chi tiết; ngược lại, các bức tường bên trong tháp không hề được trang trí; nội điện chỉ để bày một bàn thờ đơn giản.
Hầu hết kalan đều xoay mặt về hướng Đông, là hướng của thần linh, hướng mặt trời mọc, mở đầu cho sự vận hành của vũ trụ. Riêng tại Mỹ Sơn, do địa hình của một thung lũng hẹp tượng trưng cho một mandala , nên những kalan ở đây vừa xoay về hướng đông vừa xoay về hướng tây; và một kalan duy nhất có hai cửa lớn trổ về hai hướng đông-tây là Mỹ Sơn A-1. Ngoài ra, còn một nhóm tháp riêng biệt dựng trên sườn núi, có kalan xoay về hướng nam nơi có những cánh đồng rộng, đó là nhóm Pô Đam/Pô Tằm ở miền Nam vương quốc.
Chánh điện/garbhagrha của kalan là một căn phòng hẹp, đây là nơi linh thiêng nhất của ngôi đền, bài trí một bàn thờ đặt linh tượng của chư thần hoặc một linga ngay tại trung tâm nội điện. Ngẫu tượng được đặt trên một cái bệ yoni có vòi luôn luôn xoay về phương bắc gọi là snàna-droni , cái bệ này dùng để thoát nước thánh tẩy khi làm lễ tắm ngẫu tượng. Khi hành lễ, linga được bọc lên một cái vỏ bằng vàng gọi là kosa, trên đó có chạm mặt thần Siva, hoặc gắn vào linga một cái tượng đầu thần Siva bằng kim loại quý, gọi là mukhalinga, những đầu tượng bằng kim loại quý này đã được tìm thấy một vài cái trong những năm gần đây . Hình tượng mukhalinga hiện vẫn được thờ trong chánh điện của tháp Po Kloong Garai. Còn ngẫu tượng của thần Siva thờ trong chánh điện thì cũng được mang y phục và đồ trang sức bằng kim loại quý; một bộ trang sức gồm mũ miễn, hoa tai, vòng đeo cổ, ngực, tay và chân... bằng vàng đã được tìm thấy tại Mỹ Sơn trong ngôi tháp nhỏ C7, bên cạnh ngôi đền chính C1, là một ví dụ tiêu biểu cho nghi lễ này .
Trong chánh điện còn có thêm một cái hầm vuông ngay dưới bàn thờ, để rút nước thánh tẩy trong khi hành lễ, như ở kalan Mỹ Sơn B-1 và F-1; hoặc một lổ thoát nước thánh ra ngoài tháp gọi là soma-sutra như ở kalan Pô Nagar Nha Trang, kalan Mỹ Sơn A1, Mỹ Sơn C7, Chiên Đàn v.v.. Chung quanh bàn thờ có một lối hẹp để đi vòng theo chiều kim đồng hồ khi hành lễ/pradakshina-patha. Trái lại, ở những đền thờ Phật giáo như Đồng Dương, bàn thờ được áp sát vào tường phía tây của chánh điện, tín đồ hành lễ ngay trước mặt bàn thờ (Minh hoạ số 3).
Trong chánh điện thường dựng thêm một cái tán bằng gỗ có bốn cột trụ để che lấy bàn thờ, như ở kalan Pô Kloong Garai hoặc chỉ còn lại bốn chân đá tán như ở tháp Mỹ Sơn C7. Chánh điện xây rất kín, không có cửa sổ nên bên trong rất tối, vì thế trong ba vách tường phía trong đều có ô nhỏ hình tam giác để đặt đèn. Các bức tường bên trong chánh điện có khi được nới rộng hoặc được đục khoét lởm chởm cho giống một hang động, nơi cư ngụ được ưa chuộng của chư thần ; vết tích của sự đục khoét này còn thấy rất rõ ở hầu hết những kalan như Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An, Bình Lâm, Thốc lốc, Cánh Tiên, Dương Long, Hưng Thạnh v.v..
Chánh điện được giữ kín đáo bằng một khung cửa đá có hai cánh cửa bằng gỗ quí, ngày nay, những bộ cánh cửa gỗ này còn thấy ở kalan Pô Nagar Nha Trang, Pô Kloong Garai và Pô Ramê; còn ở những di tích khác, đôi cánh cửa gỗ đã bị mất, chỉ còn lại những lỗ mộng tròn trong khung cửa đá như ở ngôi đền Mỹ Sơn C1, Dương Long, Hưng Thạnh v.v..
Nối liền với chánh điện về phía cửa chính, là một tiền điện hẹp và dài, thường đặt một cặp tượng bò thần Nandin, nằm chầu vào chánh điện, ngày nay còn thấy ở kalan Pô Kloong Garai và Pô Ramê. Tiền điện hẹp dẫn vào chánh điện u tối tượng trưng cho lối dẫn vào hang động, từ ánh sáng dần vào bóng tối, là nơi an ngụ của chư thần. Mặt khác, tiền điện hẹp còn dẫn tín chủ từ một thế giới phức tạp vào một nơi đơn giản để dễ dàng tự thanh tịnh trong nghi thức hoà nhập với đấng linh thiêng.
Trước cửa vào tiền điện có hai trụ cửa bằng sa thạch được chạm trổ công phu. Những trụ cửa này có hình tròn, hình bát giác hoặc hình tứ giác chạm trổ hoa văn cầu kỳ, tùy theo thời kỳ mà thay đổi. Người Chàm có truyền thống ghi khắc văn bia lên những trụ cửa đá này mà ngày nay còn thấy ở Pô Nagar Nha Trang, Pô Kloong Garai, Hà Trung v.v..
Trước cửa vào có bậc cấp bằng đá; hai bên bậc cấp có hai thành bậc cũng bằng đá, mặt ngoài của thành bậc trang trí nhiều hình tượng khác nhau; trước bậc cấp bao giờ cũng có một phiến đá mỏng dẹp hình bán nguyệt chạm trổ những cánh sen.
Trên hai trụ cửa đặt một lanh-tô/lintel chạm trổ hoa văn; trên lanh-tô có một tấm tym-pan/tympanum bằng sa thạch hình ô-van/ovale thể hiện hình tượng vị thần được thờ trong kalan. Hầu hết, những tym-pan đều là những tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao, được chạm trổ hoàn chỉnh; một trong những đề tài được ưa chuộng để thể hiện trên tym-pan là hình tượng thần Siva múa điệu vũ trụ Tandawa. Hình tượng của thần Siva, đấng Huỷ Diệt, được đặt trên cửa vào là để hộ trì cho ngôi đền được thanh tịnh, tránh sự xâm phạm của các thế lực hữu hình cũng như vô hình đến chốn thiêng liêng.
Những phần trang trí bằng sa thạch như trụ cửa, tym-pan, lanh-tô v.v.. thường được sơn màu đỏ cho trùng với màu gạch của ngôi đền; vết tích của màu sơn đỏ này, ngày nay còn thấy trên những trụ cửa ở Mỹ Sơn .
Kalan Champà được thể hiện theo một kiểu thức cơ bản. Đó là một kiến trúc có bình đồ hình vuông , mái tháp hình chóp có ba tầng và một đỉnh tháp nhọn bằng sa thạch (Minh họa số 2).
Theo quan niệm kiến trúc của ấn Độ giáo, kalan có ba phần :
Đế-tháp tượng trưng cho thiên giới;
Thân-tháp tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi tín chủ tự thanh tịnh chính mình để có thể tiếp xúc với tổ tiên đã hòa nhập với thần linh hoặc để tâm thức được thăng hoa;
Mái-tháp tượng trưng cho thế giới thần linh, nơi chư thần quần tụ.
Đế-tháp chạm trổ hình tượng hoa lá; động vật như voi, sư tử; hoặc các đấng hộ trì ngôi đền đứng trong những vòm cung nhỏ trang trí hình tượng kala-makara; hoặc những hoạt cảnh trong thần thoại, vũ nữ và nhạc công thiên tiên v.v.. Đế-tháp từ thế kỷ thứ 10 trở về sau thường được lắp ghép bằng sa thạch như kalan Mỹ Sơn B1; hoặc ốp quanh bằng sa thạch như Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bánh ít/Tháp Bạc v.v.. Những hình tượng chạm trổ quanh đế-tháp biểu hiện những hoạt cảnh trên thiên giới là quê hương của chư thần.
Thân-tháp trang trí những hàng trụ-áp-tường/pillastre, và giữa-trụ-áp-tường/inter-pillastre. Thông thường có năm trụ-áp-tường, cái chính giữa bị che khuất bởi một cái cửa- giả-lớn/false door ở mỗi mặt tháp. Cửa-giả-lớn của kalan là một công trình rất công phu với hệ thống vòm cuốn/torana độc đáo, nghệ thuật chạm trổ tinh xảo làm nổi bật giá trị thẩm mỹ của đền-tháp Champà. Trong cửa-giả-lớn bao giờ cũng có hình tượng chư thiên đứng hộ trì cho ngôi đền/lokapala với gương mặt thành kính, hai tay chăp trước ngực cầm một đóa hoa sen. Trên ba cửa giả có ba tấm tym-pan bằng gạch hoặc bằng đá thường thể hiện hình tượng nữ thần Laksmi, vợ của thần Visnu, nữ thần của sắc đẹp, sự trù phú và hưng thịnh; ngài là đấng hộ trì để cho ngôi đền luôn luôn được sung mãn. Chân-tháp nằm tiếp giáp đế-tháp, mỗi trụ-áp-tường ở phần chân-tháp đều có vật-trang-trí-chân-tháp thường có hình ách-bích/xì-bích nhiều lớp; hoặc trang trí vòm cuốn nhỏ chạm trổ hoa lá. Cóc-ních/cornice tiếp giáp với mái tháp được cấu tạo thành những đường gờ, chạm trổ công phu bằng những đường diềm trang trí hoa lá. Mỗi góc cóc-ních đều có vật-trang-trí-góc thể hiện hình tượng thiên nữ apsaras, thủy quái makara, hoặc hình ngọn lửa thiêng cách điệu thành nhiều kiểu thức khác nhau qua từng phong cách nghệ thuật. Bốn góc cóc-ních trên mái-tháp có bốn tháp-góc thể hiện một điện thờ nhỏ được trang trí công phu.
Sự lập đi lập lại nhiều lần những mô-típ trang trí phức tạp trên những bộ phận to nhỏ của một ngôi đền Champà tượng trưng cho những chu kỳ vô tận của thời gian và của kỷ nguyên vũ trụ cũng như vô lượng kiếp tái sinh của con người; và chính nơi đây, qua ngôi đền, tín chủ bày tỏ lòng chí thành và hướng vọng đến sự giải thoát tối thượng được cứu độ bởi thần linh.
Mái-tháp có ba tầng, một chóp-tháp và một đỉnh-tháp, càng lên cao càng thu hẹp lại biểu tượng cho ngọn núi. Mỗi tầng mang hình dáng của một ngôi đền nhỏ với đầy đủ những bộ phận chính như trụ-áp-tường, cửa-giả-nhỏ, chân-tháp, cóc-ních .. Trên các tầng tháp trang trí ngẫu tượng và vật cưởi của ba mươi ba vị thần trong ấn Độ giáo như ngỗng thần Hamsa, chim thần Garuda, bò thần Nandin, voi, sư tử .. Tại tầng thứ nhất, thứ hai và thứ ba của mái tháp, trên mỗi góc cóc-ních của mỗi tầng đều có bốn tháp-góc; mỗi tầng tháp tượng trưng cho một tầng trời nơi cư ngụ của chư thần. Trên tầng thứ ba là chóp-tháp; chóp-tháp là một phiến đá lớn hình bát giác, tứ giác hay hình tròn, trên đó chạm mặt nạ Thần Thời Gian/Kala, rắn thần Naga hoặc bò thần Nandin, hoặc tám vị thần hộ trì tám phương thiên giới/astadikpalakas... như ở Mỹ Sơn, Vân Trạch Hòa, Chiên Đàn và Pô Kloong Garai v.v.. giống các shikhara ở miền bắc ấn Độ, chóp-tháp này gọi là àmalaka.
Đỉnh-tháp là khối đá nhọn có bốn cạnh, đặt trên chóp-tháp; phần dưới của đỉnh-tháp trang trí những cánh sen, tượng trưng cho ngọn núi thiêng Kailasa, chốn an ngụ của thần Siva; đỉnh-tháp thường được bọc bằng vàng hay bạc để làm tăng thêm vẻ đẹp rực rỡ uy nghi của ngôi đền. Đỉnh-tháp là nơi cao nhất của ngôi đền, mang hình tượng đoá sen/padma tượng trưng cho sự giải thoát tối thượng; tính siêu việt không-thời gian; là cột trụ/yupa biểu tượng cho hạnh nguyện của nhà vua và hoàng tộc; là nơi ngôi đền phóng toả năng lực huyền bí của nó vào vũ trụ mang theo tâm thức hướng thượng của tín chủ; đỉnh-tháp cũng chính là cái trục của vũ trụ; là nơi hoà nhập tiểu ngã cá nhân/atman vào đại ngã vũ trụ/brahman; v.v.. (Minh hoạ số 4 & 5).

Bình đồ căn bản của đền-tháp Champà
Đền-tháp Champà được xây theo phức hệ sau (Minh họa số 9):
Một kalan ở trung tâm. Đối diện với kalan là một tháp-cổng/gopura có hai cửa trổ về hướng đông-tây. Trước tháp-cổng là một mandapa, loại nhà dài, mái ngói có nhiều cửa sổ và hai cửa chính mở về hướng đông-tây, đây là một tiền đình để tĩnh tâm, cầu nguyện, chuẩn bị lễ vật, múa hát thiêng v.v.. trước khi hành lễ thánh tẩy tại kalan.
Mandapa trong kiến trúc Champà có ba loại: (1) loại không có tường bọc kín mà chỉ sử dụng những hàng cột lớn bằng gạch hoặc đá để chống đỡ mái ngói, như ở Pô Nagar Nha Trang, Đồng Dương v.v...; (2) loại có tường bọc kín và trổ nhiều cửa sổ như ở Mỹ Sơn D1, D2 v.v..; (3) loại dùng những hàng cột gỗ để đỡ mái, như ở Pô Kloong Garai. Mandapa được xây dựng theo hai kiểu thức sau: (a) gopura-mandapa-kalan (mandapa không có tường bọc kín); (b) mandapa-gopura-kalan (mandapa có tường bọc kín) .
Phía trước, về bên phải kalan, bao giờ cũng có một kho lễ vật/kosagrha, đây là một kiến trúc bằng gạch, mái cong hình thuyền; có một hoặc hai phòng; cửa chính luôn luôn mở về hướng bắc, là hướng Thần Tài Lộc Kuvera; và hai cửa sổ có chấn song con tiện bằng sa thạch ở hai đầu đông và tây. Ngôi tháp này cũng dùng để nấu thức ăn cúng dâng cho chư thần, ngày nay người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận gọi các ngôi tháp này là Tháp-Lửa. Ngôi tháp-lửa này tượng trưng cho kho báu và sự trù phú của vương quốc.
Ngoài ra, tại Mỹ Sơn, còn có một ngôi tháp, tháp B6, dựng đối diện với tháp-lửa (tháp B5), bên trong có một cái bể cạn hình bầu dục bằng sa thạch để chứa nước thiêng khi làm lễ thánh tẩy cho linga của hoàng gia tại kalan B1.
Bao quanh kalan, những điện thờ nhỏ và những công trình phụ là bốn bức tường gạch, thấp, vuông vức, nối liền nhau khép lại ở chổ tháp-cổng. Trong kiến trúc ấn Độ giáo những bức tường thấp này tượng trưng cho những dãy núi bao bọc các đại dương chung quanh ngọn núi vũ trụ Meru là ngôi đền chính trong nhóm.
Bên ngoài tường rào thường xây thêm tháp-bia để dựng bi ký.
Riêng tại Mỹ Sơn, chung quanh kalan A1 còn có sáu ngôi miếu (kết hợp với hai cửa chính) thờ tám vị thần hộ trì bát phương thiên giới/astadikpàlakas trấn giữ các phương đông, tây, nam, bắc, và đông-bắc, đông-nam, tây-bắc, tây-nam, mỗi vị được thể hiện ngồi trên một con vật tuỳ thuộc/vahana riêng của các ngài (tháp A2-A7); và tại nhóm B, có bảy ngôi miếu thờ bảy vị thần tinh tú/saptagrahas là Nhật, Nguyệt, Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ (tháp B7-B13) trấn ở các phương chung quanh ngôi đền chính B1 (Minh họa số 11).
Ngoài những tổng thể to lớn như Mỹ Sơn, Đồng Dương, Pô Nagar Nha Trang; và những nhóm tháp riêng biệt như Bánh ít/Tháp Bạc, Cánh Tiên, Pô Kloong Garai, Pô Ramê v.v..; đặc biệt, trong kiến trúc đền-tháp Champà còn có những nhóm gồm ba kalan dựng sát bên nhau như Hoà Lai, Khương Mỹ, Chiên Đàn, Hưng Thạnh/Tháp Đôi, Dương Long.
Tất cả những nhóm ba kalan đều được tạo dựng trên đồng bằng hoặc trên những gò đất thấp. Những nhóm ba kalan thường được xây dựng trong một giai đoạn kéo dài nhiều thập kỷ, không có bằng chứng là chúng đã được xây dựng đồng thời, ít nhất, cho tới thế kỷ thứ 12. Chẳng hạn, nhóm Hoà Lai được xây từ cuối thế kỷ thứ 8 và hoàn tất vào khoảng giữa thế kỷ thứ 9; nhóm Khương Mỹ được xây từ đầu thế kỷ thứ 10 và hoàn tất khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 10; nhóm Chiên Đàn được xây từ nửa sau thế kỷ thứ 11 và hoàn tất khoảng giữa thế kỷ thứ 12; nhóm Hưng Thạnh được xây vào cuối thế kỷ thứ 12; nhóm Dương Long được xây từ cuối thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 13. Trong 24 nhóm tháp còn tồn tại, chỉ có năm nhóm ba kalan. Mặc dầu đền thờ với nhóm ba kalan được xây dựng cho đến tận thế kỷ 13 nhưng chỉ có hai nhóm Hưng Thạnh và Dương Long là xây cùng một thời. Điều này cho biết, mãi đến cuối thế kỷ thứ 12, đền-tháp được xây với một đền thờ chính kết hợp với những đền thờ phụ cho đến khi chúng phát triển thành những nhóm ba kalan. Vị trí của những ngôi đền được dựng trước khi có nhóm ba kalan đã cho biết điều đó, bên cạnh những ngôi đền chính thường có các ngôi đền nhỏ hơn như ta có thể thấy rất rõ ở các nhóm Mỹ Sơn A, B, C. Điều này chỉ ra rằng, có hai kiểu đền- tháp với điện thờ đơn: (1) một kiểu với những đền thờ nhỏ hơn xây sát cạnh ngôi đền chính; (2) và một kiểu với với những đền thờ phụ có kích thước nhỏ hơn. Dần dần những kiến trúc phụ này phát triển không ngừng cho đến khi chúng được xây lớn bằng những ngôi đền chính, điều này đã dẫn đến sự xuất hiện của nhóm ba kalan. Cho đến khoảng cuối thế kỷ 12, thì những nhóm ba kalan mới được xây đồng thời vì chúng nhận những ảnh hưởng của kiến trúc Khmer. Như vậy, trong sự phát triển từ những nhóm đền-tháp với một ngôi đền chính cùng với những đền thờ phụ rồi tiến tới một nhóm ba kalan đã cho thấy kiến trúc Champà nhận thêm những ảnh hưởng từ những nền nghệ thuật láng giềng, chẳng hạn, nghệ thuật Khmer và Java, v.v.. (Minh họa số 12).

Kỹ thuật xây dựng đền-tháp Champà
Đền-tháp Champà được xây theo kỹ thuật truyền thống của kiến trúc tôn giáo ấn Độ, đó là những công trình xây theo bố cục hàng ngang kết hợp với các hàng trụ theo đường thẳng; tính kiên cố của công trình được nhìn thấy bởi những hàng trụ-áp-tường theo chiều dọc kết hợp với các lanh-tô bằng đá hay bằng gạch theo chiều ngang. Phương pháp liên kết các bức tường bằng kỹ thuật corbel, trong kỹ thuật này, những viên gạch được xếp chồng lên với nhau từng hàng một, thành những đường gờ giật cấp, nhô ra từng cấp một theo chiều ngang, tạo nên một khoảng trống giữa hai bức tường, rồi được thu hẹp dần dần cho đến khi nó có thể khép kín lại bằng một hàng gạch cuối cùng ở nơi cao nhất. Xử dụng phương pháp vòm giật cấp/corbel đã đem lại cho đền-tháp Champà một vẻ đẹp bề thế và mạnh mẽ phô bày qua những hàng trụ-áp-tường theo hàng dọc và các lanh-tô theo hàng ngang. Trong lòng tháp, nhờ xử dụng kỹ thuật vòm giật cấp, người Champà đã tạo cho ngôi đền một không gian rộng rãi, vòm phía trên được tạo nên bởi những đường gờ giật cấp theo chiều ngang trông rất ngoạn mục. Khác với phương pháp vòm bán nguyệt/arch, có một viên đá/gạch chốt trên đỉnh vòm/keystone, được xử dụng phổ biến trong kiến trúc La Mã cổ điển, kỹ thuật này khó tạo nên một không gian rộng rãi trong lòng tháp; trái lại, kỹ thuật vòm giật cấp của kiến trúc ấn Độ đã dễ dàng tạo cho đền-tháp Champà một không gian nội thất thoáng đãng, tiện nghi cho việc thờ phượng dù chỉ là những kiến trúc thấp nhỏ (Minh họa số 6).
Đền-tháp Champà xây bằng gạch nung, ghép với những mảng trang trí và chịu lực bằng sa thạch như đỉnh tháp, chóp tháp, khung cửa, trụ cửa, lanh-tô, tym-pan, cóc-ních, đường diềm, vật-trang-trí-góc, đế tháp v.v... Kiến trúc tôn giáo Champà không có truyền thống xây dựng đền thờ hoàn toàn bằng sa thạch so với các nền kiến trúc lân cận như Java (ngôi đền Bôrôbudur) Inđônêxia hoặc Khmer (ngôi đền Angkor) Campuchia, v.v .. Điều này, có thể, được lý giải bởi hai nguyên nhân sau: (1) là, sa thạch là vật liệu khan hiếm nên không đủ cung cấp một khối lượng lớn để xây dựng các công trình quy mô; (2) là, tâm thức thẩm mỹ của các vương triều Champà ưa chuộng xử dụng chất liệu gạch nung cho những công trình tôn giáo như để bảo lưu một truyền thống kiến trúc lâu bền. Vì, kỹ thuật xây dựng một công trình hoàn toàn bằng gạch nung hoặc bằng sa thạch bao giờ cũng dễ dàng hơn kỹ thuật kết hợp hai loại chất liệu hoàn toàn khác nhau về sức bền và độ chịu lực này trên cùng một kiến trúc .
Gạch của người Chàm, thông thường, được nung nhẹ lửa nên không cứng lắm (ngoại trừ một ít viên bị nung thành sành/già lửa vì lý do kỹ thuật, thỉnh thoảng đã được tìm thấy ở một vài di tích), gạch có nhiều kích thước khác nhau, khoảng 30cm x 20cm x 10cm. Có thể, gạch Chàm được nung bằng một kiểu lò nửa âm nửa dương (?!) như nhân dân địa phương vẫn còn truyền tụng. Những ngôi tháp gạch không có mạch hồ đã đứng vững cả ngàn năm phơi sương gió là bằng chứng sinh động về tài năng sử dụng gạch của cư dân Champà. Những ngôi tháp này chỉ bị mưa nắng gió cát bào mòn dần chứ không thể tách rời những viên gạch.
Theo nhiều giả thuyết, xưa kia, người Champà đã dùng một loại nhựa cây, mà cư dân địa phương ngày nay gọi là dầu Rái, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb., để kết dính những viên gạch lại với nhau khi kết cấu tường tháp. Cây dầu Rái được trồng thành rừng, tại miền Trung, thân cây tròn và thẳng; nhựa của cây này có thể khai thác hàng năm với dung lượng lớn; có độ kết dính rất chặt và bền; hoàn toàn không thấm nước. Loại nhựa cây này rất dễ xử dụng, đem trộn dầu Rái với đất sét khô hay bột gạch, chúng sẽ thành một loại vữa dễ khô cứng dưới nắng. Tường tháp rất dày, khỏang từ 1 mét đến 1,5 mét; trong ruột tường thường xây độn bằng gạch vụn được kết chặt lại bằng dầu Rái, chỉ hai lớp vỏ ngoài của tường là được xây bằng gạch vuông vắn và được mài láng sau khi xây; sau khi tường tháp được xây xong, những nhà điêu khắc mới khởi công chạm trổ trực tiếp những kiểu thức hoa văn lên tường gạch; sau hết, người Champà quét phủ lên một lớp dầu Rái để bảo vệ mặt ngoài của tường tháp để tránh sự tác hại của mưa nắng.
Ngày nay, dầu Rái vẫn được xử dụng rất phổ biến bởi cư dân miền Trung, đặc biệt, trong kỹ thuật đóng ghe thuyền, họ thường dùng dầu Rái trộn với vôi nung từ vỏ nghêu sò trét lên vỏ ghe thuyền để chống thấm nước.
Theo những kết quả xét nghiệm hoá học về chất kết dính trong kỹ thuật xây dựng đền-tháp Champà gần đây nhất, thì, người Chàm đã dùng một loại nhựa thực vật lấy từ địa phương để kết dính những viên gạch lại với nhau; và gạch để xây tháp được nung với nhiệt độ trung bình khoảng dưới 850 độ C . Nếu so sánh những loại nhựa thực vật có độ kết dính bền nhất hiện được xử dụng bởi cư dân tại miền Trung Việt Nam, chúng tôi nghĩ giả thiết cho rằng người Chàm xưa kia đã dùng dầu Rái trong kỹ thuật xây dựng đền-tháp của họ là có tính thuyết phục nhất .
Gạch xây tháp được nung ở những nơi không xa chỗ xây dựng đền thờ để tiện việc chuyên chở, vết tích của những nơi lấy đất sét để nung gạch hiện vẫn còn thấy tại những vùng gần di tích, chẳng hạn như ruộng Ô Vuông ở tại làng Mỹ Sơn gần di tích Mỹ Sơn. Đá sa thạch cũng được khai thác tại những nơi không xa di tích; như tại huyện Đại Lộc, Quảng Nam có những mỏ đá sa thạch rất tốt, mà, cho đến tận ngày nay vẫn còn được khai thác để phục vụ cho điêu khắc và kiến trúc. Để chuyên chở các vật liệu xây dựng, người xưa dùng voi hoặc trâu là những loại gia súc có sức kéo khoẻ; họ cũng biết dùng những loại xe có bánh lớn để chuyên chở những vật liệu nặng, loại xe này được thể hiện trên những bức điêu khắc hiện trưng bày tại Bảo Tàng Điêu Khắc Champà-Đà Nẵng; hoặc dùng các loại ghe lớn để chuyên chở đá nếu phải tìm kiếm các loại sa thạch tốt từ những nơi xa công trường xây dựng.
Đền-tháp thường được tu bổ liên tục từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Các vương triều Champà sau khi lên ngôi thường xây dựng thêm hoặc tu bổ lại các đền thờ của các triều vua trước để tỏ lòng kính ngưỡng tiền nhân và chư thần hộ trì vương quốc. Thông thường, ngôi đền chỉ được trùng tu phần tường bên ngoài, còn bên trong lại được giữ nguyên trạng. Có những nhóm tháp được xây dựng và tu bổ trong nhiều thập kỷ, khi tu bổ những ngôi đền cũ, các phần trang trí thường được mô phỏng lại, cho nên có những mô-típ trang trí giống nhau được xử dụng phổ biến qua nhiều thế kỷ; trái lại, kỹ thuật xây dựng thì phát triển khác nhau trong vòng vài thế kỷ. Trong khi trùng tu lại những ngôi đền cũ, người Champà có truyền thống xử dụng lại những vật liệu của các công trình trước, đặt biệt là những vật liệu bằng sa thạch .
Có những hiệp thợ chuyên nghiệp, bao gồm những nhà kiến trúc và điêu khắc, để xây dựng đền-tháp mà nhà vua hay hoàng tộc phải trả lương cho họ. Những hiệp thợ này hoạt động rộng rãi trong khắp vương quốc, vì thế, chúng ta có thể thấy kỹ thuật xây dựng hoặc kiểu thức trang trí tương tự tại những di tích ở cả hai miền Nam và Bắc vương quốc. Có những công trình được xây dựng liên tục trong nhiều thập niên thậm chí đến cả thế kỷ như những đền-tháp tại Mỹ Sơn, Chiên Đàn, Dương Long v.v.. Trong suốt thời gian đền-tháp được xây dựng triều đình phải cử người chăm sóc, có những chức quan chuyên lo việc xây dựng, tu bổ và thờ tự các ngôi đền quan trọng của hoàng gia.
Về địa thế của ngôi đền Champà
Theo kinh Brhat Samhita của ấn Độ giáo: 'Chư thần thường vui đùa ở những vườn cây gần sông, núi, suối nguồn và trong thị thành ở những khuôn viên vui vẻ' . Vì thế, địa điểm để xây dựng đền thờ Champà thường được chọn ở những nơi sau: (1) hoặc trong một thung lũng kín đáo như Mỹ Sơn; (2) hoặc nơi bình địa bên cạnh những giòng sông lớn như tháp Bằng An, Khương Mỹ, Bình Lâm, Thủ Thiện..; (3) hoặc giữa đồng bằng như Đồng Dương; (4) hoặc trên những ngọn đồi gần cửa biển như Pô Nagar Nha Trang, Phú Hài, Linh Thái..; (5) hoặc trên ngọn đồi ven sông như nhóm Bánh ít/Tháp Bạc, Tháp Nhạn..; (6) hoặc trên những ngọn đồi biệt lập giữa đồng bằng như Thốc Lốc, Pô Kloong Garai, Pô Ramê ..; (7) hoặc trên sườn núi như nhóm Pô Dam/Pô Tằm; (8) hoặc ngay trên bờ biển như tháp Mỹ Khánh; (9) hoặc trên đỉnh núi cao như tháp Hòn Chuông/Hòn Bà (Minh họa số 8); (10) hoặc trong hang động như Động Phong Nha (Quảng Bình), Động Tàng Chơn (Non Nước, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng).
Nhìn chung, hầu như đền-tháp Champà được xây dựng ở mọi địa hình, nơi mà, theo tín ngưỡng ấn Độ giáo, thì, địa điểm được chọn để xây dựng ngôi đền đều gắn liền với một huyền thoại riêng của nó; chẳng hạn, việc thần linh báo mộng, hoặc chư thần giáng thế, hoặc tạ ơn một vị thần sở tại, hoặc đánh dấu nơi chiến thắng kẻ thù, v.v..
Tuy nhiên, việc chọn lựa một địa điểm nơi có nguồn Nước Thiêng để tổ chức nghi lễ tế tự là một điều quan trọng, nên những địa điểm kề cận sông ngòi luôn luôn được chú ý để chọn nơi dựng đền thờ. Giòng Sông Thiêng cũng tượng trưng cho nữ thần Ganga, vợ của thần Siva. Hơn nữa, những giòng sông lớn và cửa biển ở miền Trung Việt Nam như sông Thạch Hãn/Quảng Trị, Thu Bồn/Quảng Nam, Trà Khúc/Quảng Ngãi, Sông Côn/Bình Định, Sông Ba/Phú Yên, Sông Cái/Khánh Hoà, Sông Dinh/Ninh Thuận, sông Cà Ty/Phan Thiết, v.v.. lại giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của cư dân Champà, nên, hầu hết đền-tháp Champà đều được chọn để dựng bên cạnh những giòng sông lớn chảy ra các cửa biển nơi gắn liền với những cảng-thị là những trung tâm thương mại của các tiểu quốc. Nếu nơi thờ tự cách xa nguồn nước, người ta đào một cái hồ lớn để lấy nước dùng cho nghi lễ như ở di tích Phật giáo Đồng Dương.
Những ngọn Núi Thiêng tượng trưng cho vị Đại Sơn Thần là thần Siva cũng giữ vai trò quan trọng trong việc chọn địa điểm để xây dựng đền thờ; chẳng hạn, ngọn núi thiêng Mahaparvata/Hòn Đền Núi Chúa trong châu Amaravati tại Mỹ Sơn, Quảng Nam; ngọn núi Mò O/Maha trong châu Vijaya, nay thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định; ngọn Lăng-già-bát-bạt-đa/Lingaparvata hay núi Đá Bia tại đèo Cả, thuộc tỉnh Phú Yên; ngọn núi Đại An trong châu Kauthara, nay thuộc huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà; ngọn núi Chà Ban trong châu Panduranga, nay thuộc huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận ; v.v.. Ngoài ra, những ngọn đồi độc lập tọa lạc trên một bình địa được chọn để xây dựng đền thờ, tự thân chúng cũng được xem như một ngọn núi thiêng .

Nghi thức tế lễ tại đền thờ Champà
Người Chăm, hiện nay, sinh sống tại Ninh Thuận hằng năm tổ chức nhiều lễ tế tại hai ngôi đền chính là Pô Ramê và Pô Kloong Garai (người Chăm gọi những đền thờ này là bimong). Trong những lễ hội này thì lễ Tết Katê là nổi bật hơn hết. Tết Katê được tổ chức vào những ngày đầu tháng 7 lịch Chăm tức khoảng đầu tháng 10 dương lịch. Một trong những nghi lễ chính yếu của Tết Katê là lễ cúng thần tại ba ngôi đền Pô Nagar Hữu Đức, Pô Ramê và Pô Kloong Garai vào sáng ngày mồng Một năm mới (Minh họa số 10).
Từ sáng sớm, dân làng tổ chức nghi lễ rước trang phục của thần từ làng lên tháp, bộ trang phục này được đặt trong một cái kiệu trang trí lộng lẫy, khiêng bởi các chức sắc của làng theo tiếng trống kèn nhịp nhàng long trọng. Theo sau kiệu lễ, dân làng ăn mặc chỉnh tề, phụ nữ mặc áo dài sắc màu sặc sỡ, tấp nập mang lễ vật lên tháp để cầu đảo chư thần. Lễ vật gồm có trầu cau, các loại hoa quả, hương trầm, đèn sáp ong, rượu, thịt (gà, cá hoặc dê), thuốc lá v.v..; lễ vật được đặt trên những mâm quả tròn bằng gỗ sơn nhiều màu sắc.
Người cầu đảo bày biện lễ vật chung quanh ngôi đền, hướng về chánh điện; thắp đèn, rót rượu, lễ lạy, đọc kinh cầu nguyện và chờ đợi lễ mở cửa đền.
Lễ mở cửa đền là một nghi thức nhứt thiết, được chuẩn bị bằng nhiều lễ vật sắm sửa bởi các vị tư tế và các chức sắc trong cộng đồng, họ là những người có trách nhiệm chăm sóc ngôi đền. Các thầy tư tế bao gồm vị thầy Cả Pa Seh; thầy Cò-ke/Ong Kadhar người đánh đàn và hát thơ; và một bà Bóng/Muk Pachầu. Tất cả đều mặc y phục trắng, đầu quấn khăn trắng, cổ choàng khăn đỏ; riêng thầy Cả Pa Seh còn đeo thêm một cái yếm dệt hoa văn hình học màu vàng đen đỏ.
Vào một thời điểm đã được tuyển chọn, sau khi bày trầu cau, hoa qủa, rượu, hương đèn, và các lễ vật khác; ngồi tại tiền điện, thầy Cò-ke kéo đàn Ka-nhí, là loại đàn có hai dây làm bằng một cái mai rùa, cùng với bà Bóng hát thơ để phụng thỉnh vị thần về giá ngự tại ngôi đền; tiếp đó, thầy Cả cung kính mở đôi cánh cửa gỗ của chánh điện rước thần vào ngự tại bàn thờ; các thầy tư tế và những người có ước nguyện theo sau thầy Cả lần bước vào chánh điện. Tại tháp Pô Kloong Garai, các vị thầy tư tế còn làm lễ tạt nước thiêng lên bức phù điêu thần Siva múa trên cửa chính của ngôi đền trước khi mở cửa đền. Người ta cũng không quên cúng rơm cỏ cho cặp tượng bò thần Nandin mà người Chăm gọi là bò Kapil, nằm chầu vào chánh điện.
Trong chánh điện, sau khi thắp sáng đèn đuốc, sắp đặt lễ vật, các thầy tư tế dọn dẹp sạch sẽ nơi thờ tự, rồi thầy Cả Pa Seh vừa lâm râm cầu nguyện vừa tự tay làm lễ tắm rửa, mặc y phục mới, trang điểm và bôi dầu thơm lên ngẫu tượng trên bàn thờ một cách cẩn trọng, tôn kính. Tại đền Pô Ramê, ngẫu tượng là một bức phù điêu thể hiện một vị nam thần có bốn đầu và tám tay cầm các loại vũ khí khác nhau, hình tượng này, theo người Chăm, là chân dung của vua Pô Ramê; còn ở đền Pô Kloong Garai thì ngẫu tượng là một mukha-linga, hay là linga có mặt người, theo người Chăm địa phương thì đây là chân dung của vua Pô Kloong Garai. Nước tắm ngẫu tượng được các tín chủ cung kính lấy tưới lên đầu hoặc lau mặt.
Sau đó, các tín chủ có những ý nguyện riêng tư dâng cúng lễ vật trực tiếp lên thần và được vị thầy Cả giúp họ, từng người một, bày tỏ những ước nguyện đến thần linh.
Lễ cầu xin vị thần sở tại của ngôi đền ban phước trong dịp đầu năm của Tết Katê kéo dài đến trưa, khi, các thầy tư tế lại làm một nghi thức tương tự để đóng cửa ngôi đền, rồi, người làng kế tục ra về.
So sánh với những nghi lễ cầu đảo tổ chức tại các ngôi đền ấn Độ giáo ở Châu á ngày nay, thì, nghi thức tế lễ cổ truyền của người Chăm Bà-la-môn hiện được cử hành tại các ngôi đền ở Ninh Thuận cũng không khác biệt lắm . Điều này giúp chúng ta hình dung được phần nào đôi nét chính yếu của những nghi lễ đã được tổ chức tại các đền thờ Champà xưa kia, cho dù chúng có bị giản lược đi rất nhiều; dĩ nhiên, những nghi lễ tế tự của hoàng gia phải được tổ chức long trọng, cầu kỳ và tươm tất bội phần, nhất là vào những thời vàng son của vương quốc.

Quá trình chuyển hoá của kiến trúc đền-tháp Champà
Qúa trình chuyển hoá của kiến trúc đền-tháp Champà, có thể được sắp xếp thành bốn giai đoạn tiêu biểu như sau (Minh họa số 7).
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn của những kiến trúc ấn Độ giáo từ thế kỷ thứ 7 đến thứ 8 được xây dựng chủ yếu tại miền Bắc vương quốc. Theo bi ký, những kiến trúc bằng gạch đã được xây dựng ở Mỹ Sơn vào khoảng thế kỷ thứ 7/8. Tuy nhiên, chúng ta chỉ biết rằng ngôi đền Mỹ Sơn E1 đã được xây với tường gạch rất thấp, có bốn đế cột bằng sa thạch để đỡ bốn cột trụ bằng gỗ đặt ở bốn góc trong lòng tháp; vì ngôi đền này không có tường cao bọc kín chung quanh nên không có cửa giả; ở cửa chính có hai trụ cửa tròn bằng sa thạch đỡ lấy một fronton cũng bằng sa thạch; khung sườn mái tháp bằng gỗ và ngói bằng đất nung hoặc bằng gỗ; kỹ thuật xây mái bằng vòm giật cấp/corbel có khả năng chưa được xử lý trong giai đọan này. Ngôi đền quan trọng Mỹ Sơn E1 đã bảo lưu kiểu thức xưa nhất của những công trình tôn giáo bằng gỗ vào thời kỳ đầu của các vương triều Champà như từng được nhắc đến nhiều lần trong minh văn .
Giai đọan thứ hai từ cuối thế kỷ 8 đến giữa thế kỷ 9. Trong thời kỳ này, những kiến trúc ấn Độ giáo bằng gạch có kích thước khiêm tốn với mái tháp được xây bằng bằng kỹ thuật vòm giật cấp/corbel được dựng rải rác khắp vương quốc ở cả hai miền Nam và Bắc cho đến khoảng cuối thế kỷ thứ 8; chẳng hạn, ngôi đền chính của nhóm tháp Phú Hài với những trụ-áp-tường hình tròn tương tự kiểu hai cột cửa của tháp Mỹ Sơn E1 nhưng lại bằng gạch và đã xuất hiện cửa giả trên tháp. Đặc biệt, những kiến trúc ở Mỹ Sơn bắt đầu được tạo dựng bề thế hơn để xứng đáng với tầm vóc của một thánh đô của vương quyền ở miền Bắc vương quốc với những ngôi đền như A'1, A'3, F1, F3, C7 cùng với ngôi đền quan trọng C1 trước khi nó được trùng tu lại vào những thế kỷ sau này. ở miền Nam vương quốc phải kể đến những kiến trúc như Phú Hài, Pô Đam/Pô Tằm, Hoà Lai; trong đó, nhóm ba tháp Hoà Lai là công trình gạch có kích thước lớn, chạm trổ cầu kỳ, tạo nên ấn tượng. ở giai đoạn này, các kiến trúc chủ yếu bằng gạch nhưng đã bắt đầu xử dụng sa thạch một cách khiêm tốn trong một vài bộ phận, thường là để trang trí. Những ảnh hưởng của nghệ thuật Phù Nam và Chân Lạp/thời Tiền Angkor đã xuất hiện trên các bộ phận trang trí nhất là ở các tháp gạch tại miền Nam.
Giai đoạn thứ ba kéo dài từ giữa thế kỷ 9 đến cuối thế kỷ 10 thuộc vương trìều Indrapura bao gồm cả kiến trúc Phật giáo và ấn Độ giáo. Thời kỳ này có nhiều mối quan hệ giữa vương quốc Champà và Java, được đánh dấu bằng những chuyến hành hương tới Java (Yavadvipapura) của các vị thượng quan trong triều đình Indrapura ở miền Bắc vương quốc (913). Đặt biệt, cũng tại miền Bắc vương quốc, nhiều công trình đồ sộ của Phật giáo và ấn Độ giáo được xây dựng với những phong cách mới; những kiến trúc có tường bao bọc và mặt bằng hình chữ nhật được xử dụng rộng rãi. Sa thạch được chú trọng trong việc xử dụng nhất là ở các bộ phận chịu lực. Đây là giai đoạn tổng hợp được những yếu tố ảnh hưởng rộng từ những nền nghệ thuật bên ngoài như Khmer, Java, Hoa Nam/Vân Nam v.v.. Ngôi đền Mỹ Sơn A1, được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ 10, là một kiệt tác của kiến trúc Champà cả về nghệ thuật trang trí cũng như kỹ thuật cấu trúc, đánh đấu thời kỳ phát triển cường thịnh nhất của vương quốc Champà.
Giai đoạn thứ tư khỏang từ đầu thế kỷ 11 kéo dài đến thế kỷ thứ 16, đây là giai đoạn bảo lưu những kiểu thức cổ, trì trệ trong sáng tạo. Là giai đoạn của những vương triều ấn Độ giáo và Phật giáo muốn phô trương quyền lực của mình qua những công trình kiến trúc bề thế nhưng đơn điệu. Nhiều ngôi đền có xu hướng dưng trên những ngọn đồi cao gây ấn tượng hơn. Phong cách kiến trúc tổng hợp được nhiều yếu tố ngọai lai trong trang trí cũng như trong kỹ thuật xây dựng với nhiều đền-tháp cao rộng hơn so với công trình của những giai đoạn trước. Nhiều ngôi tháp trang trí bằng những trụ-áp-tường to lớn hơn nhưng không chạm trổ hoa văn, bằng những vòm cuốn có nhiều lớp to nặng hơn. Sa thạch rất được ưa chuộng và xử dụng phong phú, phổ biến ở các bộ phận trang trí và chịu lực, cho thấy một kỹ thuật cấu trúc đã đạt tới trình độ tinh xảo khi kết hợp nhuần nhuyễn được hai loại chất liệu, gạch và đá, có độ chịu lực và độ bền hoàn tòan khác nhau trên cùng một công trình xây dựng. Phần nhiều đền-tháp được tập trung xây dựng tại những trung tâm cảng-thị nơi có nhiều giao tiếp có tính chất quốc tế. Những ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer xuất hiện trên những công trình được xây dựng vào cuối thế kỷ 12-13. Vào khoảng cuối giai đoạn này, ở những thế kỷ 15-16, đền thờ vẫn được xây trên đồi nhưng với kích thước khiêm tốn, trang trí giản lược hơn, bộc lộ quá trình suy thoái của nền kiến trúc này.
Nhìn chung, kiến trúc đền-tháp Champà ngay từ thuở ban đầu đã có những bước đi riêng biệt đầy cá tính ở cả hai miền của vương quốc. Tuy nhiên, trong suốt quá trình chuyển hoá của nền kiến trúc này, nó đã tiếp nhận những ảnh hưởng, dù trực tiếp hay gián tiếp, từ những nền kiến trúc lân cận tại Đông Nam á lục địa cũng như hải đảo, như: Campuchia, Lào, Đại Việt, Môn-Dvaravati/Thái Lan, Java/Inđônêxia; và xa hơn, có thể kể đến Miến Điện hay Vân Nam v.v..

Phân loại phong cách và niên đại kiến trúc đền-tháp Champà
Người tiên phong trong công cuộc nghiên cứu kiến trúc cổ Champa chính là kiến trúc sư người Pháp, Henri Parmentier. Ông đã để lại những công trình đồ sộ làm cơ bản để nghiên cứu về nền kiến trúc này, được công bố trong những thập kỷ đầu của thế kỷ trước .
Kế thừa thành quả của Parmentier, từ năm 1942, Philippe Stern, nhà lịch sử nghệ thuật, đã phân loại kiến trúc đền-tháp Champà theo từng phong cách dựa trên sự chuyển hóa của nghệ thuật trang trí trên những bộ phận kiến trúc như: vòm cuốn, trụ cửa, trụ-áp-tường, vật-trang-trí-góc, v.v.. Dựa trên sự tiến hoá của các kiểu thức trang trí của từng di tích tiêu biểu, Stern đề xuất một bảng phân loại các kiến trúc Chàm theo bảy phong cách sau: (1) Phong cách cổ hay Phong cách Mỹ Sơn E1, thế kỷ 8; (2) Phong cách Hoà Lai, đầu thế kỷ 9; (3) Phong cách Đồng Dương, cuối thế kỷ 9; (4) Phong cách Mỹ Sơn A1, thế kỷ 10; (5) Phong cách chuyển tiếp giữa Phong cách Mỹ Sơn A1 và Phong cách Bình Định, thế kỷ 11; (6) Phong cách Bình Định, thế kỷ 12-14; (7) Phong cách muộn, thế kỷ 14-16 .
Gần đây, từ năm 1994, kiến trúc sư người Nhật, Shigeeda Yutaka đã phân loại và trình bày sự chuyển hoá của kiến trúc Champà dựa trên bình đồ/mặt bằng của kiến trúc đền-tháp; và ông đã phân nhóm kiến trúc Champa dựa vào vị trí địa lý và những biến cố lịch sử. Shigeeda đã xếp những kiến trúc đền-tháp Champa còn đứng vững thành sáu nhóm như sau: (1) Nhóm kiến trúc Mỹ Sơn; (2) Nhóm kiến trúc Quảng Nam; (3) Nhóm kiến trúc Bình Định; (4) Nhóm kiến trúc Pô Nagar Nha Trang; (5) Nhóm kiến trúc Phú Hài; (6) Nhóm kiến trúc muộn .
Kết quả của hai cách phân loại theo Stern và Shigeeda đã có những yếu tố tương đối bổ sung cho nhau và đã nêu lên một bảng niên đại nhưng cũng chỉ mang tính tương đối cho từng công trình kiến trúc đền-tháp Champà. Như đã trình bày ở trên, những đền-tháp Champà hiện còn đứng vững đều đã trải qua nhiều lần trùng tu trong suốt nhiều thế kỷ bởi các vương triều cổ; và, trong khi trùng tu hoặc xây dựng mới các nơi thờ tự, người Champà có truyền thống xử dụng lại các vật liệu của những công trình trước đó; thậm chí, còn tái xử dụng nhiều yếu tố, bộ phận và hoa văn trang trí từ các kiến trúc cũ; nhiều ngôi đền mới được dựng ngay trên nền của các ngôi tháp cũ... Vì vậy, việc đoán định niên đại cho từng di tích một là một công việc không dễ dàng. Tuy nhiên, bằng vào kết quả các công trình nghiên cứu của Stern, dựa theo các đặc điểm của kiểu thức trang trí; và của Shigeeda, dựa theo bình đồ kiến trúc; cùng với sự phân tích kỹ thuật xây dựng của từng giai đoạn kiến trúc tại từng di tích một; đồng thời, so sánh với những biến cố lịch sử có liên quan đến sự hưng vong của các vương trìều Champà và dựa trên những minh văn có liên quan đến các di tích; cũng như dựa trên quá trình chuyển hoá của nền nghệ thuật này; chúng tôi chọn giải pháp sắp xếp các phế tích đền-tháp Champà theo từng nhóm kiến trúc, theo sự phát triển của từng ngôi tháp tại các di tích lớn và theo đặc trưng của từng vùng địa lý, như Shigeeda đã đề xuất, rồi trên cơ sở đó đoán định niên đại cho từng công trình một .


Bảng sắp xếp nhóm kiến trúc và niên đại các di tích Champà :

Nhóm kiến trúc Di tích Niên đại Địa điêm
1 2 3 4
Vùng cự c Bắc/
ChâuUlik/ÔLý/
Indrapura (?) Mỹ Khánh Cuối t.k. 8 Phú Diên, Phú Vang, TT- Huế
Hà Trung Nửa đầu t.k. 10 Gio An, Gio Linh, Qủang Trị
Linh Thái T.k. 11-13 Vinh Hiền, Phú Lộc, TT-Huế
Liễu Côc T.k. 11-12 Hương Xuân, Hương Trà, TT-Huế



Mỹ Sơn Mỹ Sơn A1 Nửa đầu t.k. Duy Phú, Duy Xuyên, Quảng Nam
Mỹ Sơn A10 Giữa t.k. 9
Mỹ Sơn A13 Đầu t.k. 9
MySơnB1 Cuốit.k. 11(c. 1074)- t.k. 13 (c.1234)
My Sơn B2 Cuối t.k.11-12
My Sơn B3 Giữa t.k. 10
My Sơn B4 Giữa t.k. 9
My Sơn B5 Đầu t.k. 10
My Sơn B7 Giữa t.k. 10
Mỹ Sơn C1 Cuối t.k. 11-12
Mỹ Sơn C2 Cuối t.k. 11-12
Mỹ Sơn C3 Cuối t.k. 11-12
Mỹ Sơn C4 Cuối t.k. 11-12
Mỹ Sơn C5 Giữa t.k. 10
Mỹ Sơn C6 Giữa t.k. 9
Mỹ Sơn C7 Cuối t.k. 8-đầu t.k. 9
Mỹ Sơn D1 Đầu t.k. 10
Mỹ Sơn E1 Giữa t.k. 8 -giữa t.k. 9
Mỹ Sơn F1 Cuối t.k. 8
Mỹ Sơn F3 Cuối t.k. 8
Mỹ Sơn G Giữa t.k. 12 (c.1157)
Mỹ Sơn H Đầu t.k. 13 (c.1234)

QủangNam/
Châu Amaravati Đồng Dương Cuối t.k. 9 (c.875) Bình Định, Thăng Bình, Quảng Nam
Khương Mỹ Đầu t.k. 10 Tam Xuân, Núi Thành, Quảng Nam
Chiên Đàn Cuối t.k. 11- giữa t.k. 12 (c. 1074- c. 1157) Tam An, Tam Kỳ, Quảng Nam
Bằng An T.k. 12 Điện An, Điện Bàn, Quảng Nam

Bình Định/
Châu Vijaya Dương Long Cuối t.k. 12- đầu t.k. 13 Bình Hoà, Tây Sơn, Bình Định
Hưng Thạnh/Tháp Đôi Cuối t.k. 12- đầu t.k. 13 Đống Đa, Qui Nhơn, Bình Định
Cánh Tiên Cuối t.k. 13- t.k. 14 Nhơn Hậu, An Nhơn, Bình Định
Thốc Lốc/Phú Lốc Cuối t.k. 13- t.k. 14 Binh Nghi, Tây Sơn, Bình Định
Thủ Thiện Cuối t.k. 13- t.k. 14 Bình Nghi, Tây Sơn, Bình Định
Bình Lâm Nữa đầu t.k. 11 Phước Hoà, Tuy Phước, Bình Định
Bánh ít/Tháp Bạc Nữa đầu t.k. 11 (c.1000) Phước Hiệp, Tuy Phước, Bình Định

Pô Nagar NhaTrang/
Châu Kauthara Pô Nagar Nha Trang (Tháp Tây-Bắc) Giữa t.k. 10 Xóm Bóng, Nha Trang, Khánh Hoà
Pô Nagar Nha Trang (Tháp Chính) Giữa t.k. 11 (c.1050) - t.k. 12
Pô Nagar Nha Trang (Tháp Nam) T.k. 12- t.k. 13
Tháp Nhạn Nữa đầu t.k. 11 Tuy Hoà, Phú Yên

Phú Hài/
Châu Panduranga Phú Hài Giữa t.k. 8 - đầu t.k. 9 Phú Hài, Phan Thiết, Bình Thuận
Hoà Lai Cuối t.k. 8 - đầu t.k. 9 Tân Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận
Pô Đam/ Pô Tằm Giữa t.k. 8 - đầu t.k. 9 Phong Phú, Tuy Phong, Bình Thuận

Pô Kloong Garai/ Pô Kloong Garai T.k. 13-14 Lưu Vinh, Phan Rang, Ninh Thuận
Nhóm kt muộn Yang Prong T.k. 14-15 Ea Rốc, Ea Súp, Đắc Lắc
Pô Ramê T.k. 15-16 Hữu Đức, Ninh Phước, Ninh Thuận


TKP


Thư mục tham khảo:
Acharya, P. K.
1996 Hindu architecture in India and Abroad. New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers.
1995 A Dictionary of Hindu Architecture. New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers.
Aoyagi, Yoji
2001 'Khai quật hệ thống lò Gò Sành- Gốm Champa trong lịch sử con đường tơ lụa', Hội thảo quốc tế về Một Thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam: thành tựu, phương hướng và triển vọng [tóm tắt báo cáo]: 90. Hà Nội: Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học.
Ballio G., Baronio G., Binda L.
2001 First results on the characterisation of bricks and mortars from My Son monuments, Kỷ yếu hội thảo: Bảo tồn quá khứ- một triển vọng về tính xác thực trong trùng tu, gia cố các công trình kiến trúc lịch sử khu vực Châu á, Hội An 25/2-3/3/2001: 204-213. Quảng Nam: Trung Tâm Bảo Tồn Di Sản- Di Tích Quảng Nam.


Boisselier, Jean
1963 La Statuaire du Champà: recherches sur les cultes et l'iconograpghie. Paris: EFEO [ Publications de l'Ecole fransaise d'Extreme- Orient 54].
Bronson, Bennet
1977 'Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes Toward a Functional Model of the Coastal State in Southeast Asia', Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia: Perspectives from Prehistory, History and Ethnopraphy [Hutterer, Karl L. ed.]: 39-52. Ann Arbor: Center for South and Southeast Asia Studies, The University of Michigan.
Burn, P. & Brown, R.
1991 'Eleventh century Cham-Philippine foreign affairs', Ancient Town of Hoi An: 64-67. Hanoi: Foreign Languguages Publishing House.
Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách
1999 Từ điển Phật học. Huế: Nxb. Thuận Hoá.
Châu Ai
1983 'Yến sào và làng yến ở Quảng Nam', Nghiên cứu Lịch sử Địa phương và Chuyên nghành Quảng Nam-Đà Nẵng, Số 2: 33-37. Đà Nẵng: Sở Văn hoá và Thông tin Quảng Nam- Đà Nẵng.
Claeys, J. Y.
1934 Introduction a l'etude de l'Annam et du Champà. Hue: BAVH, 21 (1-2): 2-144.

Coedes, George
1968 The Indianized States of Southeast Asia. Honolulu: East-West Center [Translated from the French by Sue Brown Cowing, ed. by Walter F. Villa].
Dumarcay, Jacque
1986 The Temples of Java. Singapore: Oxford University Press.
Galey, Jean- Claude (ed.)
1985 L'Espace du Temple (2 vol.). Paris: Editions de l'Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales (Purusartha, 8 & 10).
Higham, Charles
1989 The Archaeology of Mainland Southeast Asia. Cambrigde: Cambrigde University Press.
2002 Early Cultures of Mainland Southeast Asia. Bangkok: River Books Ltd.
Jacques, Claude
1985 'Sources on Economic Activities in Khmer and Cham Lands', Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A.C. Milner: 227-234. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies Singapore & The Research School of Pacific Studies Australian National University.
Kramrisch, Stella
1976 The Hindu Temple (2 vol.). Dehli: Motilal Banarsidass Publisher.
1981 The Presence of S'iva. New Jersey: Princeton University Press.
Dương Văn An
2001 Ô Châu Cận Lục, tân dịch hiệu chú. [Hiệu đính-Dịch chú: Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc]. Huế: Nxb. Thuận Hoá.
Đào Duy Anh
1957 'Sự thành lập của nước Lâm ấp', Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, quyển Thượng: 122-134. Hà Nội: Nxb. Văn hóa, Cục Xuất bản-Bộ Văn hoá
1964 Đất nước Việt Nam qua các đời: nghiên cứu địa lý học lịch sử Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa Học.
1997 Đất nước Việt Nam qua các đời: nghiên cứu địa lý học lịch sử Việt Nam [In lần thứ hai]. Huế: Nxb. Thuận Hoá.
Đỗ Bang
1996 Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII-XVIII. Hà Nội: Hội Sử học Việt Nam, Nxb. Thuận Hoá.


Ferrand, Gabriel
1913, 1914 Relations de voyages et textes géographiques arabes, persans et turks relatifs à l'Extrême-Orient du VIII e au XVIII e siècles (2 vol.). Paris: Ernest Leroux Editeur.
Gay, B.
1988 'Vue nouvelle sur la composition ethnique du Campa', Actes du seminaire sur le Campa, organise a l'Universite de Copenhague, le 23 Mai 1987: 49-58. Paris: Travaux du Centre d'Histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise.
Kreisel, Gerd
1987 Linden-Museum Stuttgart, Sudasien-Abteilung (Katalog). Stuttgart: Linden-Museum Stuttgart.
Lê Vân
2000 Đã năm thế kỷ bị lãng quên, Báo Lao Động, ngày 12-2-2000. Hà Nội: Báo Lao Động.
Lobo, Wibke
1992 Palast der Gotter (Katalog). Berlin: Staatliche Museen zu Berlin- Museum fur Indische Kunst.
Glover, I. & Prior, R.
2001 'Cuộc khai quật năm 2000 tại kinh thành cổ Champa-Trà Kiệu, Quảng Nam, miền Trung Việt Nam', Hội thảo quốc tế về Một Thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam: thành tựu, phương hướng và triển vọng [tóm tắt báo cáo]: 87. Hà Nội: Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học.
Hall, Kenneth R.
1985 Maritime Trade and Early State Development in Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.
Hickey, G. C.
1982 Sons of the Mountain: Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands to 1954. New Haven: Yale University Press.
1993 Shattered World: Adaptation and Survival among Vietnam's Highland Peoples during the Vietnam War. Philadelphia: University of Pennsyvania Press.
Hồ Xuân Tịnh
1998 'Découverte d'une tête en or au Quang Nam', Lettre de la Société de Amis du Champa Ancient, No. 4: 10. Paris; Societe des Amis du Champa Ancient/Sacha.
Huỳnh Công Bá
2002 'Mấy đặc điểm về làng xã Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng', Nghien Cuu Hue, Số 4: 72-75. Huế: Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Huế.
Inrasara
1994 Văn học Chăm. Hà Nội: Nxb. Văn hoá Dân tộc.

Lafont, P.-B.
1991 'Les grandes dates de l'histoire du Campa', Le Campa et le Monde Malais: 7-23. Paris: Publications du Centre d'Histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise.
1996 'Mythologie du Champa: les Dieux du Champa', L'Âme du Việt Nam: 41-49. Paris: Editions Cercle d'Art.
1999 'Những niên đại quan trọng trong lịch sử Champa', Champaka: Nghiên cứu lịch sử và nền văn minh Champa, số 1: 39-55. California: IOC-Campa.
Lâm Mỹ Dung
1993 'Các công trình khai thác nước dùng đá xếp ở Quảng Trị', Khảo cổ học, Số 2: 67-79. Hà Nội: Viện Khảo cổ học.
Lê Quý Đôn
1977 Phủ Biên Tạp Lục [Lê Quý Đôn toàn tập, Tập I]. Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội.
Li Tana
2001 'Xứ Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII một mô hình khác của Việt Nam', Những vấn đề lịch sử Việt Nam [Nhiều tác giả]: 185-199. Tp. Hồ Chí Minh: Nguyệt san Xưa & Nay, Nxb. Trẻ.
Mabbett, Ian
1986 'Buddhism in Champa', Southeast Asia in the 9th to 14th centuries [ed. by David G. Marr and A.C. Milner]: 289-313. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.





Majumdar, R. C.
1985 Champà: history and culture of an Indian colonial kingdom in the Far East 2th -16th centuries AD. Dehli: Gian Publ. House. [reprint]
Manguin, P.-Y.
1995 'Thuyền vỏ chằng bằng thừng và sự phát triển trao đổi ở Đông Nam A/Bateaux à coques liées et developpement des échanges en Asie du sud-Est', 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam/90 ans de recherches sur la cultre et l'Histoire du Vietnam: 69-87, 329-347. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, école Francaise d'Extrême- Orient.
Maspéro, George
1988 Le Royaume de Champà. Paris: Ecole Francaise d'Extrême-Orient. [Réimpression de l'école Francaise d'Extrême -Orient (EFEO)]
Michell, George
1988 The Hindu Temple. Chicago & London: The Chicago University Press.
Momoki Shiro, Higuchi Hideo, Shigeeda Yutaka
1999 Champà: Rekishi, Matsuson, Kenchiku [Champà: Lịch sử, Mạt duệ, Kiến trúc]. Tokyo: Hatsukoo Mekong .
Momoki Shiro
1999 'Chămpa chỉ là một thể chế biển? (Những ghi chép về nông nghiệp và nghành nghề trong các tư liệu Trung Quốc)', Nghiên cứu Đông Nam á, số 4: 43-48. Hà Nội: Viện Đông Nam á.
Mus, P.
1933 'Cultes Indiens et Indigenes au Champa', BEFEO, XXXIII: 367-410. Hanoi: EFEO.
Nakamura, Rie
1999 Cham in Vietnam: Dynamics of Ethnicity [Ph.D. dissertation]. University Washington: Department of Anthropology.
2000 'The coming of Islam to Champa', Journal of the Malaysian Branch of the Royal Asiatic Society/MBRAS, Vol. LXXIII, Part 1: 55-66.
Nguyên Anh
1998 'Phật giáo Champa', Tập văn Thành đạo, số 40, Xuân Mậu Dần: 45-46, 58. Tp. Hồ Chí Minh: Ban Văn hoá Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Nguyễn Bội Liên et al.
1991 'Hoi An-Quang region's wooden barges', Ancient town of Hoi An [ International symposium held in Danang on 22-23 March 1990]: 86-89. Hanoi: Foreign Languages Publishing House.
Nguyễn Hữu Thông (chủ biên)
2001 Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam. Huế: Nxb. Thuận Hóa, Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế.
2002 'Vùng đất Bắc miền Trung: những cảm nhận bước đầu', Thông tin Khoa học, Thánh 9/2002: 5-19. Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Thành phố Huế.
Nguyễn Thế Anh
1995 'The Vietnamization of the Cham Deity Pô Nagar', Asia Journal, Vol. 2, No.1: 55-67. Soeul: The Center for Area Studies, Seoul National University.
Nguyễn Tuấn Triết
1991 Người Raglai ở Việt Nam. Tp. Hồ Chí Minh: Viện Khoa học Xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội.
Nguyễn Xuân Hoa
2002 'Thừa Thiên Huế dưới thời Lâm Âp-Chămpa', Nghien Cuu Hue, tập 3: 28-38. Huế: Trung tâm Nghiên cứu Huế.


Nguyễn Hồng Kiên
2000 Đền tháp Champà, Kiến Trúc, số 4 (84): 49-52. Hà Nội: Hội Kiến Trúc Sư Việt Nam.
Ngô Văn Doanh
1994 Tháp cổ Chămpa, sự thật và huyền thoại. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa- Thông Tin.

Nhất Hạnh
1996 Giảng luận Duy Biểu Học. Lá Bối.
Po Dharma
1997 'Survol de l'histoire du Campà', Le Musée de Sculpture Cam de Đà Nẵng: 39-55. Paris: Editions de l'AFAO.
1999a 'Góp phần tìm hiểu lịch sử Champa', Champaka: Nghiên cứu lịch sử và nền văn minh Champa, số 1: 9-33. California: IOC-Campa.
1999b 'Vấn đề xung đột xã hội Champa trong quá trình lịch sử (từ thế kỷ thứ 11 đến 1832)', Champaka: Nghiên cứu lịch sử và nền văn minh Champa, số 1: 103-125. California: IOC-Campa.
2001 'The history of Champa', Cham Art, treasures from the Da Nang Museum, Vietnam: 14-27. Bangkok: River Books Ltd.
Quach-Langlet, T.
1988 'Le cadre géographique de l'ancien Campa', Actes du seminaire sur le Campa, organise a l'Universite de Copenhague, le 23 Mai 1987: 28-48. Paris: Travaux du Centre d'Histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise.
Quách Xân
2000 'Giặc mùa', Ngok Linh [Chuyên đề nghiên cứu, sáng tác về Miền Núi & Tây Nguyên], Số 1: 71-106. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Đại học Đà Nẵng.
Parmentier, H.
1909 Inventaire descriptif des monuments Cams de l'Annam: vol.I. Description des monuments;
1918 vol. II. étude de l'art Cam. Paris: Leroux [Publications de l'Ecole Francaise d'Extrême- Orient 11].
Recherches sur les monuments du Champà
1985 Rapport de la mission Polono- Vietnamienne 1981-1982: vol.I. Warszawa: Wydawnictwa. PKZ;
1990 Rapport de la mission Polono- Vietnamienne 1983-1986: vol.II. Varsovie: PKZ.
Schweyer, A.-V.
1999 'La vaisselle en argent de la dynastie d'Indrapura (Quang Nam, Viet Nam)', BEFEO, 86: 345-355. Paris: EFEO.
Shigeeda Yutaka and al.
1994 Artifacts and culture of the Champà Kingdom (Catalogue). Tokyo: The Toyota Foundation.
Shigeeda Yutaka
2000 'Betonamu no Kenchiku' [Kiến Trúc Việt Nam], New History of World Art, Toonan Asia: 100-107. Tokyo: Shogakukan.
Stern, Philippe
1942 L'art du Champà et son évolution. Paris: Publication du Musee Guimet.
Tadgell, Christopher
1990 The History of Architecture in India. London: Phaidon Press Limited.
Tạ Chí Đại Trường
1989 Thần, Người và Đất Việt. California: Nxb. Văn Nghệ.
Taylor, Keith W.
1983 The Birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press.
1992 'Champa', The Cambridge History of Southeast Asia, Vol.1 [From Early Times to c.1800]: 153-157. Cambridge: Cambridge University Press.
Trần Quốc Vượng
1973 'Về danh hiệu Hùng Vương', Hùng Vương dựng nước, Tập 3: 353-355. Hà Nội: Uỷ ban Khoa học Xã hội.
1998 'Để tìm hiểu thêm về xứ Quảng', Di tích Quảng Nam: 24. Quảng Nam: Sở Văn hoá-Thông tin Quảng Nam.
1999 'Từ một cái nhìn Thánh Địa Mỹ Sơn ..', Di Tích Mỹ Sơn: 26-34. Quảng Nam: Sở Văn Hoá- Thông Tin Quảng Nam.

Trần Quốc Vượng, Lâm Mỹ Dung
1999 'Yến sào Khánh Hoà trong bối cảnh yến sào Việt Nam', Văn hoá phi vật thể Khánh Hoà: 297-302. Hà Nội: Nxb. Văn hoá Dân tộc.
Trần Quốc Vượng, Lâm Mỹ Dung, Hoàng Anh Tuấn
2002 'Kết quả thám sát và khai quật di chỉ Bãi Làng-Cù Lao Chàm (Quảng Nam) năm 1998-1999', Kỷ yếu Hội thảo Khoa học 5 năm Nghiên cứu và Đào tạo của Bộ môn Khảo cổ học (1995-2000) [Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa Lịch sử, Bộ môn Khảo cổ học]: 208-230. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
Trịnh Nam Hải
2001 'Kết quả khai quật tháp Mỹ Khánh', Thông tin Khoa Học và Công Nghệ, số 3 (33): 72-83. Huế: Sở Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường.
Trần Đức Anh Sơn
2000 'Các thương cảng vùng Trung Trung Bộ Việt Nam và con đường gốm sứ ở vùng tây nam Thái Bình Dương trong Thời Đại Đại Thương Mại (thế kỷ XVI-XVIII)', Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ, số 4(30): 51-64. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Trần Kỳ Phương
1988 Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng.
1994 'Ghi chú về những tiểu phẩm Phật giáo mới phát hiện tại Trà Kiệu (Quảng Nam- Đà Nẵng)', Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1993: 301-303. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
2001 'Phù điêu hộ thế bát phương thiên của đế chóp tháp Vân Trạch Hoà và hình tượng hộ thế phương thiên trong điêu khắc Champà', Thông tin Khoa Học và Công Nghệ, số 3 (33): 84-98. Huế: Sở Khoa Học, Công Nghệ và Môi Trường.
2002 'Thánh địa Mỹ Sơn: tín ngưỡng, nghệ thuật và vấn đề bảo tồn', Nghien Cuu Hue, tập 3: 105-120. Huế: Trung tâm Nghiên cứu Huế.
Tran Ky Phuong
1993 Cham Ruins: journey in search of an ancient civilization. Hanoi: The Gioi Publishers (Reprinted in 2000 with the new title: 'Unique vestiges of Cham Civilization').
2000 'The wedding of Sìtà: a theme from the Ràmàyana represented on the Tra Kieu pedestal', Narrative Sculpture and Literary Traditions in South and Southeast Asia [ed. by Marijke J. Klokke]: 51-58. Leiden-Boston-Koln: Brill.
Tran Ky Phuong, Vu Huu Minh
1991 'Cua Dai Chiem (Port of Great Champà) in the 4th - 15th centuries', Ancient town of Hoi An [International symposium held in Danang on 22-23 March 1990]: 77-81. Hanoi: Foreign Languages Publishing House.
Tran Ky Phuong, Shigeeda Yutaka
1997 Champà Iseki [Di Tích Champà]. Tokyo: Rengoo Shutsupan.
2002 'Phế tích Champa: khảo luận về kiến trúc đền-tháp', Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Số 1 (35): 75-88; Số 2 (36): 41-52. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên-Huế.
Trian Nguyễn
1993 The Đồng Dương Buddha: A Buddhist Historical View. California: University of California at Berkeley [Professor Joanna Williams]. (Bản thảo chưa xuất bản, dày 31 trang chữ in và hình ảnh).
Uka Tjandrasasmitra
1992 'Notes on the reflection of the holy mountain conception of some temples in Indonesia and Cambodia', Study on Historic Cities in Lower Northeast Thailand, A.D. 8th -13th Centuries: 229-233. Tokyo: Institute of Asian Cultures, Sophia University (Cultural Heritage in Asia [7]).
Viện Khoa Học Công Nghệ Xây Dựng
1999 Báo Cáo Nghiên Cứu Kỹ Thuật Xây Dựng Các Tháp Chăm Phục Vụ Trùng Tu và Phát Huy Giá Trị Di Tích. Hà Nội: Bộ Xây Dựng.
Vũ Hữu Minh
2001 Để không là người ở trọ [Tuyển tập bài viết của Vũ Hữu Minh (1955-2000)]. Huế: Trung tâm Bảo tồn Di tích Huế.
Williams, Joanna G.
1982 The Art of Gupta India, Empire and Province. New Jersey: Princeton University Press, Princeton.

Wolter, O. W.
1982 History, Culture and Religion in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asia Studies.
Yamagata, Mariko
2001 'Sự chuyển tiếp từ Sa Huỳnh lên Linyi (Champa) với sự liên quan dặc biệt đến thung lũng sông Thu Bồn', Hội thảo quốc tế về Một Thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam: thành tựu, phương hướng và triển vọng [tóm tắt báo cáo]: 86-87. Hà Nội: Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học.
Zakazia Ali
1991 'Notes on the Islamic art of Champa', Le Campa et Le Monde Malais: 123-133. Paris: Publications du Centre d'Histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét