Thứ Tư, 23 tháng 9, 2009

BỐI CẢNH ĐÔNG NAM Á VÀ ĐÔNG NAM Á THỜI TIỀN SỬ (4)

I.4.6. Thời đại kim khí ở Đông Nam Á: Những cộng đồng cư dân nông nghiệp phát triển

Một điểm cần lưu ý khi nghiên cứu vấn đề này là ranh giới giữa thời đại đá mới và thời đại kim khí không rõ ràng và trong nhiều trường hợp không thể tách bạch được. Trong một số trường hợp chúng ta thấy các nhà nghiên cứu dùng cách gọi hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí để chỉ những địa điểm mà trình độ tuy đã đạt đến thời đại kim khí, nhưng vẫn gặp nhiều di vật đá mới. Thời điểm xuất hiện của đồ sắt cũng không cụ thể, ở một số khu vực như miền bắc Việt Nam, miền đông bắc Thái Lan… chúng ta đã chứng minh được sự tồn tại của một thời đại đồ đồng trước thời đại đồ sắt. Nhưng ở Đông Nam Á hải đảo và một số nơi khác của Đông Nam Á lục địa, gần như hai kim loại này xuất hiện song song với nhau. Miền Trung Việt Nam cũng vậy, đồ sắt chỉ xuất hiện sau đồ đồng một thời gian rất ngắn.
Cho tới nay chúng ta đã có những phát hiện rất quan trọng về sự phát triển liên tục của thời đại kim khí ở Đông Nam Á lục địa, đặc biệt là ở Bán đảo Đông Dương và Thái Lan. Thời kỳ này cũng được đánh dấu bằng sự khu biệt và phân hoá văn hoá thành những trung tâm lớn có mức phát triển tương đồng nhưng khác biệt và những vùng, biên / ngoại vi. Giao lưu nội vùng, liên vùng thực sự đóng vai trò rất quan trọng trong sự định hình vị thế và vai trò của mỗi trung tâm và sức lan toả các đặc trưng văn hoá.
- Ba trung tâm thời đại kim khí Việt Nam: Cách đây khoảng bốn nghìn năm, các nhóm cư dân cổ sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí.
Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hoá lớn là Đông Sơn (miền Bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam).
Văn hoá Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi văn hoá của người Việt cổ, giai đoạn này được coi là thời gian hình thành bản sắc văn hoá Việt cổ.
Văn hoá Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Champa.
Văn hoá Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn hình thành văn hoá Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo và có thể thuộc các nhóm khác nữa sinh sống vào những thế kỷ sau Công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ.
- Tiền Đông Sơn và Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam: Quá trình kế thừa, thống nhất và kết tinh hoá văn hoá: Trong thời đại đồng thau ở miền bắc Việt Nam, đặc điểm văn hóa địa phương còn khá rõ ràng. Miền Bắc Việt Nam là một vùng địa lý có những dạng địa hình khác nhau và lại có tính chất tiếp xúc rộng, mạnh, đó là nguyên nhân và lý do dẫn đến nơi đây là địa bàn của nhiều văn hoá, nhiều tộc người. Bước vào thời đại đồng thau, với sự mở đầu của 4.000 năm văn hiến, trung du và vùng châu thổ sông Hồng có Phùng Nguyên, miền ven biển đông bắc có Hạ Long, miền ven biển Thanh Hoá có Hoa Lộc, miền ven biển Nghệ Tĩnh - Bình Trị Thiên có Bàu Tró... với những loại hình công cụ đá, những kiểu dáng và hoa văn gốm khác nhau... biểu hiện những bộ mặt địa phương văn hoá khác nhau và tộc thuộc khác nhau. Giữa các khu vực văn hoá địa phương này có sự giao lưu tiếp xúc và đan xen văn hoá. Lại có sự giao lưu giữa những nhóm cư dân này với cư dân và văn hoá các miền chung quanh trong khu vực Đông Nam Á và cả Nam Trung Quốc - lúc bấy giờ còn là mảnh đất phi Hoa (và thường được giới nghiên cứu hiện nay quan niệm là thuộc không gian văn hoá Đông Nam Á lúa nước).
Cư dân Tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước, họ đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn, gà... Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hoá dày. Bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú là các di chỉ mộ táng. Đã hình thành các làng nghề, chuyên sản xuất một loại hình công cụ hay đồ trang sức. Những nơi cư trú này thể hiện sự phát triển văn hoá liên tục giữa các giai đoạn, nối tiếp và kế thừa nhau.
Khuôn đúc đồng và rìu đồng ở địa điểm Thành Dền, trung kỳ đồng thau: Cư dân văn hoá thời đại đồng thau miền bắc Việt Nam có đời sống tinh thần phong phú. Điều đó thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật của họ. Đặc biệt, họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa, biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trang trí đồ gốm. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kỹ thuật chế tác đá, đúc đồng...
Vào khoảng thế kỷ VII trước Công nguyên, các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hoà chung vào một nền văn hoá thống nhất- văn hoá Đông Sơn. Đó là lúc các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất văn hoá được thể hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt - Trung cho đến bờ sông Gianh Quảng Bình, mặc dù theo các nhà khảo cổ học, nhà nước này vẫn có những dáng hình địa phương. Nhưng có thể thấy rằng phạm vi phân bố của văn hoá Đông Sơn rộng nhất so với tất cả các văn hoá trước đó.
Sự thống nhất của văn hoá Đông Sơn vẫn là sự thống nhất trong đa dạng. Giới khảo cổ học Việt Nam đã nêu ra những loại hình địa phương của văn hoá Đông Sơn. Trên các vùng giáp ranh ở tây bắc, văn hoá Đông Sơn tiếp xúc với văn hoá Tấn Ninh (văn hoá Điền); ở phía bắc, tiếp xúc với văn hoá Sở, Trường Sa, ở phía nam đèo Ngang (Quảng Bình), nó tiếp xúc với văn hoá Sa Huỳnh (văn hoá Chăm cổ - về sự tiếp xúc này ngày càng có nhiều chứng cứ khảo cổ học và sự lan toả của văn hoá Đông Sơn vào không gian thời gian của văn hoá Sa Huỳnh lớn hơn nhiều so với sự hình dung của giới nghiên cứu từ trước tới nay). Những sự tiếp xúc đó cũng góp phần tăng cường sắc thái địa phương của từng vùng. Nhưng tính thống nhất của Đông Sơn là nổi bật, là căn bản. Cái “mẫu văn hoá chung” hay nói theo thuật ngữ văn hoá học, cái phần “văn hoá tối thiểu” của thời đại Đông Sơn là rất lớn; được biểu hiện ở bộ công cụ, dụng cụ, vũ khí, nhạc khí, đồ trang sức, nghệ thuật chạm khắc, mô típ trang trí Đông Sơn: rìu lưỡi xéo, mũi dáo, dao găm, thạp thố, vòng tay, khuyên tai... và đặc biệt là trống đồng Đông Sơn (trống đồng loại I Heger).
Làng xóm thời kỳ này thường phân bố ở những nơi đất cao, thậm chí ở sườn núi hay trên những quả đồi đất... nhưng bao giờ cũng nằm gần các hệ thống sông lớn hay các chi lưu của chúng. Khoảng cách giữa làng và sông thường từ 1 đến 5 km...Việc chọn nơi cư trú như vậy cho thấy người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự nhiên. Bởi lẽ, đất cao sẽ khô ráo mà lại tránh được ngập lụt vào mùa mưa. Làng thời kỳ này có quy mô tương đương với xóm hay làng nhỏ ngày nay, có chừng vài trăm người. Ngoài ra, còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài khu vực cư trú đông đúc. Đó là hiện tượng thường gặp đối với cư dân nông nghiệp ở những vùng đồng bằng phì nhiêu.
Có lẽ do hiện tượng chiến tranh đã trở nên thường xuyên (thể hiện trong truyền thuyết, trong tỉ lệ cao của các loại vũ khí, đồ dùng cho binh lính - tỉ lệ vũ khí đồng thau chiếm từ 1/3 đến quá 1/2 toàn bộ đồ đồng ở các di tích Đông Sơn tiêu biểu) nên chung quanh làng, có những vành đai phòng thủ, mà khả năng lớn là các luỹ tre làng. Công trình phòng thủ thực sự với hệ thống thành luỹ quy mô thời Đông Sơn ngày nay người ta mới chỉ biết đến có một, đó là thành Cổ Loa.
Tư liệu khảo cổ học về quy mô, cấu trúc nhà ở, mộ táng, kích thước đồ gốm gia dụng... cho thẩy trong xã hội Đông Sơn hình thành và tồn tại chủ yếu là những gia đình hạt nhân, gia đình nhỏ, những gia đình này cũng là những đơn vị sản xuất cơ bản. Khi nông dân tăng tiến về dân số, nông nghiệp phát triển về vườn ruộng ao, chuồng trại, về cây trồng, gia súc và năng xuất (nhờ độ phì nhiêu của đất đai đồng bằng cùng kỹ thuật nông nghiệp phát triển) thì cũng có nghĩa là một hệ thống xóm làng đã phát triển, mô hình tổ chức tập hợp các gia đình hạt nhân (nhà tiểu nông), lan dần từ vùng cao xuống vùng thấp, trong những ngôi nhà biến hoá từ nhà sàn đến nhà đất bằng.
- Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam: Từ hội nhập đa nguồn đến hội tụ văn hoá: Trung tâm hay đỉnh cao của văn hoá thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Đó là văn hoá Sa Huỳnh.
Văn hoá Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau (trên 3.000 năm cách ngày nay) cho tới sơ kỳ thời đại sắt sớm (thế kỷ VI-VII trước Công nguyên đến thế kỷ I sau Công nguyên). Giai đoạn sớm được gọi là văn hoá Tiền Sa Huỳnh, giai đoạn muộn được gọi là văn hoá Sa Huỳnh. Văn hoá Sa Huỳnh thời đại sắt hay văn hoá Sa Huỳnh cổ điển là bắt nguồn từ những di tích tiền Sa Huỳnh với sự tham góp không nhỏ của các nguồn lực văn hoá ngoại sinh.
Vào thời gian cách đây trên 3.000 năm, tại những vùng đồng bằng nhỏ ven biển, trên các đảo và đảo ven bờ hay ở những gò đất cao ven sông, ven bàu nứoc ngọt, những nhóm cư dân kim khí sớm đã lập làng tụ cư. Trồng trọt đã có một vị trí nào đó trong đời sống kinh tế của họ, cuốc đá hình lưỡi mèo tìm thấy trong các địa điểm khảo cổ học thời kỳ này là chứng cử gián tiếp về thuần dưỡng cây trồng. Tuy vậy, do những quy đinh và tác động của điều kiện môi trường tự nhiên…, đánh bắt cá, khai thác thuỷ hải sản, khai thác rừng… vẫn là những hoạt động sống chính. Giai đoạn đầu công cụ đá đóng vai trò chủ đạo với các loại hình chính như rìu có vai, rìu tứ giác, bôn răng trâu, cuốc hình lưỡi mèo… Đồ trang sức đá không nhiều nhưng thể hiện trình độ cao trong kỹ thuật chế tác và quan niệm thẩm mỹ tinh tế. Nhiều loại hình đồ đá tiếp tục được sản xuất và sử dụng trong các giai đoạn muộn hơn. Đồ gốm nổi bật với trang trí văn thừng, văn in mép vỏ sò, tô màu… Đa số đồ gốm đẹp được tìm thấy trong các khu mộ địa như Long Thạnh (Quảng Ngãi), Bàu Trám (Quảng Nam), Bãi Ông (Quảng Nam)… Có thể thấy yếu tố biển đóng vai trò quan trọng trong đòi sống vật chất và tinh thần của cư dân giai đoạn này. Táng thức chính của cư dân văn hoá Tiền Sa Huỳnh là mộ nồi, dạng mộ được coi là cổ típ cho những giai đoạn văn hoá sau. Mộ táng giai đoạn này thường được phát hiện ngay trong nơi cư trú.
Các di tích của văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn sắt sớm phân bố trên một diện rộng ở hầu khắp các loại địa hình từ Thừa Thiên Huế đến khu vực Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh). So với văn hoá Tiền Sa Huỳnh giai đoạn trước, văn hoá Sa Huỳnh có sức lan toả rộng và mạnh hơn nhiều lần. Các địa điểm thời kỳ này thể hiện tính thống nhất văn hoá trong sự đa dạng mang đặc điểm môi trường sinh thái của từng khu vực địa lý, nhóm người và quan hệ văn hoá… Giai đoạn cuối của nền văn hoá này có những diễn biến và thay đổi văn hoá mang tính chất bước ngoặt.
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hình thức mai táng dùng quan tài là nồi, vò, chum bằng đất nung suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn. Tại một số địa điểm như Long Thạnh, Bàu Trám (Tiền Sa Huỳnh), Hậu Xá, Gò Mả Vôi, Bình Châu… (Sa Huỳnh), bên cạnh mộ chum còn thấy mộ đất, song không phổ biến.
Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía đông, đã phát hiện nhiều khu mộ - Những bãi mộ chum rộng lớn, đôi khi nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước từ vừa đến lớn và trong từng loại có những biến thể khác nhau.
Thông thường những chum mộ được tìm thấy ở dạng phân bố theo nhóm từ 2, 3 đến 4 chum. Tuy vậy ở một số khu mộ địa cũng thấy kiểu phân bố lẻ tẻ. Ở một số mộ địa Sa Huỳnh, thời gian chôn mộ diễn ra trong thời gian khá dài - một vài trăm năm, song hiếm có hiện tượng các mộ cắt phá nhau. Dựa vào đây có thể cho rằng, cư dân văn hoá này có cách thức riêng để đánh dấu các ngôi mộ sớm muộn trong cùng một khu vực địa lý. Những địa điểm văn hoá Sa Huỳnh đã được khai quật và nghiên cứu thường chỉ trong diện hẹp, chính vì vậy chưa có đủ dữ liệu để khái quát về cơ cấu, tổ chức xã hội, thân phận, tầng lớp… của những người chết. Tuy vậy, sự phân bố không đều về chất và lượng của đồ tuỳ táng phần nào thể hiện một xã hội có sự phân biệt về của cải và từ đó có khả năng cả thân phận. Giai đoạn cuối, những thế kỷ I - II trước, thế kỷ I sau Công nguyên, những tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ với Trung Quốc (Hán), với miền bắc Việt Nam (Đông Sơn) và với các văn hoá khu vực khác nữa càng làm tăng thêm sự phân tầng trong xã hội và là cơ nền cho sự hình thành Nhà nước sơ khai theo kiểu Chiefdom, loại hình nhà nước điển hình của Đông Nam Á giai đoạn này.
Những chum mộ quan tài gốm chôn đứng thẳng, có nắp đậy hình nón cụt, hình lồng bàn, mâm bồng… thậm chí có thể là đáy của một chum khác được tái tận dụng. Đồ tuỳ táng đặt bên trong, bên ngoài, dưới đấy hay ngay trên nắp chum. Hiện tượng làm biến dạng đồ tuỳ táng thường hay gặp song không phải là quy luật bắt buộc cho tất cả các nơi. Bên cạnh đồ tuỳ táng, vết tích khác tìm thấy trong các chum này khá đa dạng. Có chum chứa than tro - được coi là vết tích hoả táng xác người, có chum chứa xương, răng trẻ con hoặc người lớn, cá biệt có khu vực như Cần Giờ, trong nhiều chum có nguyên những bộ xương người lớn. Nhiều nơi, chum chứa hoàn toàn là cát trắng. Hiện nay, có nhiều cách diễn giải táng thức của văn hoá Sa Huỳnh như hoả táng, cải táng, chôn thẳng, tượng trưng… Có lẽ, tất cả những diễn giải này đều có thể áp dụng tuỳ theo không gian và thời gian. Thông thường các chum mộ là chum đơn, song ở một vài địa điểm xuất hiện chum lồng, cá biệt có nơi đã phát hiện cả một quần thể chum lồng theo kiểu trong quan ngoài quách như ở Gò Dừa (Duy Xuyên - Quảng Nam).
Đồ tuỳ táng trong văn hoá Sa Huỳnh rất phong phú về chất liệu và đa dạng về loại hình. Chất liệu kim loại đồng, sắt, vàng, bạc, chất liệu thuỷ tinh nhân tạo, tự nhiên, chất liệu đá quý mã não, ngọc, cẩm thạch… đồ gốm có nhiều tiến bộ về kỹ thuật, đa dạng hình loại và nhiều kiểu thức đồ án trang trí. Đồ tuỳ táng bao gồm năm nhóm cơ bản. Đồ gia dụng, công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức và đồ minh khí.
Nổi bật nhất trong văn hoá Sa Huỳnh là bộ công cụ và vũ khí bằng sắt. Tại những địa điểm mộ chum Sa Huỳnh giai đoạn từ khoảng thế kỷ III - IV trước Công nguyên, đồ sát chiếm lĩnh về cả số lượng và chất lượng. Đồ sắt được sản xuất chủ yếu bằng phương pháp rèn. Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đẫ được phát hiện đến nay thì số lượng lên tới hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, dao, qua… Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hoá Đông Sơn ở phía Bắc, văn hoá Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt trong văn hoá Sa Huỳnh có nhiều trội vượt. Trong bộ sưu tập hiện vật sắt, nét chủ đạo là tính thống nhất về loại hình và kỹ thuật dù được phát hiện trong / tại nhiều địa điểm mang tính địa phương hay khu vực rõ nét. Có thể nói, sắt đã đóng vai trò thống nhất và kết tinh văn hoá ở miền Trung Việt Nam thời Sơ sử. Nguồn gốc của nghề luyện kim sắt chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, trong một số địa điểm đã tìm thấy dấu tích của rèn sắt và luyện gang tại chỗ, như ở Đại Lãnh - Đại Lộc Quảng Nam. Có thể, luyện kim sắt văn hoá Sa Huỳnh có mối quan hệ chặt chẽ với những khu vực Đông Nam Á lục địa như Thái Lan… Giai đoạn cuối trong loại hình công cụ và vũ khí bằng sắt thể hiện sự giao lưu văn hoá với Trung Hoa thời Hán qua các loại hình như mũi nhọn, dao có chuôi hình vành khăn kiểu Tây Hán.
So với đồ sắt, đồ đồng ít hơn nhiều về số lượng. Tuy vậy trong một vài năm gần đây, tại các khu mộ táng văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn sớm đã tìm thấy nhiều đồ đồng tuỳ táng gồm công cụ, vũ khí, đồ tế lễ… Nhiều đồ đồng được phát hiện cả ở mộ chum, cả ở mộ đất. Phần lớn đồ đồng có thể là sản phẩm của trao đổi với văn hoá Trung Hoa Hán nhu bát đĩa, gương (giai đoạn cực muộn) với văn hoá Đông Sơn như trống đồng, công cụ và vũ khí (giai đoạn sớm hơn). Tất nhiên, điều này không loại trừ việc sản xuất tại chỗ, tuy chứng cứ còn quá ít. Vết tích của đúc đồng được tìm thấy ở Bình Châu, Trảng Đổng Du - Bàu Trám, một vài khuôn đúc bằng đá tìm thấy ngẫu nhiên ở Khánh Hoà, Ninh Thuận…
Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kỹ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang), cư dân văn hoá Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo gốm, chế tác đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều dọi xe chỉ các loại, dấu vết vải từ thô đến mịn còn lại khá nhiều trên các đồ tuỳ táng bằng đồng, bằng sắt. Nghề làm gốm rất phát triển, thể hiện trong mọi khía cạnh từ kỹ thuật, độ nung đến tạo hình, trang trí. Đặc điểm nổi bật của gốm Sa Huỳnh là những đồ gốm lớn đến rất lớn, đòi hỏi kỹ năng khéo léo và kỹ thuật cao trong chế tác và khống chế độ nung. Rất tiếc cho tới nay chưa phát hiện được lò gốm trong văn hoá này. Rất có khả năng đó là loại lò nửa kín và thường nằm sát bờ sông (hoặc những chum gốm lớn này bản thân đã là lò nung giống như một vài trường hợp trên thế giới thời cổ đại). Điều này, một mặt thuận tiện cho việc chuyên chở nguyên liệu và sản phẩm, song mặt khác lò lại rất dễ bị sụt lở trong những đợt lũ lụt lớn nhỏ hàng năm. Bên cạnh chum, nắp gốm mai táng, đồ tuỳ táng gốm rất đa dạng và phong phú bao gồm bát bồng, đèn, bình hình lẵng hoa, bình con tiện, cốc cao chân, nồi, bát, đĩa, cốc… Gốm được trang trí đẹp với những đồ án hoa văn đa dạng, khắc vạch kết hợp tô màu, những đồ án và phong cách trang trí từ giai đoạn Tiền Sa Huỳnh tiếp tục tồn tại và phát triển trong giai đoạn này. Tô màu đen và đỏ thành từng băng uốn lượn hay góc cạnh, xen lẫn những băng bên trong trang trí những đường vạch nhỏ, chấm dải, in mép sò…trở thành phương pháp trang trí phổ biến. Văn thừng đóng vai trò kỹ thuật hơn là trang trí, kiểu loại văn thừng giai đoạn này đơn giản hơn so với giai đoạn sớm. Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao, lửa được không chế một cách chủ động nên có một số đồ gốm cứng như sành.
Cư dân văn hoá Sa Huỳnh là những người có năng khiếu, khéo tay và mỹ cảm phát triển. Họ rất thích dùng đồ trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai, vật đeo hình dấu phảy, hạt chuỗi…) bằng thuỷ tinh, mã não, đá quý, đá, đất nung… Chất liệu được ưa thích nhất là mã não và thuỷ tinh. Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và khuyên tai ba mấu là một loại hình chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù. Trong các di tích văn hoá Sa Huỳnh đã tìm thấy một số lượng lớn hai loại hình này. Trong khi khuyên tai ba mấu phân bố ở hầu khắp các địa điểm thì loại hai đầu thú cho tới nay được phát hiện chỉ ở một số vùng.
Ở di tích Đại Lộc - Quảng Nam và Giồng Cá Vồ - Tp. Hồ Chí Minh phát hiện nhiều khuyên tai hai đầu thú đang chế tác dở. Trong một số di tích đương đại của văn hoá Đông Sơn (Bắc Việt Nam), Philippines, Thái Lan… cũng tìm thấy những kiểu khuyên tai này. Đây được coi là những bằng chứng về sự lan toả ảnh hưởng của văn hoá Sa Huỳnh. Trong đồ gốm, đồ trang sức… dễ dàng nhận thấy những nét chung giữa văn hoá Sa Huỳnh và một số văn hoá khác cùng thời ở Đông Nam Á hải đảo.
Trước đây, các học giả Pháp cho rằng chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh là những người đi biển, đất liền chỉ là nơi chôn cất người chết. Hiện nay, số lượng và vết tích nơi cư trú của văn hoá này khá hiếm hoi. Tuy vậy, vẫn có thể khẳng định qua những chứng cứ gián tiếp rằng văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân sống định cư trên đất liền với xu hướng hướng biển mạnh mẽ. Hệ sinh thái chủ đạo tạo nên nhiều đặc trưng văn hoá là hệ sinh thái Cồn - Bàu. Nền kinh tế đa thành phần kết hợp giữa trồng lúa nước ở các đồng bằng nhỏ duyên hải, trồng lúa kiểu nương rẫy ở vùng đồi gò. Trong các di tích đã phát hiện những công cụ liên quan đến trồng trọt và phá rừng làm nương rẫy bằng đá (tiền Sa Huỳnh), bằng sắt, đồng (Sa Huỳnh) như cuốc, liềm, rìu, dao quắm (rựa)… Cư dân văn hoá này sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển, của rừng, biết phát triển các nghề thủ công, từng bước họ đã mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đảo và rộng hơn với Ấn Độ, với Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển. Ở ven biển miền Trung, vào những thế kỷ trước, sau Công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai.
Văn hoá Sa Huỳnh một mặt có nguồn gốc bản địa từ những nhóm di tích, văn hoá Tiền Sa Huỳnh. Mặt khác, những nguồn lực và ảnh hưởng ngoại sinh cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Với vị thế địa văn hoá cầu nối giữa lục địa và hải đảo và đường bờ biển dài nhiều vụng vịnh, miền Trung Việt Nam ngay từ thời tiền sử dã là nơi gặp gỡ của nhiều luồng cư dân, ngôn ngữ và văn hoá. Những tư liệu khảo cổ học gần đây cho thấy vào giai đoạn cuối của văn hoá Sa Huỳnh sự giao lưu văn hoá (tự nguyện và cưỡng bức) rất mạnh mẽ với văn hoá Đông Sơn, với văn hoá Hán. Ảnh hưởng của những văn hoá này vào văn hoá miền Trung Việt Nam những thế kỷ I -II trước và sau Công nguyên có tác động sâu và rộng hơn rất nhiều so với sự hình dung của chúng ta từ trước tới nay.
Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn rộng của các di tích văn hoá Sa Huỳnh (bằng chứng của sự quần tụ đông đúc dân cư ); sự phong phú về kiểu loại; số lượng lớn của các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu (dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ); vũ khí chiếm một tỷ lệ không nhỏ và với một số kiểu vũ khí ảnh hưởng văn hoá Hán (dấu hiệu của xung đột bên trong và bên ngoài); đồ tuỳ táng phân bố không đều cả về chất và lượng (bằng chứng về sự phân tầng xã hội), tất cả đều là những tư liệu gián tiếp về sự hình thành và tồn tại của một kiểu nhà nước sơ khai trong giai đoạn này.
Chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hoá hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ven biển. Với cốt lõi là văn hoá Bàu Tró mà chủ nhân của các văn hoá trên được các nhà nghiên cứu coi là những người tiền Ma Lai-Pôlinêdi. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, văn hoá Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hoá hậu kỳ đá mới - sơ kỳ đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn hoá trên được coi là tiền Môn - Khmer hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Với vị thế địa văn hoá của mình, dải đất ven biển miền Trung cũng còn là nơi tiếp nhận của không ít nhưng làn sóng di dân từ phương bắc, phương đông và phương Nam trong diễn trình tiền - sơ sử. Tất cả những yếu tố này đã tạo nên một bức tranh văn hoá miền Trung phong phú, đa dạng với những sắc màu riêng. Chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh theo các nhà nghiên cứu nói tiếng Nam Đảo hay Malay - Polynedien với nhiều yếu tố Nam Á.
- Truyền thống văn hoá Đồng Nai: Quá trình chinh phục và chiếm lĩnh miền châu thổ sông Mekong và duyên hải Nam Bộ: Vào khoảng hơn 4.000 năm cách ngày nay, trên đất Nam Bộ đã có những cộng đồng cư dân sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau. Họ là chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm).
Những di tích của văn hoá này phân bố suốt từ vùng đồi gò cao cho tới trung, hạ lưu sông Đồng Nai và các chi lưu và vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Mỗi một tiểu môi trường sinh thái ứng với một mô thức kinh tế-văn hoá thích hợp.
Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ thuộc Đồng Nai có những di tích (cư trú, mộ táng, xưởng) diện tích lớn, tầng văn hoá dày. Đây là vùng phát sinh và quần tụ quan trọng liên tục nhất của văn hoá Đồng Nai với những di tích Cầu Sắt, Suối Chồn, Phú Hoà, Hàng Gòn.
Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn với hai vòng thành và hào sâu ở Lộc Ninh - Bình Long.
Vùng liên kết đồi bazan - đá phiến - phù sa cổ dọc hệ thống Sông Bé - Đồng Nai, nơi tập trung dày đặc các di tích, di chỉ - mộ táng - xưởng thủ công đơn hay đa ngành tiêu biểu nhất là Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa.
Vùng phù sa đất xám thuộc hệ thống sông Vàm Vỏ với những di chỉ, di chỉ kèm mộ đất như An Sơn, Gò Rạch Rừng, Dinh Ông, Rạch Núi.
Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu sông Đồng Nai - Vàm Cỏ và những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu vùng kinh tế - văn hoá mới tạo thành từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên như Cái Vạn, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ …
Mật độ phân bố di tích thời đại kim khí Đông Nam Bộ khá đậm đặc. Nhiều di tích có quy mô lớn hàng vạn mét vuông. Loại hình di tich ở đây cũng khá đa dạng: Di tích cư trú, di tích cư trú - mộ táng, di tích cư trú - xưởng hay di tích công xưởng...
Đồ đá là loại di vật phổ biến và có số lượng lớn. Đây cũng là đặc trưng nổi trội của văn hoá Đồng Nai - Nơi mà công cụ - dụng cụ bằng đá lấn át mạnh mẽ và lâu dài kim loại do thiếu vắng các nguồn quặng đồng và hợp kim bản địa trong toàn miền. Loại hình được coi là đặc trưng và mang phong cách văn hoá Đồng Nai là rìu bôn có vai và không có vai. Tỷ lệ giữa rìu bôn có vai và không vai là một trong những tiêu chí phân giai đoạn và loại hình văn hoá. Loại hình trang sức đá thường gặp là các loại vòng, vật đeo. Tại di tích đồi Phòng Không đã tìm thấy nhiều dấu tích của xưởng chế tác với nghề chuyên làm vòng đá. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, kỹ năng chế tác đồ đá của chủ nhân văn hoá Đồng Nai không thua kém bất cứ nền văn hoá đồng đại nào trong khu vực.
Loại chế phẩm bằng đá đặc sắc trong văn hoá Đồng Nai là đàn đá - nhạc cụ thuộc bộ gõ. Đàn đá có mặt ở nhiều di tích , niên đại cách ngày nay khoảng 3.000 năm.
Nghề đúc đồng và luyện kim đồng đã xuất hiện vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và đồ đồng phổ biến rộng rãi vào khoảng trên 3oo năm cách ngày nay. Nhiều di chỉ đúc đồ đồng đã được phát hiện ở Suối Chồn, Bưng Thơm, Bưng Bạc, Dốc Chùa với những hiện vật gắn với quá trình chế tác như khuôn đúc. Theo các nhà nghiên cứu, lưu vực sông Đồng Nai là một bộ phận hay mắt xích trong chuỗi tiến trình luyện kim ở Đông Nam Á giai đoạn sớm có quan hệ mật thiết với kỹ nghệ đồng thau ở khu vực Vân Nam (Trung Hoa) và Đông Bắc Thái Lan qua đường sông Mekong.
Đồ gốm được trang trí bằng các loại hoa văn thừng, chải, khắc vạch, chấm dải, tô màu. So với những khu vực khác hoa văn gốm Đồng Nai đơn giản và mộc mạc hơn. Giai đoạn muộn của văn hoá Đồng Nai được đặc trưng bởi những khu mộ chum kiểu mộ chum văn hoá Sa Huỳnh với những loại hình hiện vật bằng sắt, bằng đá, mã não, thuỷ tinh bên cạnh những đặc thù riêng biệt mang tính địa phương của văn hoá Đồng Nai. Về sự xuất hiện của những di tích mộ chum này còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất về nguồn gốc và tên gọi. Tuy vậy, một điều dễ nhận thấy là sự có mặt chắc chắn của các yếu tố văn hoá Sa Huỳnh ở vùng biên giữa hai nền văn hoá.
Dựa trên hệ thống tư liệu trực tiếp và gián tiếp, các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng những hình thức quan trọng và phổ biến nhất trong đời sống kinh tế truyền thống Đông Nam Bộ là trồng lúa cạn không dùng sức kéo. Cư dân cổ Đồng Nai phát triển nền nông nghiệp dùng cuốc ở trình độ cao, bên cạnh cây lúa là là các loại rau đậu, cây có quả - củ cho bột. Phương pháp canh tác đặc thù của nông nghiệp nương rẫy là phát - đốt. Chăn nuôi, săn bắt, hái lượm, đánh bắt thuỷ hải sản cũng đặc biệt được coi trọng (số lượng xương sừng trong các di tích Bưng Bạc, An Sơn, Rạch Núi... lên tới hàng chục kg). Hái lượm, đánh bắt cá tôm và nhuyễn thể của sông biển.
Khi so sánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật và văn hoá của những nhóm cư dân trong văn hoá Đồng Nai, nhà nghiên cứu Phạm Đức Mạnh cho rằng cần nhấn mạnh đến đặc thù của quá trình chuyên môn hoá-phân công lao động-phân vùng kinh tế nhập hoà với từng miền sinh cảnh. Cần có sự quan tâm đặc biệt đến mối ràng buộc thiết yếu giữa những ngành kinh tế chủ đạo nông nghiệp với nghề trồng lúa cạn là phổ cập và cả nghề trồng lúa nước ở những tiểu vùng khả thực nhất, (trồng hoa màu, cây có củ - quả và chăn nuôi) và những ngành cung ứng lương thực - thực phẩm tiền sử khác (săn bắn / bắt, đánh cá hái lượm theo phổ rộng những sản phẩm thực - động vật của rừng, suối sông, đầm lầy và biển). Giữa nông nghiệp - khai thác- thủ công (sản xuất đá- công cụ và trang sức; chế luyện kim loại - đúc đồng và rèn sắt, chế tạo gốm - đồ đựng, bàn xoa và dọi se sợi, dệt vải) và thông thương nội, ngoại.
Đời sống tinh thần của cư dân văn hoá Đồng Nai được biết đến qua những hiện vật nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mài dẹt hình gần ovan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu. Tượng động vật như tượng lợn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng ở Dốc Chùa, tượng Long Giao bằng đồng… bên cạnh ý nghĩa nghệ thuật còn mang tải một nội dung tín ngưỡng, nghi lễ nào đấy. Ngoài ra còn phải kể đến sưu tập đàn đá hơn 60 thanh ở Bình Đa, những thanh đàn đá hay đá kêu ở một số địa điểm khác. Bên cạnh đó là sự hội nhập của không ít yếu tố văn hoá trong khu vực như trống đồng Đông Sơn, khuyên tai ba mấu, hai đầu thú của văn hoá Sa Huỳnh…
Văn hoá Đồng Nai đặc biệt là giai đoạn cuối đã trở thành nền tảng cho sự hình thành một kiểu nhà nước sơ khai. Đó là khi kim loại thực sự đã chiếm vị trí quan trọng, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của cư dân, mở rộng những tiểu vùng kinh tế sản xuất và khai thác mới, củng cố những liên hệ kinh tế - văn hoá nội vùng, thành tạo những điều kiện tập trung của cải phân bố giàu nghèo và cố kết quyền lực trung tâm, hình thành cơ cấu xà hội phân tầng. Điều này được thể hiện qua sự có mặt của những hầm mộ bằng đá lớn (cự thạch), sưu tập qua đồng Long Giao, trống đồng Đông Sơn ở Bình Dương, Bình Phước... những khu mộ địa với những bộ đồ tùy táng giàu có ở Dốc Chùa, Cần Giờ, Xuân Lộc...
- Những trung tâm văn hoá thời đại kim khí Thái Lan: Tương tự như ở Việt Nam, bước vào thời đại kim khí những cộng đồng cư dân nông nghiệp sớm hậu kỳ đá mới đã lan toả, mở rộng không gian cư trú của mình ra nhiều vùng. Vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay đã hình thành những trung tâm văn hoá với cốt lõi là những thành tựu luyện kim đồng và sắt và nghề chế tác đồ gốm phân bố ở đồng bằng miền trung Thái Lan, cao nguyên Khorat, trung lưu, thượng lưu sông Chi… Theo các nhà nghiên cứu, Thái Lan có hai khu vực văn hoá cơ bản: Đồng bằng Miền Trung và cao nguyên Khorat ở miền Đông Bắc. Ở mỗi khu vực có thể nhận thấy những nền văn hoá tiền - sơ sử dọc theo những sông lớn và chi lưu của chúng. Ở Thái Lan sông đóng vai trò quan trọng giống như các nước khác ở Đông Nam Á. Khi đề cập tới nội dung văn hoá thời đại kim khí nói chung và luyện kim nói riêng ở Thái Lan cần lưu ý những điểm sau:
Đa phần những tài liệu khảo cổ học được thu thập từ di chỉ mộ táng, hay cư trú xen lẫn mộ táng. Khung niên đại được xác định chủ yếu dựa vào kết quả định từ những mẫu phân tích C14 hay AMS.
Những hiện vật đồng phát hiện được đều là những công cụ định hình và được làm từ đồng thau.
So sánh với Việt Nam, ở Thái Lan cho đến nay chưa thấy chứng cứ về giai đoạn phôi thai của luyện kim. Trong tất cả các nước ở Đông Nam Á, mới chỉ có ở Thái Lan là đã phát hiện được vết tích của các hoạt động khai khoáng đồng có niên đại khoảng 3.000 năm cách ngày nay.
- Đông Bắc Thái Lan - Cao nguyên Khorat: Những cộng đồng cư dân khai khoáng, buôn bán kết hợp trồng lúa: Địa hình: Phía tây và nam là dãy núi Petchbun và Dang Raek, còn phía bắc và đông là sông Mekong.
Tại vùng này đã có sự thay đổi cơ bản về địa bàn cư trú từ giai đoạn săn bắt - hái lượm sang giai đoạn trồng trọt, chăn nuôi từ mái đá xuống dọc các thềm sông cổ. Miền bắc của cao nguyên Khorat là nơi đã được điều tra khá kỹ. Tại đây, đã phát hiện được một loạt những dịa điểm cư trú từ khá nhỏ (0,5 - 0,8ha) ở những gò nhỏ đến những làng phòng thủ lớn (đến 117ha).
Khu vực này là nơi có nhiều phát hiện lớn những chứng cứ về hoạt động khai thác và luyện đồng. Trong đó đáng chú ý nhất là Phu Lon bên bờ sông Mekong.
Phu Lon là một khu mỏ đồng nằm bên bờ sông Mekong, mỏ đồng phân bố trên hai quả đồi Phu Lon I và Phu Lon II. Tại đây đã tìm thấy những hiện vật liên quan đến các hoạt động khai khoáng, luyện quặng, đúc đồng. Đồng thời dấu tích cư trú cũng đã được phát hiện, đó là những công cụ sản xuất bằng đá và bằng đồng thau, những mảnh vòng đá cùng nhiều mảnh gốm. Dựa vào kết quả phân tích niên đại C14 (1750-1425 trước Công nguyên) và những mẫu ở lớp trên, các nhà khảo cổ học tham gia khai quật cho rằng việc khai khoáng và luyện kim ở đây tồn tại trong suốt thiên niên kỷ II-I trước Công nguyên). Khu mỏ này bao gồm những hầm mỏ dài hàng chục mét trong đá mẹ và có ít nhất ba công đoạn khai khoáng. Quặng được nghiền bằng chày đá, được nấu chảy trong nồi bằng đất nung. Khu mỏ đã được khai thác trong một thời gian khá dài.
Một địa điểm mộ táng và cư trú xen lẫn mộ táng quan trọng ở khu vực này là Non Nok Tha ở tỉnh Khon Ken, địa điểm này nằm gần nguồn đồng Loei. Qua hai lần khai quật, người ta đã tìm thấy rất nhiều công cụ đồng như rìu đồng, khuôn đúc đồng, nồi nấu đồng. Loại rìu phổ biến là rìu xoè cân, trên thân gần chuôi có 2 hoặc 3 đường chỉ nổi trang trí (kiểu rìu phổ biến ở lưu vực sông Đồng Nai) và rìu có vai thân hẹp lưỡi dài (loại này đã thấy ở Samrong Sen, Campuchia).
Đồ gốm ở đây cũng rất nhiều và có nhiều loại hình nguyên do được tìm thấy trong mộ. Mặc dù gần địa điểm Ban Chiang, nơi có truyền thống gốm tô màu phát triển, nhưng gốm Non Nok Tha phần lớn để trơn hay trang trí khắc vạch.
Những người khai quật dựa trên một loạt niên đại nhiệt huỳnh quang đã cho rằng đây là địa điểm chứa đồ đồng sớm nhất, ngay ở lớp mai táng sớm khoảng 2500 năm trước Công nguyên. Sự diễn giải về niên đại cũng như về văn hoá của địa điểm này thực sự khó khăn bởi những mâu thuẫn trong chuỗi niên đại C14 và Nhiệt huỳnh quang. Dựa vào những niên đại AMS mới, Higam cho rằng nghĩa địa ở Non Nok Tha có niên đại thiên niên kỷ II trước Công nguyên, những mộ sớm nhất có thể có niên đại 2.000-1.500 BC, song phần lớn các mộ, kể cả những mộ có hiện vật đồng nằm trong khoảng từ 1.500 đến 1.000 BC. Nếu so sánh với những địa điểm miền bắc Việt Nam, những chuỗi văn hoá ở Non Nok Thà có thể cùng thời với văn hoá Đồng Đậu và Gò Mun từ 3.500-2.700 cách ngày nay.
Non Nok Tha cho chúng ta chứng cứ về tổ chức và quy mô của hoạt động đúc đồng bản địa. Theo các nhà nghiên cứu, những khuôn đúc đã tìm thấy ở Đông Nam Á cho thấy một phong cách đúc đồng bằng khuôn kín, khác với những vùng khác, như Ấn Độ, có khi đúc đồng bằng khuôn hở, một mang. Tỉ lệ phần trăm của thiếc khá cao trong hợp chất đồng thau cũng được xem là đặc điểm riêng của Đông Nam Á.
Một địa điểm quan trọng khác của khu vực đông bắc Thái Lan là Bản Chiang, một địa điểm nổi bật với truyền thống gốm vẽ màu độc đáo.
Địa điểm Bản Chiang, làng Bản Chiang, Udon Thani, đông bắc Thái Lan. Đây là một trong một số địa điểm đã được khai quật ở cao nguyên Khorat. Văn hoá Ban Chiang phát triển trong thời gian từ 3.600 BC đến 200 AD. Văn hoá này phân bố ở bốn tỉnh Udon Thani, Sakon Nakon, Nakhon Pahnom và Khon Kaen và có nhiều nét tương đồng với những văn hoá cùng thời ở Đông Nam Á. Trong giai đoạn sớm nhất chưa có đồng song gốm rất phát triển.
Niên đại những lớp văn hoá sớm muộn của Ban Chiang được xác định chủ yếu qua kết quả C14 và khác nhau giữa những người, những lần khai quật. Trước đây, địa điểm này thường được đưa ra để chứng minh về sự xuất hiện của nghề luyện kim màu rất sớm ở Đông Nam Á, nhưng hiện nay, xu hướng này đã bị khá nhiều người phản đối và đại bộ phận các học giả cho rằng đúc đồng xuất hiện ở Đông Nam Á vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và vào khoảng 3.000 năm cách ngày nay, đúc đồng theo kỹ thuật khuôn sáp đã xuất hiện. Từ thế kỷ I Công nguyên đã diễn ra những thay đổi quan trọng về văn hoá xã hội và luyện kim đen phát triển.
Khu vực này còn có địa điểm Bản Na Di, một địa điểm có vai trò quyết định trong việc xác định lại trật tự niên đại của chuỗi phát triển từ đồng thau sang sơ kỳ thời đại đồ sắt.
Bản Na Di cách Bản Chiang 20 km về phía nam, tại đây đã xác định được năm lớp văn hoá tiền sử dày 4m. Nhiều hố đào được tìm thấy, một số có lớp than dày. Nhiều xác người lớn (phụ nữ, đàn ông) trẻ em và trẻ con. Trẻ con đựơc chôn ngay gần người lớn mà không để trong vò. Mộ táng được tìm thấy ở lớp 6, 7 gồm 60 mộ. Mộ có hướng bắc-nam. Trong khu vực mộ đã phát hiện 1 khu chế tác đồng gồm lò bằng đất, muôi nấu và khuôn có niên đại khoảng 1.000 trước Công nguyên .
Từ giai đoạn mộ táng có 10 niên đại C14, 1313-903 trước Công nguyên. Lúc đầu những người khai quật (Higham và Kijngam) xác định giai đoạn mộ táng có niên đại 900-100 trước Công nguyên. Hiện nay theo Higham nghĩa địa có niên đại 600-400 trước Công nguyên thuộc giai đoạn hậu kỳ đồng - sơ kỳ sắt.
Vấn đề gây nhiều tranh cãi nhiều nhất chính là niên đại tuyệt đối của hai địa điểm Bản Chiang và Non Nok Tha liên quan đến nguồn gốc và niên đại của luyện kim màu và luyện kim đen ở Đông Nam Á. Hiện nay có tới ba hệ niên đại sớm, giữa và muộn cùng tồn tại. Higham cho rằng, niên đại các lớp ở hai địa điểm kể trên về cơ bản giống với phổ hệ đồng thau lưu vực sông Hồng. Tức là đồ đồng xuất hiện vào giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Theo Hà Văn Tấn, những lớp dưới cùng của Ban Chiang hay lớp đáy của Ban Na Di có những hình phảng phất phong cách Phùng Nguyên. Còn giai đoạn III Ban Chiang hay lớp 7 và 8 của Bản Na Di có thể tương đương với Đồng Đậu hay Gò Mun. Giai đoạn IV Bản Chiang trở đi có thể tương đương với văn hoá Đông Sơn và giai đoạn V Bản Chiang tương đương với giai đoạn muộn của văn hoá Đông Sơn
(15).
Đông Bắc Thái Lan là một trung tâm kim khí với một quá trình phát triển liên tục từ đầu thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt, trung tâm này có mối quan hệ giao lưu chặt chẽ với các nhóm cư dân ở khu vực Vân Nam phía bắc với cư dân vùng hạ lưu sông Mekong qua dòng chủ lưu là sông Mekong.
- Đồng bằng Miền Trung: Nơi tụ cư của những cộng đồng đúc đồng, trồng trọt và đánh cá: Tại địa bàn này có những địa điểm chính như: Non Pa Wai- Giai đoạn II; Nong Nor; Nil Kham Haeng, Khok Phlap có chuỗi diễn tiến văn hoá liên tực từ sớm đến muộn theo phân kỳ của các nhà nghiên cứu:
Giai đoạn sớm được gọi là thời đại Đá mới 2.500-1.500 BC. Giai đoạn giữa cho thấy sự phát triển của kỹ nghệ đồng từ năm 1.500-1.000 BC. Giai đoạn muộn 1.000 BC sắt bắt đầu được sử dụng.
Ở đây, có lẽ lô gic hơn để lấy mốc 500 BC phân chia giai đoạn giữa và muộn, điều đó sẽ phù hợp hơn với sự xuất hiện của việc xuất hiện của hiện vật bằng sắt trong cả khu vực Đông Nam Á.
Phần lớn các địa điểm có quy mô từ 0,33 đến 6,3 ha và mở rộng hơn ở giai đoạn giữa và muộn cho đến 10-20 ha. Một số học giả cho rằng những địa điểm lớn chứng tỏ sự lớn mạnh của phức hợp chính trị - xã hội và sự phát triển kinh tế bộ lạc.
Trong nhóm địa điểm ở vùng này, nổi bật hơn cả là địa điểm Non Pa Wai: Có sự không đồng nhất trong mô tả về địa tầng trong hai sách của Higham 1989 và 1996. Trong mô tả năm 1989 chúng ta thấy:
Non Pa Wai là một đồi rộng chừng 5 ha chứa vết tích hoạt động đúc đồng dày tới 3m. Tại đây, đã phát hiện hàng trăm mảnh của khuôn đúc đất nung hai mang, muôi nấu đồng, ống thổi, quặng đồng, khuôn đúc thỏi đồng nguyên liệu. Phía dưới tầng này là nghĩa địa, trong có mộ chôn theo khuôn đúc.
Trong mô tả năm 1996, tác giả cho biết:
Địa tầng: Lớp sớm nhất dày từ 2-3m, kéo dài khoảng 8 thế kỷ. Đây là tầng cư trú sớm và nghĩa địa.
Giai đoạn bỏ hoang, khoảng 5 thế kỷ. Khi địa điểm được tái cư trú, có một số mộ đã cắt vào đó. Một mộ chứa bộ xương người đàn ông khoảng 25 tuổi, đồ chôn theo có khuôn 2 mang đất nung đúc rìu. Mộ khác có chôn theo rìu như thế.
Lớp mà từ đó có những mộ cắt vào chứa xỉ đồng và muôi múc đồng báo hiệu hoạt động luyện kim kéo dài 8 thế kỷ và dày 2-3m
Mô tả năm 1989
Mô tả 1996
Trên: Vết tích của hoạt động đúc đồng dày 3m.

Dưới: Dưới lớp này là nghĩa địa mà trong đó đã tìm thấy một bộ xương chôn theo 2 khuôn đúc rìu đất nung
Lớp muộn: Mộ táng, một số mộ cắt phá vào lớp giữa. Hoạt động luyện kim.
Lớp giữa: Giai đoạn không có vết tích văn hoá khoảng 500 năm. Bị một số mộ muộn cắt vào. Trong đó có mộ có vết tích của một người đàn ông 25 tuổi, chôn cùng hai khuôn đúc rìu bằng đất nung.
Lớp sớm nhất: Địa điểm cư trú và nghĩa địa dày 2-3 m.
Dựa vào một vài niên đại C14, Higham cho rằng hoạt động đúc đồng bắt đầu ở đây vào giai đoạn 1.500-1.000 BC.
- Đồng bằng Tonle Sap: Tình hình nghiên cứu ở Campuchia gần như bị tê liệt do nguyên nhân chính trị. Do vậy tư liệu hầu như không có ngoại trừ những tư liệu cũ. Vài năm gần đây, hoạt động khảo cổ học ở nước này đã bắt đầu trở lại, song kết quả chưa được công bố đầy đủ, ngoại trừ Dự án khảo cổ học hạ lưu sông Mekong (LOMAP).
Samrongsen: Tại đây đã tìm thấy một số hiện vật đồng, gồm rìu có họng, giáo có họng, vòng tay, chuông và muôi nấu đồng vẫn còn đọng xỉ cũng như khuôn đúc rìu đồng. Niên đại C14 của vỏ sò từ 1749-1235 BC, phù hợp với niên đại ở đông bắc Thái Lan. Một số đồ trang sức giống như ở Khok Phanom Di.
O Pie Can: Khuôn đúc sa thạch đúc rìu và liềm cũng như mảnh muôi nấu đồng.
O Yak: Vòng tay đồng tìm được cùng với mộ hung táng gần O Pie Can.
Nhìn chung, trong thời đại đồ đồng làng cư trú phân bố trên những vùng đất cao gần những vùng thấp ở trung lưu các dòng sông. Sự lựa chọn vùng cư trú cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa phương thức kiếm sống và môi trường. Theo White, yếu tố chủ đạo nhất trong lựa chọn nơi sinh sống là môi trường ngập nước thường xuyên nhưng không ngập sâu. Lúa hoang vẫn mọc ở rìa các sông và mọc vào mùa mưa, ngập nước.
Dữ liệu cả ở mộ táng và nơi ở cho thấy đây là những cộng đồng nhỏ, không có dấu hiệu về trật tự xã hội và cai trị trung tâm, họ chọn những vùng đất thấp gần nguồn nước và ngập nước để thúc đẩy trồng lúa nước. Trên thực tế vết tích lúa gạo đã tìm được ở một số địa điểm hậu kỳ đá mới và đồ đồng. Chứng cứ thực vật và động vật cũng cho thấy hoạt động sống bao gồm gặt lúa, nuôi gia súc, ít nhất có bốn loại con vật đã được thuần dưỡng như lợn, chó, gà, săn bắt, bẫy, đánh cá và thu lượm nhuyễn thể. Cần lưu ý rằng săn bắt và hái lượm luôn đóng vai trò rất quan trọng ở Đông Nam Á không chỉ trong thời tiền sử.
Đa phần các địa điểm thời đại đồ đồng ở Thái Lan là khu mộ táng. táng thức phổ biến là chôn nằm ngửa từng nhóm thành hàng. Đồ tuỳ táng có gốm, hiện vật đá và đồng. Đồ tuỳ táng phần nào thể hiện phân hoá tài sản cá nhân.
Niên đại khởi đầu của đúc đồng nằm trong khoảng năm 1.500-1.000 BC. Sự tồn tại của những tổ hợp khai khoáng, những nơi đúc đồng... cho thấy sự phát triển của truyền thống đúc đồng bản địa. Phần lớn là khuôn đúc hai mang bằng đá sa thạch. Phần lớn vòng đồng được đúc dựa theo nguyên mẫu đá và nhuyễn thể.
- Thời đại đồ sắt ở Thái Lan và một số khu vực Đông Nam Á lục địa: Ngược lại với giai đoạn trước, giai đoạn này những địa điểm đã biết chủ yếu là di chỉ cư trú, rất ít mộ táng được khai quật trên diện rộng.
Những địa điểm có thành bao (kiểu thành đắp đất tròn ở Bình Dương) rất khó để tìm hiểu về tính chất và niên đại của chúng. Không hề có bất cứ tư liệu chính xác nào về niên đại và thậm chí cấu trúc của những thành đất đắp. Những thành đất đắp này tập trung ở lưu vực sông Mun, mở rộng đến lưu vực sông Chi, đồng bằng Siem Riep và miền Trung Thái Lan. Theo các học giả những thành đất đắp này có lẽ để giữ nước. Phần lớn những địa điểm này đều bị bỏ sau thời đại sắt. Ví dụ như ở Noen U Loke, mộ táng thời đại sắt đã được tìm thấy phía dưới lớp mặt 1m trong các vòng đất.
Trong giai đoạn này có một số địa điểm điển hình: Non Chai, Ban Chiang Hian, Non Dua.
Non Chai: Địa điểm điển hình của thời đại sắt, có diện tích (18-38.5 ha) rộng hơn nhiều so với các địa điểm thời đại đồng trước đó. Theo báo cáo khai quật của Bayard năm 1978 thì địa điểm có cấu trúc hình ôvan 1000 x 500m và cao 15m so với vùng xung quanh. Năm 1979, trong khi tiến hành khai quật Van Liere nhận thấy vết tích của hào hay mương nước bao quanh. Năm 1977, khai quật 76m2 . Tại địa điểm này đã thu được số lượng lớn đồ gốm, tàn tích động vật và chứng cứ về đúc đồng và luyện sắt. Dựa vào diễn biến hiện vật gốm và địa tầng, người ta chia ra thành 5 giai đoạn văn hoá, thời đại đồng ở lớp tận cùng.
Theo niên đại C14, giai đoạn I có niên đại 400 BC, thậm chí 500 BC, giai đoạn II-III 300-200BC, giai đoạn IV 200-1 BC và giai đoạn V AD 1-200.
Gốm ở đây khác hẳn so với những địa điểm thời đại đồng thau Non Nok Tha, Bản Na Di và Bản Chiang. Phần lớn đồ gốm trang trí bằng áo gốm đỏ hay hoạ tiết tô màu hình học, giai đoạn cuối là gốm trơn hay gốm văn thừng. Trong đất làm gốm pha vỏ trấu. Cả đồng và sắt đều tìm thấy ở giai đoạn lớp I. Từ giai đoạn lớp II, đã tìm thấy mảnh muôi nấu đồng và những mảnh khuôn đúc đã thấy ở giai đoạn lớp III. Từ lớp II có hạt chuỗi thuỷ tinh. Đời sống chủ yếu dựa trên gạo và cá.
Non Chai là một địa điểm quan trọng thời đại sắt ở nhiều góc độ. Niên đại chính từ 400BC đến 200AD. Phát triển kỹ nghệ luyện kim màu và đen. Luyện kim đồng sử dụng khuôn hai mang và kỹ thuật sáp. Một loạt những địa điểm tương tự như thế đã được phát hiện phân bố dọc theo rìa của châu thổ sông Chi và sông Mun.
Bản Chiang Hian: Địa điểm thuộc trung lưu sông Chi, đây là địa điểm có thành và hào bao quanh. Diễn biến địa tầng và hiện vật giống như Non Chai. Xương trâu đã xuất hiện ở lớp 8, còn ở lớp 7 đã có sắt. ở các lớp 6-8 tập trung những khuôn đúc đồng đúc chuông và vòng tay cũng như mảnh muôi nấu đồng. Giai đoạn gốm III ở lớp IV và V. Tổ hợp gốm khác hẳn với giai đoạn II và có những loại gốm trắng tương tự Non Dua thuộc nửa sau của Thiên niên kỷ I AD. Niên đại của địa điểm 400 BC-200 AD và có thể liên quan đến hào. Theo Higham có thể liên hệ với cấu trúc Cổ Loa.
Tại Thái Lan còn nhiều các địa điểm thời đại sắt như Noen U Loke, Ban Don Ta Phet... Tại những địa điểm này, hiện vật cho thấy mối quan hệ giao lưu văn hóa và trao đổi buôn bán với thế giới bên ngoài đóng vai trò cực kỳ quan trong. Ở Ban Don Ta Phet đã tìm thấy một số lượng lớn hiện vật có nguồn gốc từ Địa Trung Hải, Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam...
Đối với Thái Lan, đặc biệt là Đông Bắc Thái Lan, công nghiệp khai khoáng luyện kim đen và công nghệ làm muối có vai trò cực kỳ quan trọng. Sắt, đồng đỏ, đồng thau và muối được xem là tảng nền kinh tế đẩy nhanh quá trình hình thành những xã hội tiền nhà nước hay dạng Tù trưởng Quốc / hay Lónh chủ (Chiefdoms) của những cộng đồng dân cư đông đúc và lớn mạnh. Đây là cơ sở cho sự hình thành nền văn minh sớm ở đông bắc Thái Lan, tương tự như ở một số khu vực khác của Đông Nam Á
16.
I.5. Đông Nam Á hải đảo: Phương thức kiếm sống và quá trình thích nghi với môi trường tự nhiên, làn sóng di dân và lan toả hội nhập văn hoá
Nhìn chung các học giả cho rằng, những hiện vật kim loại đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á hải đảo tương đối muộn, vào những thế kỷ cuối trước Công nguyên. Mặc dù quặng đồng khá phổ biến ở Luzon, Nam Java và Sumatra, thiếc lại có ở dãy đảo Bangka, Belitung ở phía bắc Malaysia đến miền trung Thái Lan.
Thời đại kim khí khu vực này mang những đặc điểm văn hoá khá độc đáo, sự phân kỳ và tên gọi các giai đoạn thể hiện quá trình tiếp thu và hội nhập nhiều những yếu tố ngoại sinh trên nền nội sinh vững chắc. Tiền sử Indonesia chẳng hạn đã được Soejono phân kỳ và đặt tên theo kiểu kiếm sống thành: săn bắt - hái lượm; nông nghiệp; và thủ công nghiệp…
Dựa vào những phát hiện khảo cổ tại khu vực, các học giả đã phác hoạ diễn biến văn hoá giai đoạn từ thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I sau Công nguyên tức Giai đoạn kim khí sớm (hay cổ kim loại) Giai đoạn kim khí sớm bắt đầu bằng việc xuất hiện của những hiện vật đồng đỏ và đồng thau (theo Bellwood đồng đỏ và đồng thau không thể phân biệt bằng mắt trong bối cảnh khảo cổ học và việc sử dụng chung thuật ngữ “bronze” có thể gây ấn tượng trong một số trường hợp, nhất là ở Indonesia). Rất nhiều những hiện vật được gọi là “bronze” có thể đơn giản là copper, song nếu không có phân tích thì dễ bị nhầm lẫn. Hiện vật bằng sắt và luyện kim đen có nhiều khả năng là từ những nguồn trực tiếp ở Đông Nam Á lục địa trong khoảng những thế kỷ cuối trước Công nguyên. Học giả Bellwood đã lấy mốc năm 500 trước Công nguyên, mặc dù cho tới nay chưa có hiện vật kim loại nào ở hải đảo có niên đại sớm như vậy. Bellwood cũng cho rằng những tổ hợp thời đại kim khí ở đây có thể được gọi là thuộc “giai đoạn Đồng - Sắt” theo thuật ngữ của Heekeren (1958). Mặc dù kim loại xuất hiện muộn và có nguồn gốc từ bên ngoài, song cư dân hải đảo đã chế tác nhiều loại hình địa phương độc đáo như trống đồng Pejeng, bao ngón tay, vòng đeo tay bản rộng… Những năm gần đây đã có những cuộc khai quật có hệ thống được tiến hành ở một số địa điểm nằm trong thời gian chuyển biến từ Sơ sử sang Lịch sử sớm ở bán đảo Thái Lan, Malay và Indonesia. Tư liệu của những cuộc khai quật này giúp soi rọi nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ văn hóa, nguồn lực và nền tảng hình thành nhà nước sớm ở Đông Nam Á hải đảo.
Địa điểm Khuan Luk Pad (Đồi hạt chuỗi) ở tỉnh Krabi, bên bờ tây nam của bán đảo Thái Lan. Địa điểm này được xác định là nơi sản xuất hạt chuỗi đá và thủy tinh vào nửa đầu thiên niên kỷ I. Sự chuyển việc sản xuất hạt chuỗi từ Ấn Độ sang các địa điểm ven biển Đông Nam Á được các nhà nghiên cứu diễn giải là do tăng cường sự năng động của hoạt động trao đổi, buôn bán liên vùng và nội vùng.
Phần lớn những địa điểm cư trú lớn với chứng cứ về buôn bán và phát triển các ngành nghề thủ công đã được phát hiện dọc theo eo biển Malacca, là con đường huyết mạch nối giữa biển Đông Nam Á với Ấn Độ Dương. Tại Indonesia, những địa điểm tương tự cũng đã được khai quật ở bờ biển Sumatra (ví dụ như Karang Agung, Air Sugihan) và Tây Java (Buni) và xa hơn nữa về phía đông ở Sembirang, bờ bắc Bali... Điều đó cho thấy có sự nở rộ của những trung tâm dân cư lớn quanh đường giao thông quan trọng trong mạng lưới trao đổi, buôn bán từ nội địa ra đến ven biển và biển.
Nhỡn chung, khảo cổ học Đông Nam Á hải đảo thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thiên niên kỷ I sau Công nguyên nổi bật lên một số vấn đề căn bản. Đó là: 1. Sự lan toả của cư dân ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian) trong mối liên hệ với nghề trồng lúa nước và 2. Truyền thống mộ chum; 3. Quá trình Nam tiến của trống đồng Đông Sơn với sự hình thành nhà nước sớm...
I.5.1. Nguồn gốc và sự lan toả của cư dân Nam Đảo và trồng lúa nước: Các nhà nghiên cứu khá thống nhất khi cho rằng, nghề trồng lúa nước cùng với sự hình thành những cộng đồng cư dân nông nghiệp sớm ở Đông Nam Á hải đảo là kết quả của quá trình lan toả của các nhóm người thuộc ngữ hệ Nam Đảo từ lục địa và hội nhập giữa các nhóm người làm nông - dân di cư với các nhóm người săn bắt, hái lượm bản địa. Các nhà nghiên cứu mặt khác có nhiều ý kiến khác nhau về con đường di dân và lan toả văn hoá này, trong số đó nổi bật là ý kiến của học giả Bellwood và Solheim.
Trong những nghiên cứu gần đây của mình Bellwood đã khẳng định thêm những luận điểm của mình về sự lan toả của cư dân ngữ hệ Austronesian và trồng lúa nước ở Đông Nam Á hải đảo. Theo đó, sự lan toả đầu tiên của những ngôn ngữ Austronesian, Tai - Kadai (và có thể cả Austroasiatic) bắt đầu trong những cộng đồng đá mới trồng lúa ở Trung Hoa phía nam sông Dương Tử vào khoảng giữa năm 5.000 và 4.000 BC. Blust khôi phục lại quá trình này. Bắt đầu từ Đài Loan (nơi phân bố của những ngôn ngữ cổ Austronesian (gồm cả Proto Austronesian), sau đó là Phillippines, Borneo và Sulaweri, cuối cùng chia đôi: Đi về phía tây tới Java, Borneo và Sulaweri và đi về Đại dương Oceania. Bellwood đã bổ sung rằng, trong giai đoạn ngôn ngữ khi cắt từ phần Proto An có thể đã xuất hiện một số thuộc địa với kinh tế nông nghiệp di chuyển qua eo Formosa từ Trung Hoa lục địa đến Đài Loan và ở đây đã phát triển thành (những) ngôn ngữ Austronesian sớm (ban đầu), và sau một vài thế kỷ một số cư dân nói một trong những ngôn ngữ này đã làm những đợt di chuyển đầu tiên đến Luzon và Phillippines. Sự di chuyển này đã chia Austronesian thành hai: Formosan và Malayo-Polynesian.
Chứng cứ khảo cổ học thời đại đá mới ở Đài Loan bắt đầu khoảng 3.000-4.000 BC với những tổ hợp khảo cổ dạng nam Trung Hoa, có thể lúc đầu được mang tới bởi những nhóm nhỏ của những cư dân nông nghiệp đi qua eo biển Formosa từ Phúc Kiến. Vào khoảng 3.000 năm TCN ở Đài Loan đã xuất hiện lúa gạo. Từ giữa năm 2500-1500 TCN, những tổ hợp khảo cổ học có đặc trưng là đồ gốm trơn và áo đỏ chứ không phải là loại gốm Đài Loan sớm văn thừng đã xuất hiện ở vùng bờ biển và những vùng thuận lợi trong đất liền của Phillipines, Sulawesi, Bắc Borneo, Halmahera và (với lợn nuôi) tới cực nam là Timor. Chưa có một địa điểm nào giai đoạn này được phát hiện ở Indonesia, song những nghiên cứu bào tử phấn hoa ở vùng cao nguyên tây Java và Sumatra cho thấy có một sự phát quang rừng làm nông nghiệp ít nhất là vào khoảng thiên niên kỷ II trước Công nguyên hay có thể còn sớm hơn nữa.
Nguyên nhân lan toả theo Bellwood: Những thuộc địa nông nghiệp của cư dân nói tiếng Austronesian (Nam Đảo) có một sự di cư liên tục, trong một giai đoạn khoảng 4.000 năm, từ vùng tâm điểm nông nghiệp Nam Trung Hoa qua hàng ngàn cây số bờ biển và đi qua vùng biển rộng đông tiến vào Thái Bình Dương.
Chứng cứ khảo cổ học cho thấy cư dân đá mới đã chiếm cư toàn bộ vùng Đông Nam Á lục địa, kể cả bán đảo Mã Lai ít nhất là từ 2.000 trước Công nguyên. Những tương đồng nổi bật về khảo cổ học của tất cả những văn hóa này nằm ngay trong đất liền hơn là đi qua tới những đảo. Có thể giả thiết rằng phần đông những cư dân nông nghiệp của Thái Lan, Đông Dương và Bán đảo Mã Lai lúc bấy giờ nói những ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với ngữ hệ Austroasiatic hiện đại. Ở miền Trung và Nam Việt Nam, tổ tiên của cư dân nói tiếng Chamic Austronesian xem ra đã xâm nhập vào khu vực nơi đã có cư dân ở đông đúc là những cư dân nông nghiệp sớm hơn. Sự hiện diện có trước của những cư dân nông nghiệp ở Mã Lai và Việt Nam đã giải thích tại sao lục địa Đông Nam Á chỉ có những cộng đồng cư dân tiền sử Austronesian nhỏ cư trú xen cài cùng cư dân Austroasiatic.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, trồng lúa ở Đông Nam Á lục địa có trước nghề trồng lúa ở Đông Nam Á hải đảo và sự xuất hiện của lúa được coi là kết quả của sự xâm nhập của cư dân Nam Đảo từ nam Trung Hoa qua Đài Loan vào hải đảo vào khoảng 2.500-2.000 BC. Tuy vậy, Higham cho rằng không có những chứng cứ về trồng lúa ở thời gian trên ở Đài Loan tại các địa điểm thuộc văn hoá Dapenkeng. Soilhem cũng theo thuyết truyền bá song ông cho rằng cư dân thuộc ngữ hệ Austronesian đã tới Đông Nam Á hải đảo và đảo Thái Bình Dương dọc qua bờ biển phía đông của Đông Nam Á lục địa hơn là qua bán đảo Đài Loan
17. Vết tích lúa tìm thấy trong đồ gốm ở một số địa điểm như Gua Sireh (Sarawak) có niên đại 2923-1603 trước Công nguyên18.
I.5.2. Truyền thống mộ chum: Truyền thống chôn cất sử dụng quan tài là những chum gốm lớn phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á hải đảo, ở Đông Nam Á lục địa táng thức này không phổ biến lắm và chỉ thấy đậm đặc ở miền Trung và Nam Việt Nam (trong văn hoá Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh), một số vùng ở Thái Lan... Dù chung một táng thức nhưng có rất nhiều biểu hiện mang tính địa phương, tạo thành những dạng văn hóa mộ chum khác nhau.
Truyền thống mộ chum ở Đông Nam Á được chia thành hai giai đoạn phát triển. Giai đoạn sớm có niên đại vào khoảng thiên niên kỷ I-II TCN với hành loạt các di tích ở Phillippines, Indonesia, Malaysia và ven biển Miền Trung Việt Nam. Chum vò có nhiều dạng khác nhau và có loại trang trí hình người rất riêng ở Phillippines, thể hiện quan điểm thẩm mỹ độc đáo và tín ngưỡng về sự tồn tại của linh hồn.
Trong những mộ chum giai đoạn sớm này, hiện vật tuỳ táng phần lớn là đồ gốm, trang sức bằng đá ngọc và mã não, chưa thấy đồ tuỳ táng bằng kim loại, thuỷ tinh và canelia. Giai đoạn muộn (hay kim khí sớm, kim khí phát triển…), mộ chum phân bố rất rộng, có nhiều khu mộ địa lớn với khối lượng lớn và đa dạng về loại hình của đồ tuỳ táng và đã xuất hiện hiện vật chôn theo bằng kim loại, thuỷ tinh… Nhiều hiện vật có nguồn gốc ngoại lai cũng đã được tìm thấy
19. Đồ tùy táng trong các khu mộ chum giai đoạn này ở Đông Nam Á hải đảo giống như trong các khu mộ chum văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam phản ánh rõ ràng sự phân hóa về của cải và sự hình thành những xã hội phân tầng.
I.5.3. Quá trình Nam tiến của trống đồng Đông Sơn với sự hình thành nhà nước sớm: Cho tới nay, đã có một số lượng đáng kể trống đồng Đông Sơn được phát hiện ở Đông Nam Á. Phần lớn trống tìm thấy là đồ tùy táng của mộ. Những mộ có trống chôn theo đã được xác định là mộ của thủ lĩnh hay của người đứng đầu trong xã hội, dạng “Big man”
20. Sự lan tỏa của trống đồng Đông Sơn một mặt minh chứng cho sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Đông Sơn ở Đông Nam Á, mặt khác trống đồng Đông Sơn được xem như những biểu tượng quyền lực và gắn với sự hình thành nhà nước sớm ở Đông Nam Á.
Những trống Đông Sơn ở Đông Nam Á mà cụ thể là ở Lào, Thái Lan, bán đảo Malay và Indonesia thường có niên đại từ thế kỷ III trước Công nguyên đến thế kỷ I Công nguyên. Sự có mặt của những trống này được giải thích bằng nhiều nguyên nhân. Đó là, do áp lực bành trướng của Trung Hoa (Hán), văn hóa Đông Sơn đã Nam tiến và do quá trình lớn mạnh của những xã hội mới với nhu cầu của những người đứng đầu coi trống như một biểu trưng về quyền lực. Trống thường được tìm thấy ở những địa điểm mang tính chiến lược trên những tuyến giao thông và chuyên chở đường sông. Không những nhập trống từ quê gốc là miền bắc Việt Nam, trống đồng theo truyền thống trống Đông Sơn còn được sản xuất tại Thái Lan hay một địa điểm khác ở Đông Nam Á để đáp ứng nhu cầu của những tổ chức xã hội với cơ cấu mới đang hình thành và phát triển, điển hình là trống Salayar tìm thấy ở miền đông Indonesia. Một số trống có kích thước rất lớn tìm thấy ở miền đông Indonesia lại được xác định có nguồn gốc tại Việt Nam, nói một cách khác chúng được sản xuất tại Việt Nam chỉ nhằm mục đích xuất khẩu
21.
Tuy chưa có thể nhất trí hoàn toàn với những ý kiến trên của nhà nghiên cứu Imamura, đặc biệt về việc sản xuất trống ở Việt Nam với mục đích xuất khẩu. Tuy vậy, có thể thấy rằng văn hóa Đông Sơn có một ảnh hưởng rất lớn ở Đông Nam Á và trống đồng Đông Sơn thực sự là biểu tượng cho quyền lực và sức mạnh của những người đứng đầu trong xã hội.

Tiểu kết
Cho dù những phát hiện cổ nhân và sơ kỳ đá cũ ở Đông Nam Á vẫn chưa được khẳng định một cách chắc chắn, nhưng đã có nhiều chứng cứ để kết luận rằng đây là một trong những khu vực Homo Sapiens hoá của nhân loại.
Cư dân thời đại đã cũ ở đây một mặt có những nấc phát triển tương đồng với những thang bậc kỹ nghệ chế tác công cụ đá của những khu vực khác trên thế giới, mặt khác cũng có không ít những đặc điểm riêng, được quy định bởi sự thích ứng với môi trường tự nhiên và hệ sinh thái khu biệt. Ngay từ thời đại đồ đá cũ đã hình thành hai truyền thống chế tác đá riêng của Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Tuy vậy, chúng không tồn tại đơn lập, tách biệt hoàn toàn khỏi nhau mà đã có những sự đan xen và mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Truyền thống địa phương trong kỹ nghệ đồ đá phản ánh sự đa dạng trong cách kiếm sống, tổ chức xã hội và cho thấy những nhóm cư dân thời này có tính thích ứng cao, linh hoạt để tận dụng tối đa nguồn lực từ môi trường tự nhiên. Nói một cách khác họ đã có những cách thích ứng với giá trị sinh thái cộng đồng khá cao.
Đông Nam Á, đặc biệt là khu vực lục địa là vùng giàu tiềm năng sinh thái (khí hậu, địa hình, địa mạo, nhiệt độ, nguồn lợi thiên nhiên…), vốn được xem là nơi đáp ứng đủ điều kiện cho việc khởi thành và phát triển nghề trồng trọt. Những phát hiện khảo cổ cùng những tư liệu sinh - dân tộc học đã chứng minh một cách chắc chắn quá trình đá mới hoá ở đây với các thang bậc phát triển từ thấp đến cao những hình thức trồng củ, quả làm vườn sơ khai đến trồng cây lấy hạt (đa canh với cây lúa chủ đạo) ở các địa hình khác nhau như hình thức nương rẫy, ruộng chờ mưa, chờ nước thuỷ triều đến nông nghiệp trồng lúa tưới nước… Cư dân Đông Nam Á đã thực hành nhiều loại kỹ thuật trị thuỷ và sử dụng nước khác nhau, trong đó có những kỹ thuật bản địa và cũng không ít kỹ thuật được du nhập từ bên ngoài. Do đặc điểm hệ sinh thái phồn tạp và thực vật rất phát triển nên bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi (nhỏ), cư dân cổ ở Đông Nam Á chưa bao giờ coi nhẹ việc hái lượm phổ rộng, săn bắt, đánh cá… và tuỳ thuộc vào điều kiện địa lý cụ thể, ở một số vùng cách kiếm sống bằng khai thác nguồn lợi tự nhiên vượt trội hơn cách kiếm sống bằng nông nghiệp.
Đề cập tới những đặc trưng của kỹ thuật chế tác và cách thức sử dụng công cụ, dụng cụ của cư dân thời đại đá Đông Nam Á, chúng ta cần lưu ý tới vai trò của công cụ tre nứa, gỗ và sự bảo lưu lâu dài những kỹ thuật truyền thống. Điều này không thể diễn giải bằng sự trì trệ, lạc hậu và kém phát triển về năng lực tư duy… như một số học giả phương Tây trước đây đã làm. Những đặc trưng trên chính là bằng chứng về khả năng tận dụng một cách tối đa các nguồn lực tự nhiên trong phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của các cộng đồng cư dân Đông Nam Á.
Vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay cư dân Đông Nam Á bước vào thời đại kim khí. Bất luận những tranh cãi về niên đại, về nguồn gốc của kỹ thuật luyện kim, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của nó trong đời sống xã hội. Ở Đông Nam Á đã hình thành những trung tâm khai khoáng và luyện kim với quy mô lớn, đây đồng thời cũng là những trung tâm của từng vùng đóng vai trò hội nhập, kết tinh văn hoá. Dù có những bước phát triển không đồng đều, thời đại kim khí cũng là thời kỳ tiếp xúc, giao lưu và hội nhập văn hoá nội vùng, liên vùng phát triển rực rỡ. Tiếp xúc, giao lưu và hội nhập những yếu tố nội sinh với ngoại sinh làm tiền đề cho những thay đổi mang tính bước ngoặt vào những thế kỷ đầu Công nguyên.



I.4.6. Thời đại kim khí ở Đông Nam Á: Những cộng đồng cư dân nông nghiệp phát triển
Một điểm cần lưu ý khi nghiên cứu vấn đề này là ranh giới giữa thời đại đá mới và thời đại kim khí không rõ ràng và trong nhiều trường hợp không thể tách bạch được. Trong một số trường hợp chúng ta thấy các nhà nghiên cứu dùng cách gọi hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí để chỉ những địa điểm mà trình độ tuy đã đạt đến thời đại kim khí, nhưng vẫn gặp nhiều di vật đá mới. Thời điểm xuất hiện của đồ sắt cũng không cụ thể, ở một số khu vực như miền bắc Việt Nam, miền đông bắc Thái Lan… chúng ta đã chứng minh được sự tồn tại của một thời đại đồ đồng trước thời đại đồ sắt. Nhưng ở Đông Nam Á hải đảo và một số nơi khác của Đông Nam Á lục địa, gần như hai kim loại này xuất hiện song song với nhau. Miền Trung Việt Nam cũng vậy, đồ sắt chỉ xuất hiện sau đồ đồng một thời gian rất ngắn.
Cho tới nay chúng ta đã có những phát hiện rất quan trọng về sự phát triển liên tục của thời đại kim khí ở Đông Nam Á lục địa, đặc biệt là ở Bán đảo Đông Dương và Thái Lan. Thời kỳ này cũng được đánh dấu bằng sự khu biệt và phân hoá văn hoá thành những trung tâm lớn có mức phát triển tương đồng nhưng khác biệt và những vùng, biên / ngoại vi. Giao lưu nội vùng, liên vùng thực sự đóng vai trò rất quan trọng trong sự định hình vị thế và vai trò của mỗi trung tâm và sức lan toả các đặc trưng văn hoá.
- Ba trung tâm thời đại kim khí Việt Nam: Cách đây khoảng bốn nghìn năm, các nhóm cư dân cổ sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí.
Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hoá lớn là Đông Sơn (miền Bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam).
Văn hoá Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi văn hoá của người Việt cổ, giai đoạn này được coi là thời gian hình thành bản sắc văn hoá Việt cổ.
Văn hoá Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Champa.
Văn hoá Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn hình thành văn hoá Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo và có thể thuộc các nhóm khác nữa sinh sống vào những thế kỷ sau Công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ.
- Tiền Đông Sơn và Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam: Quá trình kế thừa, thống nhất và kết tinh hoá văn hoá: Trong thời đại đồng thau ở miền bắc Việt Nam, đặc điểm văn hóa địa phương còn khá rõ ràng. Miền Bắc Việt Nam là một vùng địa lý có những dạng địa hình khác nhau và lại có tính chất tiếp xúc rộng, mạnh, đó là nguyên nhân và lý do dẫn đến nơi đây là địa bàn của nhiều văn hoá, nhiều tộc người. Bước vào thời đại đồng thau, với sự mở đầu của 4.000 năm văn hiến, trung du và vùng châu thổ sông Hồng có Phùng Nguyên, miền ven biển đông bắc có Hạ Long, miền ven biển Thanh Hoá có Hoa Lộc, miền ven biển Nghệ Tĩnh - Bình Trị Thiên có Bàu Tró... với những loại hình công cụ đá, những kiểu dáng và hoa văn gốm khác nhau... biểu hiện những bộ mặt địa phương văn hoá khác nhau và tộc thuộc khác nhau. Giữa các khu vực văn hoá địa phương này có sự giao lưu tiếp xúc và đan xen văn hoá. Lại có sự giao lưu giữa những nhóm cư dân này với cư dân và văn hoá các miền chung quanh trong khu vực Đông Nam Á và cả Nam Trung Quốc - lúc bấy giờ còn là mảnh đất phi Hoa (và thường được giới nghiên cứu hiện nay quan niệm là thuộc không gian văn hoá Đông Nam Á lúa nước).
Cư dân Tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước, họ đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn, gà... Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hoá dày. Bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú là các di chỉ mộ táng. Đã hình thành các làng nghề, chuyên sản xuất một loại hình công cụ hay đồ trang sức. Những nơi cư trú này thể hiện sự phát triển văn hoá liên tục giữa các giai đoạn, nối tiếp và kế thừa nhau.
Khuôn đúc đồng và rìu đồng ở địa điểm Thành Dền, trung kỳ đồng thau: Cư dân văn hoá thời đại đồng thau miền bắc Việt Nam có đời sống tinh thần phong phú. Điều đó thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật của họ. Đặc biệt, họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa, biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trang trí đồ gốm. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kỹ thuật chế tác đá, đúc đồng...
Vào khoảng thế kỷ VII trước Công nguyên, các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hoà chung vào một nền văn hoá thống nhất- văn hoá Đông Sơn. Đó là lúc các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất văn hoá được thể hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt - Trung cho đến bờ sông Gianh Quảng Bình, mặc dù theo các nhà khảo cổ học, nhà nước này vẫn có những dáng hình địa phương. Nhưng có thể thấy rằng phạm vi phân bố của văn hoá Đông Sơn rộng nhất so với tất cả các văn hoá trước đó.
Sự thhống nhất của văn hoá Đông Sơn vẫn là sự thống nhất trong đa dạng. Giới khảo cổ học Việt Nam đã nêu ra những loại hình địa phương của văn hoá Đông Sơn. Trên các vùng giáp ranh ở tây bắc, văn hoá Đông Sơn tiếp xúc với văn hoá Tấn Ninh (văn hoá Điền); ở phía bắc, tiếp xúc với văn hoá Sở, Trường Sa, ở phía nam đèo Ngang (Quảng Bình), nó tiếp xúc với văn hoá Sa Huỳnh (văn hoá Chăm cổ - về sự tiếp xúc này ngày càng có nhiều chứng cứ khảo cổ học và sự lan toả của văn hoá Đông Sơn vào không gian thời gian của văn hoá Sa Huỳnh lớn hơn nhiều so với sự hình dung của giới nghiên cứu từ trước tới nay). Những sự tiếp xúc đó cũng góp phần tăng cường sắc thái địa phương của từng vùng. Nhưng tính thống nhất của Đông Sơn là nổi bật, là căn bản. Cái “mẫu văn hoá chung” hay nói theo thuật ngữ văn hoá học, cái phần “văn hoá tối thiểu” của thời đại Đông Sơn là rất lớn; được biểu hiện ở bộ công cụ, dụng cụ, vũ khí, nhạc khí, đồ trang sức, nghệ thuật chạm khắc, mô típ trang trí Đông Sơn: rìu lưỡi xéo, mũi dáo, dao găm, thạp thố, vòng tay, khuyên tai... và đặc biệt là trống đồng Đông Sơn (trống đồng loại I Heger).
Làng xóm thời kỳ này thường phân bố ở những nơi đất cao, thậm chí ở sườn núi hay trên những quả đồi đất... nhưng bao giờ cũng nằm gần các hệ thống sông lớn hay các chi lưu của chúng. Khoảng cách giữa làng và sông thường từ 1 đến 5 km...Việc chọn nơi cư trú như vậy cho thấy người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự nhiên. Bởi lẽ, đất cao sẽ khô ráo mà lại tránh được ngập lụt vào mùa mưa. Làng thời kỳ này có quy mô tương đương với xóm hay làng nhỏ ngày nay, có chừng vài trăm người. Ngoài ra, còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài khu vực cư trú đông đúc. Đó là hiện tượng thường gặp đối với cư dân nông nghiệp ở những vùng đồng bằng phì nhiêu.
Có lẽ do hiện tượng chiến tranh đã trở nên thường xuyên (thể hiện trong truyền thuyết, trong tỉ lệ cao của các loại vũ khí, đồ dùng cho binh lính - tỉ lệ vũ khí đồng thau chiếm từ 1/3 đến quá 1/2 toàn bộ đồ đồng ở các di tích Đông Sơn tiêu biểu) nên chung quanh làng, có những vành đai phòng thủ, mà khả năng lớn là các luỹ tre làng. Công trình phòng thủ thực sự với hệ thống thành luỹ quy mô thời Đông Sơn ngày nay người ta mới chỉ biết đến có một, đó là thành Cổ Loa.
Tư liệu khảo cổ học về quy mô, cấu trúc nhà ở, mộ táng, kích thước đồ gốm gia dụng... cho thẩy trong xã hội Đông Sơn hình thành và tồn tại chủ yếu là những gia đình hạt nhân, gia đình nhỏ, những gia đình này cũng là những đơn vị sản xuất cơ bản. Khi nông dân tăng tiến về dân số, nông nghiệp phát triển về vườn ruộng ao, chuồng trại, về cây trồng, gia súc và năng xuất (nhờ độ phì nhiêu của đất đai đồng bằng cùng kỹ thuật nông nghiệp phát triển) thì cũng có nghĩa là một hệ thống xóm làng đã phát triển, mô hình tổ chức tập hợp các gia đình hạt nhân (nhà tiểu nông), lan dần từ vùng cao xuống vùng thấp, trong những ngôi nhà biến hoá từ nhà sàn đến nhà đất bằng.
- Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam: Từ hội nhập đa nguồn đến hội tụ văn hoá: Trung tâm hay đỉnh cao của văn hoá thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Đó là văn hoá Sa Huỳnh.
Văn hoá Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau (trên 3.000 năm cách ngày nay) cho tới sơ kỳ thời đại sắt sớm (thế kỷ VI-VII trước Công nguyên đến thế kỷ I sau Công nguyên). Giai đoạn sớm được gọi là văn hoá Tiền Sa Huỳnh, giai đoạn muộn được gọi là văn hoá Sa Huỳnh. Văn hoá Sa Huỳnh thời đại sắt hay văn hoá Sa Huỳnh cổ điển là bắt nguồn từ những di tích tiền Sa Huỳnh với sự tham góp không nhỏ của các nguồn lực văn hoá ngoại sinh.
Vào thời gian cách đây trên 3.000 năm, tại những vùng đồng bằng nhỏ ven biển, trên các đảo và đảo ven bờ hay ở những gò đất cao ven sông, ven bàu nứoc ngọt, những nhóm cư dân kim khí sớm đã lập làng tụ cư. Trồng trọt đã có một vị trí nào đó trong đời sống kinh tế của họ, cuốc đá hình lưỡi mèo tìm thấy trong các địa điểm khảo cổ học thời kỳ này là chứng cử gián tiếp về thuần dưỡng cây trồng. Tuy vậy, do những quy đinh và tác động của điều kiện môi trường tự nhiên…, đánh bắt cá, khai thác thuỷ hải sản, khai thác rừng… vẫn là những hoạt động sống chính. Giai đoạn đầu công cụ đá đóng vai trò chủ đạo với các loại hình chính như rìu có vai, rìu tứ giác, bôn răng trâu, cuốc hình lưỡi mèo… Đồ trang sức đá không nhiều nhưng thể hiện trình độ cao trong kỹ thuật chế tác và quan niệm thẩm mỹ tinh tế. Nhiều loại hình đồ đá tiếp tục được sản xuất và sử dụng trong các giai đoạn muộn hơn. Đồ gốm nổi bật với trang trí văn thừng, văn in mép vỏ sò, tô màu… Đa số đồ gốm đẹp được tìm thấy trong các khu mộ địa như Long Thạnh (Quảng Ngãi), Bàu Trám (Quảng Nam), Bãi Ông (Quảng Nam)… Có thể thấy yếu tố biển đóng vai trò quan trọng trong đòi sống vật chất và tinh thần của cư dân giai đoạn này. Táng thức chính của cư dân văn hoá Tiền Sa Huỳnh là mộ nồi, dạng mộ được coi là cổ típ cho những giai đoạn văn hoá sau. Mộ táng giai đoạn này thường được phát hiện ngay trong nơi cư trú.
Các di tích của văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn sắt sớm phân bố trên một diện rộng ở hầu khắp các loại địa hình từ Thừa Thiên Huế đến khu vực Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh). So với văn hoá Tiền Sa Huỳnh giai đoạn trước, văn hoá Sa Huỳnh có sức lan toả rộng và mạnh hơn nhiều lần. Các địa điểm thời kỳ này thể hiện tính thống nhất văn hoá trong sự đa dạng mang đặc điểm môi trường sinh thái của từng khu vực địa lý, nhóm người và quan hệ văn hoá… Giai đoạn cuối của nền văn hoá này có những diễn biến và thay đổi văn hoá mang tính chất bước ngoặt.
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hình thức mai táng dùng quan tài là nồi, vò, chum bằng đất nung suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn. Tại một số địa điểm như Long Thạnh, Bàu Trám (Tiền Sa Huỳnh), Hậu Xá, Gò Mả Vôi, Bình Châu… (Sa Huỳnh), bên cạnh mộ chum còn thấy mộ đất, song không phổ biến.
Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía đông, đã phát hiện nhiều khu mộ - Những bãi mộ chum rộng lớn, đôi khi nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước từ vừa đến lớn và trong từng loại có những biến thể khác nhau.
Thông thường những chum mộ được tìm thấy ở dạng phân bố theo nhóm từ 2, 3 đến 4 chum. Tuy vậy ở một số khu mộ địa cũng thấy kiểu phân bố lẻ tẻ. Ở một số mộ địa Sa Huỳnh, thời gian chôn mộ diễn ra trong thời gian khá dài - một vài trăm năm, song hiếm có hiện tượng các mộ cắt phá nhau. Dựa vào đây có thể cho rằng, cư dân văn hoá này có cách thức riêng để đánh dấu các ngôi mộ sớm muộn trong cùng một khu vực địa lý. Những địa điểm văn hoá Sa Huỳnh đã được khai quật và nghiên cứu thường chỉ trong diện hẹp, chính vì vậy chưa có đủ dữ liệu để khái quát về cơ cấu, tổ chức xã hội, thân phận, tầng lớp… của những người chết. Tuy vậy, sự phân bố không đều về chất và lượng của đồ tuỳ táng phần nào thể hiện một xã hội có sự phân biệt về của cải và từ đó có khả năng cả thân phận. Giai đoạn cuối, những thế kỷ I - II trước, thế kỷ I sau Công nguyên, những tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ với Trung Quốc (Hán), với miền bắc Việt Nam (Đông Sơn) và với các văn hoá khu vực khác nữa càng làm tăng thêm sự phân tầng trong xã hội và là cơ nền cho sự hình thành Nhà nước sơ khai theo kiểu Chiefdom, loại hình nhà nước điển hình của Đông Nam Á giai đoạn này.
Những chum mộ quan tài gốm chôn đứng thẳng, có nắp đậy hình nón cụt, hình lồng bàn, mâm bồng… thậm chí có thể là đáy của một chum khác được tái tận dụng. Đồ tuỳ táng đặt bên trong, bên ngoài, dưới đấy hay ngay trên nắp chum. Hiện tượng làm biến dạng đồ tuỳ táng thường hay gặp song không phải là quy luật bắt buộc cho tất cả các nơi. Bên cạnh đồ tuỳ táng, vết tích khác tìm thấy trong các chum này khá đa dạng. Có chum chứa than tro - được coi là vết tích hoả táng xác người, có chum chứa xương, răng trẻ con hoặc người lớn, cá biệt có khu vực như Cần Giờ, trong nhiều chum có nguyên những bộ xương người lớn. Nhiều nơi, chum chứa hoàn toàn là cát trắng. Hiện nay, có nhiều cách diễn giải táng thức của văn hoá Sa Huỳnh như hoả táng, cải táng, chôn thẳng, tượng trưng… Có lẽ, tất cả những diễn giải này đều có thể áp dụng tuỳ theo không gian và thời gian. Thông thường các chum mộ là chum đơn, song ở một vài địa điểm xuất hiện chum lồng, cá biệt có nơi đã phát hiện cả một quần thể chum lồng theo kiểu trong quan ngoài quách như ở Gò Dừa (Duy Xuyên - Quảng Nam).
Đồ tuỳ táng trong văn hoá Sa Huỳnh rất phong phú về chất liệu và đa dạng về loại hình. Chất liệu kim loại đồng, sắt, vàng, bạc, chất liệu thuỷ tinh nhân tạo, tự nhiên, chất liệu đá quý mã não, ngọc, cẩm thạch… đồ gốm có nhiều tiến bộ về kỹ thuật, đa dạng hình loại và nhiều kiểu thức đồ án trang trí. Đồ tuỳ táng bao gồm năm nhóm cơ bản. Đồ gia dụng, công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức và đồ minh khí.
Nổi bật nhất trong văn hoá Sa Huỳnh là bộ công cụ và vũ khí bằng sắt. Tại những địa điểm mộ chum Sa Huỳnh giai đoạn từ khoảng thế kỷ III - IV trước Công nguyên, đồ sát chiếm lĩnh về cả số lượng và chất lượng. Đồ sắt được sản xuất chủ yếu bằng phương pháp rèn. Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đẫ được phát hiện đến nay thì số lượng lên tới hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, dao, qua… Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hoá Đông Sơn ở phía Bắc, văn hoá Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt trong văn hoá Sa Huỳnh có nhiều trội vượt. Trong bộ sưu tập hiện vật sắt, nét chủ đạo là tính thống nhất về loại hình và kỹ thuật dù được phát hiện trong / tại nhiều địa điểm mang tính địa phương hay khu vực rõ nét. Có thể nói, sắt đã đóng vai trò thống nhất và kết tinh văn hoá ở miền Trung Việt Nam thời Sơ sử. Nguồn gốc của nghề luyện kim sắt chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, trong một số địa điểm đã tìm thấy dấu tích của rèn sắt và luyện gang tại chỗ, như ở Đại Lãnh - Đại Lộc Quảng Nam. Có thể, luyện kim sắt văn hoá Sa Huỳnh có mối quan hệ chặt chẽ với những khu vực Đông Nam Á lục địa như Thái Lan… Giai đoạn cuối trong loại hình công cụ và vũ khí bằng sắt thể hiện sự giao lưu văn hoá với Trung Hoa thời Hán qua các loại hình như mũi nhọn, dao có chuôi hình vành khăn kiểu Tây Hán.
So với đồ sắt, đồ đồng ít hơn nhiều về số lượng. Tuy vậy trong một vài năm gần đây, tại các khu mộ táng văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn sớm đã tìm thấy nhiều đồ đồng tuỳ táng gồm công cụ, vũ khí, đồ tế lễ… Nhiều đồ đồng được phát hiện cả ở mộ chum, cả ở mộ đất. Phần lớn đồ đồng có thể là sản phẩm của trao đổi với văn hoá Trung Hoa Hán nhu bát đĩa, gương (giai đoạn cực muộn) với văn hoá Đông Sơn như trống đồng, công cụ và vũ khí (giai đoạn sớm hơn). Tất nhiên, điều này không loại trừ việc sản xuất tại chỗ, tuy chứng cứ còn quá ít. Vết tích của đúc đồng được tìm thấy ở Bình Châu, Trảng Đổng Du - Bàu Trám, một vài khuôn đúc bằng đá tìm thấy ngẫu nhiên ở Khánh Hoà, Ninh Thuận…
Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kỹ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang), cư dân văn hoá Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo gốm, chế tác đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều dọi xe chỉ các loại, dấu vết vải từ thô đến mịn còn lại khá nhiều trên các đồ tuỳ táng bằng đồng, bằng sắt. Nghề làm gốm rất phát triển, thể hiện trong mọi khía cạnh từ kỹ thuật, độ nung đến tạo hình, trang trí. Đặc điểm nổi bật của gốm Sa Huỳnh là những đồ gốm lớn đến rất lớn, đòi hỏi kỹ năng khéo léo và kỹ thuật cao trong chế tác và khống chế độ nung. Rất tiếc cho tới nay chưa phát hiện được lò gốm trong văn hoá này. Rất có khả năng đó là loại lò nửa kín và thường nằm sát bờ sông (hoặc những chum gốm lớn này bản thân đã là lò nung giống như một vài trường hợp trên thế giới thời cổ đại). Điều này, một mặt thuận tiện cho việc chuyên chở nguyên liệu và sản phẩm, song mặt khác lò lại rất dễ bị sụt lở trong những đợt lũ lụt lớn nhỏ hàng năm. Bên cạnh chum, nắp gốm mai táng, đồ tuỳ táng gốm rất đa dạng và phong phú bao gồm bát bồng, đèn, bình hình lẵng hoa, bình con tiện, cốc cao chân, nồi, bát, đĩa, cốc… Gốm được trang trí đẹp với những đồ án hoa văn đa dạng, khắc vạch kết hợp tô màu, những đồ án và phong cách trang trí từ giai đoạn Tiền Sa Huỳnh tiếp tục tồn tại và phát triển trong giai đoạn này. Tô màu đen và đỏ thành từng băng uốn lượn hay góc cạnh, xen lẫn những băng bên trong trang trí những đường vạch nhỏ, chấm dải, in mép sò…trở thành phương pháp trang trí phổ biến. Văn thừng đóng vai trò kỹ thuật hơn là trang trí, kiểu loại văn thừng giai đoạn này đơn giản hơn so với giai đoạn sớm. Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao, lửa được không chế một cách chủ động nên có một số đồ gốm cứng như sành.
Cư dân văn hoá Sa Huỳnh là những người có năng khiếu, khéo tay và mỹ cảm phát triển. Họ rất thích dùng đồ trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai, vật đeo hình dấu phảy, hạt chuỗi…) bằng thuỷ tinh, mã não, đá quý, đá, đất nung… Chất liệu được ưa thích nhất là mã não và thuỷ tinh. Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và khuyên tai ba mấu là một loại hình chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù. Trong các di tích văn hoá Sa Huỳnh đã tìm thấy một số lượng lớn hai loại hình này. Trong khi khuyên tai ba mấu phân bố ở hầu khắp các địa điểm thì loại hai đầu thú cho tới nay được phát hiện chỉ ở một số vùng.
Ở di tích Đại Lộc - Quảng Nam và Giồng Cá Vồ - Tp. Hồ Chí Minh phát hiện nhiều khuyên tai hai đầu thú đang chế tác dở. Trong một số di tích đương đại của văn hoá Đông Sơn (Bắc Việt Nam), Philippines, Thái Lan… cũng tìm thấy những kiểu khuyên tai này. Đây được coi là những bằng chứng về sự lan toả ảnh hưởng của văn hoá Sa Huỳnh. Trong đồ gốm, đồ trang sức… dễ dàng nhận thấy những nét chung giữa văn hoá Sa Huỳnh và một số văn hoá khác cùng thời ở Đông Nam Á hải đảo.
Trước đây, các học giả Pháp cho rằng chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh là những người đi biển, đất liền chỉ là nơi chôn cất người chết. Hiện nay, số lượng và vết tích nơi cư trú của văn hoá này khá hiếm hoi. Tuy vậy, vẫn có thể khẳng định qua những chứng cứ gián tiếp rằng văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân sống định cư trên đất liền với xu hướng hướng biển mạnh mẽ. Hệ sinh thái chủ đạo tạo nên nhiều đặc trưng văn hoá là hệ sinh thái Cồn - Bàu. Nền kinh tế đa thành phần kết hợp giữa trồng lúa nước ở các đồng bằng nhỏ duyên hải, trồng lúa kiểu nương rẫy ở vùng đồi gò. Trong các di tích đã phát hiện những công cụ liên quan đến trồng trọt và phá rừng làm nương rẫy bằng đá (tiền Sa Huỳnh), bằng sắt, đồng (Sa Huỳnh) như cuốc, liềm, rìu, dao quắm (rựa)… Cư dân văn hoá này sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển, của rừng, biết phát triển các nghề thủ công, từng bước họ đã mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đảo và rộng hơn với Ấn Độ, với Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển. Ở ven biển miền Trung, vào những thế kỷ trước, sau Công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai.
Văn hoá Sa Huỳnh một mặt có nguồn gốc bản địa từ những nhóm di tích, văn hoá Tiền Sa Huỳnh. Mặt khác, những nguồn lực và ảnh hưởng ngoại sinh cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Với vị thế địa văn hoá cầu nối giữa lục địa và hải đảo và đường bờ biển dài nhiều vụng vịnh, miền Trung Việt Nam ngay từ thời tiền sử dã là nơi gặp gỡ của nhiều luồng cư dân, ngôn ngữ và văn hoá. Những tư liệu khảo cổ học gần đây cho thấy vào giai đoạn cuối của văn hoá Sa Huỳnh sự giao lưu văn hoá (tự nguyện và cưỡng bức) rất mạnh mẽ với văn hoá Đông Sơn, với văn hoá Hán. Ảnh hưởng của những văn hoá này vào văn hoá miền Trung Việt Nam những thế kỷ I -II trước và sau Công nguyên có tác động sâu và rộng hơn rất nhiều so với sự hình dung của chúng ta từ trước tới nay.
Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn rộng của các di tích văn hoá Sa Huỳnh (bằng chứng của sự quần tụ đông đúc dân cư ); sự phong phú về kiểu loại; số lượng lớn của các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu (dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ); vũ khí chiếm một tỷ lệ không nhỏ và với một số kiểu vũ khí ảnh hưởng văn hoá Hán (dấu hiệu của xung đột bên trong và bên ngoài); đồ tuỳ táng phân bố không đều cả về chất và lượng (bằng chứng về sự phân tầng xã hội), tất cả đều là những tư liệu gián tiếp về sự hình thành và tồn tại của một kiểu nhà nước sơ khai trong giai đoạn này.
Chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hoá hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ven biển. Với cốt lõi là văn hoá Bàu Tró mà chủ nhân của các văn hoá trên được các nhà nghiên cứu coi là những người tiền Ma Lai-Pôlinêdi. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, văn hoá Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hoá hậu kỳ đá mới - sơ kỳ đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn hoá trên được coi là tiền Môn - Khmer hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Với vị thế địa văn hoá của mình, dải đất ven biển miền Trung cũng còn là nơi tiếp nhận của không ít nhưng làn sóng di dân từ phương bắc, phương đông và phương Nam trong diễn trình tiền - sơ sử. Tất cả những yếu tố này đã tạo nên một bức tranh văn hoá miền Trung phong phú, đa dạng với những sắc màu riêng. Chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh theo các nhà nghiên cứu nói tiếng Nam Đảo hay Malay - Polynedien với nhiều yếu tố Nam Á.
- Truyền thống văn hoá Đồng Nai: Quá trình chinh phục và chiếm lĩnh miền châu thổ sông Mekong và duyên hải Nam Bộ: Vào khoảng hơn 4.000 năm cách ngày nay, trên đất Nam Bộ đã có những cộng đồng cư dân sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau. Họ là chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm).
Những di tích của văn hoá này phân bố suốt từ vùng đồi gò cao cho tới trung, hạ lưu sông Đồng Nai và các chi lưu và vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Mỗi một tiểu môi trường sinh thái ứng với một mô thức kinh tế-văn hoá thích hợp.
Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ thuộc Đồng Nai có những di tích (cư trú, mộ táng, xưởng) diện tích lớn, tầng văn hoá dày. Đây là vùng phát sinh và quần tụ quan trọng liên tục nhất của văn hoá Đồng Nai với những di tích Cầu Sắt, Suối Chồn, Phú Hoà, Hàng Gòn.
Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn với hai vòng thành và hào sâu ở Lộc Ninh - Bình Long.
Vùng liên kết đồi bazan - đá phiến - phù sa cổ dọc hệ thống Sông Bé - Đồng Nai, nơi tập trung dày đặc các di tích, di chỉ - mộ táng - xưởng thủ công đơn hay đa ngành tiêu biểu nhất là Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa.
Vùng phù sa đất xám thuộc hệ thống sông Vàm Vỏ với những di chỉ, di chỉ kèm mộ đất như An Sơn, Gò Rạch Rừng, Dinh Ông, Rạch Núi.
Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu sông Đồng Nai - Vàm Cỏ và những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu vùng kinh tế - văn hoá mới tạo thành từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên như Cái Vạn, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ …
Mật độ phân bố di tích thời đại kim khí Đông Nam Bộ khá đậm đặc. Nhiều di tích có quy mô lớn hàng vạn mét vuông. Loại hình di tich ở đây cũng khá đa dạng: Di tích cư trú, di tích cư trú - mộ táng, di tích cư trú - xưởng hay di tích công xưởng...
Đồ đá là loại di vật phổ biến và có số lượng lớn. Đây cũng là đặc trưng nổi trội của văn hoá Đồng Nai - Nơi mà công cụ - dụng cụ bằng đá lấn át mạnh mẽ và lâu dài kim loại do thiếu vắng các nguồn quặng đồng và hợp kim bản địa trong toàn miền. Loại hình được coi là đặc trưng và mang phong cách văn hoá Đồng Nai là rìu bôn có vai và không có vai. Tỷ lệ giữa rìu bôn có vai và không vai là một trong những tiêu chí phân giai đoạn và loại hình văn hoá. Loại hình trang sức đá thường gặp là các loại vòng, vật đeo. Tại di tích đồi Phòng Không đã tìm thấy nhiều dấu tích của xưởng chế tác với nghề chuyên làm vòng đá. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, kỹ năng chế tác đồ đá của chủ nhân văn hoá Đồng Nai không thua kém bất cứ nền văn hoá đồng đại nào trong khu vực.
Loại chế phẩm bằng đá đặc sắc trong văn hoá Đồng Nai là đàn đá - nhạc cụ thuộc bộ gõ. Đàn đá có mặt ở nhiều di tích , niên đại cách ngày nay khoảng 3.000 năm.
Nghề đúc đồng và luyện kim đồng đã xuất hiện vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và đồ đồng phổ biến rộng rãi vào khoảng trên 3oo năm cách ngày nay. Nhiều di chỉ đúc đồ đồng đã được phát hiện ở Suối Chồn, Bưng Thơm, Bưng Bạc, Dốc Chùa với những hiện vật gắn với quá trình chế tác như khuôn đúc. Theo các nhà nghiên cứu, lưu vực sông Đồng Nai là một bộ phận hay mắt xích trong chuỗi tiến trình luyện kim ở Đông Nam Á giai đoạn sớm có quan hệ mật thiết với kỹ nghệ đồng thau ở khu vực Vân Nam (Trung Hoa) và Đông Bắc Thái Lan qua đường sông Mekong.
Đồ gốm được trang trí bằng các loại hoa văn thừng, chải, khắc vạch, chấm dải, tô màu. So với những khu vực khác hoa văn gốm Đồng Nai đơn giản và mộc mạc hơn. Giai đoạn muộn của văn hoá Đồng Nai được đặc trưng bởi những khu mộ chum kiểu mộ chum văn hoá Sa Huỳnh với những loại hình hiện vật bằng sắt, bằng đá, mã não, thuỷ tinh bên cạnh những đặc thù riêng biệt mang tính địa phương của văn hoá Đồng Nai. Về sự xuất hiện của những di tích mộ chum này còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất về nguồn gốc và tên gọi. Tuy vậy, một điều dễ nhận thấy là sự có mặt chắc chắn của các yếu tố văn hoá Sa Huỳnh ở vùng biên giữa hai nền văn hoá.
Dựa trên hệ thống tư liệu trực tiếp và gián tiếp, các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng những hình thức quan trọng và phổ biến nhất trong đời sống kinh tế truyền thống Đông Nam Bộ là trồng lúa cạn không dùng sức kéo. Cư dân cổ Đồng Nai phát triển nền nông nghiệp dùng cuốc ở trình độ cao, bên cạnh cây lúa là là các loại rau đậu, cây có quả - củ cho bột. Phương pháp canh tác đặc thù của nông nghiệp nương rẫy là phát - đốt. Chăn nuôi, săn bắt, hái lượm, đánh bắt thuỷ hải sản cũng đặc biệt được coi trọng (số lượng xương sừng trong các di tích Bưng Bạc, An Sơn, Rạch Núi... lên tới hàng chục kg). Hái lượm, đánh bắt cá tôm và nhuyễn thể của sông biển.
Khi so sánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật và văn hoá của những nhóm cư dân trong văn hoá Đồng Nai, nhà nghiên cứu Phạm Đức Mạnh cho rằng cần nhấn mạnh đến đặc thù của quá trình chuyên môn hoá-phân công lao động-phân vùng kinh tế nhập hoà với từng miền sinh cảnh. Cần có sự quan tâm đặc biệt đến mối ràng buộc thiết yếu giữa những ngành kinh tế chủ đạo nông nghiệp với nghề trồng lúa cạn là phổ cập và cả nghề trồng lúa nước ở những tiểu vùng khả thực nhất, (trồng hoa màu, cây có củ - quả và chăn nuôi) và những ngành cung ứng lương thực - thực phẩm tiền sử khác (săn bắn / bắt, đánh cá hái lượm theo phổ rộng những sản phẩm thực - động vật của rừng, suối sông, đầm lầy và biển). Giữa nông nghiệp - khai thác- thủ công (sản xuất đá- công cụ và trang sức; chế luyện kim loại - đúc đồng và rèn sắt, chế tạo gốm - đồ đựng, bàn xoa và dọi se sợi, dệt vải) và thông thương nội, ngoại.
Đời sống tinh thần của cư dân văn hoá Đồng Nai được biết đến qua những hiện vật nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mài dẹt hình gần ovan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu. Tượng động vật như tượng lợn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng ở Dốc Chùa, tượng Long Giao bằng đồng… bên cạnh ý nghĩa nghệ thuật còn mang tải một nội dung tín ngưỡng, nghi lễ nào đấy. Ngoài ra còn phải kể đến sưu tập đàn đá hơn 60 thanh ở Bình Đa, những thanh đàn đá hay đá kêu ở một số địa điểm khác. Bên cạnh đó là sự hội nhập của không ít yếu tố văn hoá trong khu vực như trống đồng Đông Sơn, khuyên tai ba mấu, hai đầu thú của văn hoá Sa Huỳnh…
Văn hoá Đồng Nai đặc biệt là giai đoạn cuối đã trở thành nền tảng cho sự hình thành một kiểu nhà nước sơ khai. Đó là khi kim loại thực sự đã chiếm vị trí quan trọng, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của cư dân, mở rộng những tiểu vùng kinh tế sản xuất và khai thác mới, củng cố những liên hệ kinh tế - văn hoá nội vùng, thành tạo những điều kiện tập trung của cải phân bố giàu nghèo và cố kết quyền lực trung tâm, hình thành cơ cấu xà hội phân tầng. Điều này được thể hiện qua sự có mặt của những hầm mộ bằng đá lớn (cự thạch), sưu tập qua đồng Long Giao, trống đồng Đông Sơn ở Bình Dương, Bình Phước... những khu mộ địa với những bộ đồ tùy táng giàu có ở Dốc Chùa, Cần Giờ, Xuân Lộc...
- Những trung tâm văn hoá thời đại kim khí Thái Lan: Tương tự như ở Việt Nam, bước vào thời đại kim khí những cộng đồng cư dân nông nghiệp sớm hậu kỳ đá mới đã lan toả, mở rộng không gian cư trú của mình ra nhiều vùng. Vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay đã hình thành những trung tâm văn hoá với cốt lõi là những thành tựu luyện kim đồng và sắt và nghề chế tác đồ gốm phân bố ở đồng bằng miền trung Thái Lan, cao nguyên Khorat, trung lưu, thượng lưu sông Chi… Theo các nhà nghiên cứu, Thái Lan có hai khu vực văn hoá cơ bản: Đồng bằng Miền Trung và cao nguyên Khorat ở miền Đông Bắc. Ở mỗi khu vực có thể nhận thấy những nền văn hoá tiền - sơ sử dọc theo những sông lớn và chi lưu của chúng. Ở Thái Lan sông đóng vai trò quan trọng giống như các nước khác ở Đông Nam Á. Khi đề cập tới nội dung văn hoá thời đại kim khí nói chung và luyện kim nói riêng ở Thái Lan cần lưu ý những điểm sau:
Đa phần những tài liệu khảo cổ học được thu thập từ di chỉ mộ táng, hay cư trú xen lẫn mộ táng. Khung niên đại được xác định chủ yếu dựa vào kết quả định từ những mẫu phân tích C14 hay AMS.
Những hiện vật đồng phát hiện được đều là những công cụ định hình và được làm từ đồng thau.
So sánh với Việt Nam, ở Thái Lan cho đến nay chưa thấy chứng cứ về giai đoạn phôi thai của luyện kim. Trong tất cả các nước ở Đông Nam Á, mới chỉ có ở Thái Lan là đã phát hiện được vết tích của các hoạt động khai khoáng đồng có niên đại khoảng 3.000 năm cách ngày nay.
- Đông Bắc Thái Lan - Cao nguyên Khorat: Những cộng đồng cư dân khai khoáng, buôn bán kết hợp trồng lúa: Địa hình: Phía tây và nam là dãy núi Petchbun và Dang Raek, còn phía bắc và đông là sông Mekong.
Tại vùng này đã có sự thay đổi cơ bản về địa bàn cư trú từ giai đoạn săn bắt - hái lượm sang giai đoạn trồng trọt, chăn nuôi từ mái đá xuống dọc các thềm sông cổ. Miền bắc của cao nguyên Khorat là nơi đã được điều tra khá kỹ. Tại đây, đã phát hiện được một loạt những dịa điểm cư trú từ khá nhỏ (0,5 - 0,8ha) ở những gò nhỏ đến những làng phòng thủ lớn (đến 117ha).
Khu vực này là nơi có nhiều phát hiện lớn những chứng cứ về hoạt động khai thác và luyện đồng. Trong đó đáng chú ý nhất là Phu Lon bên bờ sông Mekong.
Phu Lon là một khu mỏ đồng nằm bên bờ sông Mekong, mỏ đồng phân bố trên hai quả đồi Phu Lon I và Phu Lon II. Tại đây đã tìm thấy những hiện vật liên quan đến các hoạt động khai khoáng, luyện quặng, đúc đồng. Đồng thời dấu tích cư trú cũng đã được phát hiện, đó là những công cụ sản xuất bằng đá và bằng đồng thau, những mảnh vòng đá cùng nhiều mảnh gốm. Dựa vào kết quả phân tích niên đại C14 (1750-1425 trước Công nguyên) và những mẫu ở lớp trên, các nhà khảo cổ học tham gia khai quật cho rằng việc khai khoáng và luyện kim ở đây tồn tại trong suốt thiên niên kỷ II-I trước Công nguyên). Khu mỏ này bao gồm những hầm mỏ dài hàng chục mét trong đá mẹ và có ít nhất ba công đoạn khai khoáng. Quặng được nghiền bằng chày đá, được nấu chảy trong nồi bằng đất nung. Khu mỏ đã được khai thác trong một thời gian khá dài.
Một địa điểm mộ táng và cư trú xen lẫn mộ táng quan trọng ở khu vực này là Non Nok Tha ở tỉnh Khon Ken, địa điểm này nằm gần nguồn đồng Loei. Qua hai lần khai quật, người ta đã tìm thấy rất nhiều công cụ đồng như rìu đồng, khuôn đúc đồng, nồi nấu đồng. Loại rìu phổ biến là rìu xoè cân, trên thân gần chuôi có 2 hoặc 3 đường chỉ nổi trang trí (kiểu rìu phổ biến ở lưu vực sông Đồng Nai) và rìu có vai thân hẹp lưỡi dài (loại này đã thấy ở Samrong Sen, Campuchia).
Đồ gốm ở đây cũng rất nhiều và có nhiều loại hình nguyên do được tìm thấy trong mộ. Mặc dù gần địa điểm Ban Chiang, nơi có truyền thống gốm tô màu phát triển, nhưng gốm Non Nok Tha phần lớn để trơn hay trang trí khắc vạch.
Những người khai quật dựa trên một loạt niên đại nhiệt huỳnh quang đã cho rằng đây là địa điểm chứa đồ đồng sớm nhất, ngay ở lớp mai táng sớm khoảng 2500 năm trước Công nguyên. Sự diễn giải về niên đại cũng như về văn hoá của địa điểm này thực sự khó khăn bởi những mâu thuẫn trong chuỗi niên đại C14 và Nhiệt huỳnh quang. Dựa vào những niên đại AMS mới, Higam cho rằng nghĩa địa ở Non Nok Tha có niên đại thiên niên kỷ II trước Công nguyên, những mộ sớm nhất có thể có niên đại 2.000-1.500 BC, song phần lớn các mộ, kể cả những mộ có hiện vật đồng nằm trong khoảng từ 1.500 đến 1.000 BC. Nếu so sánh với những địa điểm miền bắc Việt Nam, những chuỗi văn hoá ở Non Nok Thà có thể cùng thời với văn hoá Đồng Đậu và Gò Mun từ 3.500-2.700 cách ngày nay.
Non Nok Tha cho chúng ta chứng cứ về tổ chức và quy mô của hoạt động đúc đồng bản địa. Theo các nhà nghiên cứu, những khuôn đúc đã tìm thấy ở Đông Nam Á cho thấy một phong cách đúc đồng bằng khuôn kín, khác với những vùng khác, như Ấn Độ, có khi đúc đồng bằng khuôn hở, một mang. Tỉ lệ phần trăm của thiếc khá cao trong hợp chất đồng thau cũng được xem là đặc điểm riêng của Đông Nam Á.
Một địa điểm quan trọng khác của khu vực đông bắc Thái Lan là Bản Chiang, một địa điểm nổi bật với truyền thống gốm vẽ màu độc đáo.
Địa điểm Bản Chiang, làng Bản Chiang, Udon Thani, đông bắc Thái Lan. Đây là một trong một số địa điểm đã được khai quật ở cao nguyên Khorat. Văn hoá Ban Chiang phát triển trong thời gian từ 3.600 BC đến 200 AD. Văn hoá này phân bố ở bốn tỉnh Udon Thani, Sakon Nakon, Nakhon Pahnom và Khon Kaen và có nhiều nét tương đồng với những văn hoá cùng thời ở Đông Nam Á. Trong giai đoạn sớm nhất chưa có đồng song gốm rất phát triển.
Niên đại những lớp văn hoá sớm muộn của Ban Chiang được xác định chủ yếu qua kết quả C14 và khác nhau giữa những người, những lần khai quật. Trước đây, địa điểm này thường được đưa ra để chứng minh về sự xuất hiện của nghề luyện kim màu rất sớm ở Đông Nam Á, nhưng hiện nay, xu hướng này đã bị khá nhiều người phản đối và đại bộ phận các học giả cho rằng đúc đồng xuất hiện ở Đông Nam Á vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và vào khoảng 3.000 năm cách ngày nay, đúc đồng theo kỹ thuật khuôn sáp đã xuất hiện. Từ thế kỷ I Công nguyên đã diễn ra những thay đổi quan trọng về văn hoá xã hội và luyện kim đen phát triển.
Khu vực này còn có địa điểm Bản Na Di, một địa điểm có vai trò quyết định trong việc xác định lại trật tự niên đại của chuỗi phát triển từ đồng thau sang sơ kỳ thời đại đồ sắt.
Bản Na Di cách Bản Chiang 20 km về phía nam, tại đây đã xác định được năm lớp văn hoá tiền sử dày 4m. Nhiều hố đào được tìm thấy, một số có lớp than dày. Nhiều xác người lớn (phụ nữ, đàn ông) trẻ em và trẻ con. Trẻ con đựơc chôn ngay gần người lớn mà không để trong vò. Mộ táng được tìm thấy ở lớp 6, 7 gồm 60 mộ. Mộ có hướng bắc-nam. Trong khu vực mộ đã phát hiện 1 khu chế tác đồng gồm lò bằng đất, muôi nấu và khuôn có niên đại khoảng 1.000 trước Công nguyên .
Từ giai đoạn mộ táng có 10 niên đại C14, 1313-903 trước Công nguyên. Lúc đầu những người khai quật (Higham và Kijngam) xác định giai đoạn mộ táng có niên đại 900-100 trước Công nguyên. Hiện nay theo Higham nghĩa địa có niên đại 600-400 trước Công nguyên thuộc giai đoạn hậu kỳ đồng - sơ kỳ sắt.
Vấn đề gây nhiều tranh cãi nhiều nhất chính là niên đại tuyệt đối của hai địa điểm Bản Chiang và Non Nok Tha liên quan đến nguồn gốc và niên đại của luyện kim màu và luyện kim đen ở Đông Nam Á. Hiện nay có tới ba hệ niên đại sớm, giữa và muộn cùng tồn tại. Higham cho rằng, niên đại các lớp ở hai địa điểm kể trên về cơ bản giống với phổ hệ đồng thau lưu vực sông Hồng. Tức là đồ đồng xuất hiện vào giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Theo Hà Văn Tấn, những lớp dưới cùng của Ban Chiang hay lớp đáy của Ban Na Di có những hình phảng phất phong cách Phùng Nguyên. Còn giai đoạn III Ban Chiang hay lớp 7 và 8 của Bản Na Di có thể tương đương với Đồng Đậu hay Gò Mun. Giai đoạn IV Bản Chiang trở đi có thể tương đương với văn hoá Đông Sơn và giai đoạn V Bản Chiang tương đương với giai đoạn muộn của văn hoá Đông Sơn
(15).
Đông Bắc Thái Lan là một trung tâm kim khí với một quá trình phát triển liên tục từ đầu thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt, trung tâm này có mối quan hệ giao lưu chặt chẽ với các nhóm cư dân ở khu vực Vân Nam phía bắc với cư dân vùng hạ lưu sông Mekong qua dòng chủ lưu là sông Mekong.
- Đồng bằng Miền Trung: Nơi tụ cư của những cộng đồng đúc đồng, trồng trọt và đánh cá: Tại địa bàn này có những địa điểm chính như: Non Pa Wai- Giai đoạn II; Nong Nor; Nil Kham Haeng, Khok Phlap có chuỗi diễn tiến văn hoá liên tực từ sớm đến muộn theo phân kỳ của các nhà nghiên cứu:
Giai đoạn sớm được gọi là thời đại Đá mới 2.500-1.500 BC. Giai đoạn giữa cho thấy sự phát triển của kỹ nghệ đồng từ năm 1.500-1.000 BC. Giai đoạn muộn 1.000 BC sắt bắt đầu được sử dụng.
Ở đây, có lẽ lô gic hơn để lấy mốc 500 BC phân chia giai đoạn giữa và muộn, điều đó sẽ phù hợp hơn với sự xuất hiện của việc xuất hiện của hiện vật bằng sắt trong cả khu vực Đông Nam Á.
Phần lớn các địa điểm có quy mô từ 0,33 đến 6,3 ha và mở rộng hơn ở giai đoạn giữa và muộn cho đến 10-20 ha. Một số học giả cho rằng những địa điểm lớn chứng tỏ sự lớn mạnh của phức hợp chính trị - xã hội và sự phát triển kinh tế bộ lạc.
Trong nhóm địa điểm ở vùng này, nổi bật hơn cả là địa điểm Non Pa Wai: Có sự không đồng nhất trong mô tả về địa tầng trong hai sách của Higham 1989 và 1996. Trong mô tả năm 1989 chúng ta thấy:
Non Pa Wai là một đồi rộng chừng 5 ha chứa vết tích hoạt động đúc đồng dày tới 3m. Tại đây, đã phát hiện hàng trăm mảnh của khuôn đúc đất nung hai mang, muôi nấu đồng, ống thổi, quặng đồng, khuôn đúc thỏi đồng nguyên liệu. Phía dưới tầng này là nghĩa địa, trong có mộ chôn theo khuôn đúc.
Trong mô tả năm 1996, tác giả cho biết:
Địa tầng: Lớp sớm nhất dày từ 2-3m, kéo dài khoảng 8 thế kỷ. Đây là tầng cư trú sớm và nghĩa địa.
Giai đoạn bỏ hoang, khoảng 5 thế kỷ. Khi địa điểm được tái cư trú, có một số mộ đã cắt vào đó. Một mộ chứa bộ xương người đàn ông khoảng 25 tuổi, đồ chôn theo có khuôn 2 mang đất nung đúc rìu. Mộ khác có chôn theo rìu như thế.
Lớp mà từ đó có những mộ cắt vào chứa xỉ đồng và muôi múc đồng báo hiệu hoạt động luyện kim kéo dài 8 thế kỷ và dày 2-3m
Mô tả năm 1989
Mô tả 1996
Trên: Vết tích của hoạt động đúc đồng dày 3m.

Dưới: Dưới lớp này là nghĩa địa mà trong đó đã tìm thấy một bộ xương chôn theo 2 khuôn đúc rìu đất nung
Lớp muộn: Mộ táng, một số mộ cắt phá vào lớp giữa. Hoạt động luyện kim.
Lớp giữa: Giai đoạn không có vết tích văn hoá khoảng 500 năm. Bị một số mộ muộn cắt vào. Trong đó có mộ có vết tích của một người đàn ông 25 tuổi, chôn cùng hai khuôn đúc rìu bằng đất nung.
Lớp sớm nhất: Địa điểm cư trú và nghĩa địa dày 2-3 m.
Dựa vào một vài niên đại C14, Higham cho rằng hoạt động đúc đồng bắt đầu ở đây vào giai đoạn 1.500-1.000 BC.
- Đồng bằng Tonle Sap: Tình hình nghiên cứu ở Campuchia gần như bị tê liệt do nguyên nhân chính trị. Do vậy tư liệu hầu như không có ngoại trừ những tư liệu cũ. Vài năm gần đây, hoạt động khảo cổ học ở nước này đã bắt đầu trở lại, song kết quả chưa được công bố đầy đủ, ngoại trừ Dự án khảo cổ học hạ lưu sông Mekong (LOMAP).
Samrongsen: Tại đây đã tìm thấy một số hiện vật đồng, gồm rìu có họng, giáo có họng, vòng tay, chuông và muôi nấu đồng vẫn còn đọng xỉ cũng như khuôn đúc rìu đồng. Niên đại C14 của vỏ sò từ 1749-1235 BC, phù hợp với niên đại ở đông bắc Thái Lan. Một số đồ trang sức giống như ở Khok Phanom Di.
O Pie Can: Khuôn đúc sa thạch đúc rìu và liềm cũng như mảnh muôi nấu đồng.
O Yak: Vòng tay đồng tìm được cùng với mộ hung táng gần O Pie Can.
Nhìn chung, trong thời đại đồ đồng làng cư trú phân bố trên những vùng đất cao gần những vùng thấp ở trung lưu các dòng sông. Sự lựa chọn vùng cư trú cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa phương thức kiếm sống và môi trường. Theo White, yếu tố chủ đạo nhất trong lựa chọn nơi sinh sống là môi trường ngập nước thường xuyên nhưng không ngập sâu. Lúa hoang vẫn mọc ở rìa các sông và mọc vào mùa mưa, ngập nước.
Dữ liệu cả ở mộ táng và nơi ở cho thấy đây là những cộng đồng nhỏ, không có dấu hiệu về trật tự xã hội và cai trị trung tâm, họ chọn những vùng đất thấp gần nguồn nước và ngập nước để thúc đẩy trồng lúa nước. Trên thực tế vết tích lúa gạo đã tìm được ở một số địa điểm hậu kỳ đá mới và đồ đồng. Chứng cứ thực vật và động vật cũng cho thấy hoạt động sống bao gồm gặt lúa, nuôi gia súc, ít nhất có bốn loại con vật đã được thuần dưỡng như lợn, chó, gà, săn bắt, bẫy, đánh cá và thu lượm nhuyễn thể. Cần lưu ý rằng săn bắt và hái lượm luôn đóng vai trò rất quan trọng ở Đông Nam Á không chỉ trong thời tiền sử.
Đa phần các địa điểm thời đại đồ đồng ở Thái Lan là khu mộ táng. táng thức phổ biến là chôn nằm ngửa từng nhóm thành hàng. Đồ tuỳ táng có gốm, hiện vật đá và đồng. Đồ tuỳ táng phần nào thể hiện phân hoá tài sản cá nhân.
Niên đại khởi đầu của đúc đồng nằm trong khoảng năm 1.500-1.000 BC. Sự tồn tại của những tổ hợp khai khoáng, những nơi đúc đồng... cho thấy sự phát triển của truyền thống đúc đồng bản địa. Phần lớn là khuôn đúc hai mang bằng đá sa thạch. Phần lớn vòng đồng được đúc dựa theo nguyên mẫu đá và nhuyễn thể.
- Thời đại đồ sắt ở Thái Lan và một số khu vực Đông Nam Á lục địa: Ngược lại với giai đoạn trước, giai đoạn này những địa điểm đã biết chủ yếu là di chỉ cư trú, rất ít mộ táng được khai quật trên diện rộng.
Những địa điểm có thành bao (kiểu thành đắp đất tròn ở Bình Dương) rất khó để tìm hiểu về tính chất và niên đại của chúng. Không hề có bất cứ tư liệu chính xác nào về niên đại và thậm chí cấu trúc của những thành đất đắp. Những thành đất đắp này tập trung ở lưu vực sông Mun, mở rộng đến lưu vực sông Chi, đồng bằng Siem Riep và miền Trung Thái Lan. Theo các học giả những thành đất đắp này có lẽ để giữ nước. Phần lớn những địa điểm này đều bị bỏ sau thời đại sắt. Ví dụ như ở Noen U Loke, mộ táng thời đại sắt đã được tìm thấy phía dưới lớp mặt 1m trong các vòng đất.
Trong giai đoạn này có một số địa điểm điển hình: Non Chai, Ban Chiang Hian, Non Dua.
Non Chai: Địa điểm điển hình của thời đại sắt, có diện tích (18-38.5 ha) rộng hơn nhiều so với các địa điểm thời đại đồng trước đó. Theo báo cáo khai quật của Bayard năm 1978 thì địa điểm có cấu trúc hình ôvan 1000 x 500m và cao 15m so với vùng xung quanh. Năm 1979, trong khi tiến hành khai quật Van Liere nhận thấy vết tích của hào hay mương nước bao quanh. Năm 1977, khai quật 76m2 . Tại địa điểm này đã thu được số lượng lớn đồ gốm, tàn tích động vật và chứng cứ về đúc đồng và luyện sắt. Dựa vào diễn biến hiện vật gốm và địa tầng, người ta chia ra thành 5 giai đoạn văn hoá, thời đại đồng ở lớp tận cùng.
Theo niên đại C14, giai đoạn I có niên đại 400 BC, thậm chí 500 BC, giai đoạn II-III 300-200BC, giai đoạn IV 200-1 BC và giai đoạn V AD 1-200.
Gốm ở đây khác hẳn so với những địa điểm thời đại đồng thau Non Nok Tha, Bản Na Di và Bản Chiang. Phần lớn đồ gốm trang trí bằng áo gốm đỏ hay hoạ tiết tô màu hình học, giai đoạn cuối là gốm trơn hay gốm văn thừng. Trong đất làm gốm pha vỏ trấu. Cả đồng và sắt đều tìm thấy ở giai đoạn lớp I. Từ giai đoạn lớp II, đã tìm thấy mảnh muôi nấu đồng và những mảnh khuôn đúc đã thấy ở giai đoạn lớp III. Từ lớp II có hạt chuỗi thuỷ tinh. Đời sống chủ yếu dựa trên gạo và cá.
Non Chai là một địa điểm quan trọng thời đại sắt ở nhiều góc độ. Niên đại chính từ 400BC đến 200AD. Phát triển kỹ nghệ luyện kim màu và đen. Luyện kim đồng sử dụng khuôn hai mang và kỹ thuật sáp. Một loạt những địa điểm tương tự như thế đã được phát hiện phân bố dọc theo rìa của châu thổ sông Chi và sông Mun.
Bản Chiang Hian: Địa điểm thuộc trung lưu sông Chi, đây là địa điểm có thành và hào bao quanh. Diễn biến địa tầng và hiện vật giống như Non Chai. Xương trâu đã xuất hiện ở lớp 8, còn ở lớp 7 đã có sắt. ở các lớp 6-8 tập trung những khuôn đúc đồng đúc chuông và vòng tay cũng như mảnh muôi nấu đồng. Giai đoạn gốm III ở lớp IV và V. Tổ hợp gốm khác hẳn với giai đoạn II và có những loại gốm trắng tương tự Non Dua thuộc nửa sau của Thiên niên kỷ I AD. Niên đại của địa điểm 400 BC-200 AD và có thể liên quan đến hào. Theo Higham có thể liên hệ với cấu trúc Cổ Loa.
Tại Thái Lan còn nhiều các địa điểm thời đại sắt như Noen U Loke, Ban Don Ta Phet... Tại những địa điểm này, hiện vật cho thấy mối quan hệ giao lưu văn hóa và trao đổi buôn bán với thế giới bên ngoài đóng vai trò cực kỳ quan trong. Ở Ban Don Ta Phet đã tìm thấy một số lượng lớn hiện vật có nguồn gốc từ Địa Trung Hải, Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam...
Đối với Thái Lan, đặc biệt là Đông Bắc Thái Lan, công nghiệp khai khoáng luyện kim đen và công nghệ làm muối có vai trò cực kỳ quan trọng. Sắt, đồng đỏ, đồng thau và muối được xem là tảng nền kinh tế đẩy nhanh quá trình hình thành những xã hội tiền nhà nước hay dạng Tù trưởng Quốc / hay Lónh chủ (Chiefdoms) của những cộng đồng dân cư đông đúc và lớn mạnh. Đây là cơ sở cho sự hình thành nền văn minh sớm ở đông bắc Thái Lan, tương tự như ở một số khu vực khác của Đông Nam Á
16.
I.5. Đông Nam Á hải đảo: Phương thức kiếm sống và quá trình thích nghi với môi trường tự nhiên, làn sóng di dân và lan toả hội nhập văn hoá
Nhìn chung các học giả cho rằng, những hiện vật kim loại đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á hải đảo tương đối muộn, vào những thế kỷ cuối trước Công nguyên. Mặc dù quặng đồng khá phổ biến ở Luzon, Nam Java và Sumatra, thiếc lại có ở dãy đảo Bangka, Belitung ở phía bắc Malaysia đến miền trung Thái Lan.
Thời đại kim khí khu vực này mang những đặc điểm văn hoá khá độc đáo, sự phân kỳ và tên gọi các giai đoạn thể hiện quá trình tiếp thu và hội nhập nhiều những yếu tố ngoại sinh trên nền nội sinh vững chắc. Tiền sử Indonesia chẳng hạn đã được Soejono phân kỳ và đặt tên theo kiểu kiếm sống thành: săn bắt - hái lượm; nông nghiệp; và thủ công nghiệp…
Dựa vào những phát hiện khảo cổ tại khu vực, các học giả đã phác hoạ diễn biến văn hoá giai đoạn từ thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I sau Công nguyên tức Giai đoạn kim khí sớm (hay cổ kim loại) Giai đoạn kim khí sớm bắt đầu bằng việc xuất hiện của những hiện vật đồng đỏ và đồng thau (theo Bellwood đồng đỏ và đồng thau không thể phân biệt bằng mắt trong bối cảnh khảo cổ học và việc sử dụng chung thuật ngữ “bronze” có thể gây ấn tượng trong một số trường hợp, nhất là ở Indonesia). Rất nhiều những hiện vật được gọi là “bronze” có thể đơn giản là copper, song nếu không có phân tích thì dễ bị nhầm lẫn. Hiện vật bằng sắt và luyện kim đen có nhiều khả năng là từ những nguồn trực tiếp ở Đông Nam Á lục địa trong khoảng những thế kỷ cuối trước Công nguyên. Học giả Bellwood đã lấy mốc năm 500 trước Công nguyên, mặc dù cho tới nay chưa có hiện vật kim loại nào ở hải đảo có niên đại sớm như vậy. Bellwood cũng cho rằng những tổ hợp thời đại kim khí ở đây có thể được gọi là thuộc “giai đoạn Đồng - Sắt” theo thuật ngữ của Heekeren (1958). Mặc dù kim loại xuất hiện muộn và có nguồn gốc từ bên ngoài, song cư dân hải đảo đã chế tác nhiều loại hình địa phương độc đáo như trống đồng Pejeng, bao ngón tay, vòng đeo tay bản rộng… Những năm gần đây đã có những cuộc khai quật có hệ thống được tiến hành ở một số địa điểm nằm trong thời gian chuyển biến từ Sơ sử sang Lịch sử sớm ở bán đảo Thái Lan, Malay và Indonesia. Tư liệu của những cuộc khai quật này giúp soi rọi nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ văn hóa, nguồn lực và nền tảng hình thành nhà nước sớm ở Đông Nam Á hải đảo.
Địa điểm Khuan Luk Pad (Đồi hạt chuỗi) ở tỉnh Krabi, bên bờ tây nam của bán đảo Thái Lan. Địa điểm này được xác định là nơi sản xuất hạt chuỗi đá và thủy tinh vào nửa đầu thiên niên kỷ I. Sự chuyển việc sản xuất hạt chuỗi từ Ấn Độ sang các địa điểm ven biển Đông Nam Á được các nhà nghiên cứu diễn giải là do tăng cường sự năng động của hoạt động trao đổi, buôn bán liên vùng và nội vùng.
Phần lớn những địa điểm cư trú lớn với chứng cứ về buôn bán và phát triển các ngành nghề thủ công đã được phát hiện dọc theo eo biển Malacca, là con đường huyết mạch nối giữa biển Đông Nam Á với Ấn Độ Dương. Tại Indonesia, những địa điểm tương tự cũng đã được khai quật ở bờ biển Sumatra (ví dụ như Karang Agung, Air Sugihan) và Tây Java (Buni) và xa hơn nữa về phía đông ở Sembirang, bờ bắc Bali... Điều đó cho thấy có sự nở rộ của những trung tâm dân cư lớn quanh đường giao thông quan trọng trong mạng lưới trao đổi, buôn bán từ nội địa ra đến ven biển và biển.
Nhỡn chung, khảo cổ học Đông Nam Á hải đảo thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thiên niên kỷ I sau Công nguyên nổi bật lên một số vấn đề căn bản. Đó là: 1. Sự lan toả của cư dân ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian) trong mối liên hệ với nghề trồng lúa nước và 2. Truyền thống mộ chum; 3. Quá trình Nam tiến của trống đồng Đông Sơn với sự hình thành nhà nước sớm...
I.5.1. Nguồn gốc và sự lan toả của cư dân Nam Đảo và trồng lúa nước: Các nhà nghiên cứu khá thống nhất khi cho rằng, nghề trồng lúa nước cùng với sự hình thành những cộng đồng cư dân nông nghiệp sớm ở Đông Nam Á hải đảo là kết quả của quá trình lan toả của các nhóm người thuộc ngữ hệ Nam Đảo từ lục địa và hội nhập giữa các nhóm người làm nông - dân di cư với các nhóm người săn bắt, hái lượm bản địa. Các nhà nghiên cứu mặt khác có nhiều ý kiến khác nhau về con đường di dân và lan toả văn hoá này, trong số đó nổi bật là ý kiến của học giả Bellwood và Solheim.
Trong những nghiên cứu gần đây của mình Bellwood đã khẳng định thêm những luận điểm của mình về sự lan toả của cư dân ngữ hệ Austronesian và trồng lúa nước ở Đông Nam Á hải đảo. Theo đó, sự lan toả đầu tiên của những ngôn ngữ Austronesian, Tai - Kadai (và có thể cả Austroasiatic) bắt đầu trong những cộng đồng đá mới trồng lúa ở Trung Hoa phía nam sông Dương Tử vào khoảng giữa năm 5.000 và 4.000 BC. Blust khôi phục lại quá trình này. Bắt đầu từ Đài Loan (nơi phân bố của những ngôn ngữ cổ Austronesian (gồm cả Proto Austronesian), sau đó là Phillippines, Borneo và Sulaweri, cuối cùng chia đôi: Đi về phía tây tới Java, Borneo và Sulaweri và đi về Đại dương Oceania. Bellwood đã bổ sung rằng, trong giai đoạn ngôn ngữ khi cắt từ phần Proto An có thể đã xuất hiện một số thuộc địa với kinh tế nông nghiệp di chuyển qua eo Formosa từ Trung Hoa lục địa đến Đài Loan và ở đây đã phát triển thành (những) ngôn ngữ Austronesian sớm (ban đầu), và sau một vài thế kỷ một số cư dân nói một trong những ngôn ngữ này đã làm những đợt di chuyển đầu tiên đến Luzon và Phillippines. Sự di chuyển này đã chia Austronesian thành hai: Formosan và Malayo-Polynesian.
Chứng cứ khảo cổ học thời đại đá mới ở Đài Loan bắt đầu khoảng 3.000-4.000 BC với những tổ hợp khảo cổ dạng nam Trung Hoa, có thể lúc đầu được mang tới bởi những nhóm nhỏ của những cư dân nông nghiệp đi qua eo biển Formosa từ Phúc Kiến. Vào khoảng 3.000 năm TCN ở Đài Loan đã xuất hiện lúa gạo. Từ giữa năm 2500-1500 TCN, những tổ hợp khảo cổ học có đặc trưng là đồ gốm trơn và áo đỏ chứ không phải là loại gốm Đài Loan sớm văn thừng đã xuất hiện ở vùng bờ biển và những vùng thuận lợi trong đất liền của Phillipines, Sulawesi, Bắc Borneo, Halmahera và (với lợn nuôi) tới cực nam là Timor. Chưa có một địa điểm nào giai đoạn này được phát hiện ở Indonesia, song những nghiên cứu bào tử phấn hoa ở vùng cao nguyên tây Java và Sumatra cho thấy có một sự phát quang rừng làm nông nghiệp ít nhất là vào khoảng thiên niên kỷ II trước Công nguyên hay có thể còn sớm hơn nữa.
Nguyên nhân lan toả theo Bellwood: Những thuộc địa nông nghiệp của cư dân nói tiếng Austronesian (Nam Đảo) có một sự di cư liên tục, trong một giai đoạn khoảng 4.000 năm, từ vùng tâm điểm nông nghiệp Nam Trung Hoa qua hàng ngàn cây số bờ biển và đi qua vùng biển rộng đông tiến vào Thái Bình Dương.
Chứng cứ khảo cổ học cho thấy cư dân đá mới đã chiếm cư toàn bộ vùng Đông Nam Á lục địa, kể cả bán đảo Mã Lai ít nhất là từ 2.000 trước Công nguyên. Những tương đồng nổi bật về khảo cổ học của tất cả những văn hóa này nằm ngay trong đất liền hơn là đi qua tới những đảo. Có thể giả thiết rằng phần đông những cư dân nông nghiệp của Thái Lan, Đông Dương và Bán đảo Mã Lai lúc bấy giờ nói những ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với ngữ hệ Austroasiatic hiện đại. Ở miền Trung và Nam Việt Nam, tổ tiên của cư dân nói tiếng Chamic Austronesian xem ra đã xâm nhập vào khu vực nơi đã có cư dân ở đông đúc là những cư dân nông nghiệp sớm hơn. Sự hiện diện có trước của những cư dân nông nghiệp ở Mã Lai và Việt Nam đã giải thích tại sao lục địa Đông Nam Á chỉ có những cộng đồng cư dân tiền sử Austronesian nhỏ cư trú xen cài cùng cư dân Austroasiatic.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, trồng lúa ở Đông Nam Á lục địa có trước nghề trồng lúa ở Đông Nam Á hải đảo và sự xuất hiện của lúa được coi là kết quả của sự xâm nhập của cư dân Nam Đảo từ nam Trung Hoa qua Đài Loan vào hải đảo vào khoảng 2.500-2.000 BC. Tuy vậy, Higham cho rằng không có những chứng cứ về trồng lúa ở thời gian trên ở Đài Loan tại các địa điểm thuộc văn hoá Dapenkeng. Soilhem cũng theo thuyết truyền bá song ông cho rằng cư dân thuộc ngữ hệ Austronesian đã tới Đông Nam Á hải đảo và đảo Thái Bình Dương dọc qua bờ biển phía đông của Đông Nam Á lục địa hơn là qua bán đảo Đài Loan
17. Vết tích lúa tìm thấy trong đồ gốm ở một số địa điểm như Gua Sireh (Sarawak) có niên đại 2923-1603 trước Công nguyên18.
I.5.2. Truyền thống mộ chum: Truyền thống chôn cất sử dụng quan tài là những chum gốm lớn phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á hải đảo, ở Đông Nam Á lục địa táng thức này không phổ biến lắm và chỉ thấy đậm đặc ở miền Trung và Nam Việt Nam (trong văn hoá Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh), một số vùng ở Thái Lan... Dù chung một táng thức nhưng có rất nhiều biểu hiện mang tính địa phương, tạo thành những dạng văn hóa mộ chum khác nhau.
Truyền thống mộ chum ở Đông Nam Á được chia thành hai giai đoạn phát triển. Giai đoạn sớm có niên đại vào khoảng thiên niên kỷ I-II TCN với hành loạt các di tích ở Phillippines, Indonesia, Malaysia và ven biển Miền Trung Việt Nam. Chum vò có nhiều dạng khác nhau và có loại trang trí hình người rất riêng ở Phillippines, thể hiện quan điểm thẩm mỹ độc đáo và tín ngưỡng về sự tồn tại của linh hồn.
Trong những mộ chum giai đoạn sớm này, hiện vật tuỳ táng phần lớn là đồ gốm, trang sức bằng đá ngọc và mã não, chưa thấy đồ tuỳ táng bằng kim loại, thuỷ tinh và canelia. Giai đoạn muộn (hay kim khí sớm, kim khí phát triển…), mộ chum phân bố rất rộng, có nhiều khu mộ địa lớn với khối lượng lớn và đa dạng về loại hình của đồ tuỳ táng và đã xuất hiện hiện vật chôn theo bằng kim loại, thuỷ tinh… Nhiều hiện vật có nguồn gốc ngoại lai cũng đã được tìm thấy
19. Đồ tùy táng trong các khu mộ chum giai đoạn này ở Đông Nam Á hải đảo giống như trong các khu mộ chum văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam phản ánh rõ ràng sự phân hóa về của cải và sự hình thành những xã hội phân tầng.
I.5.3. Quá trình Nam tiến của trống đồng Đông Sơn với sự hình thành nhà nước sớm: Cho tới nay, đã có một số lượng đáng kể trống đồng Đông Sơn được phát hiện ở Đông Nam Á. Phần lớn trống tìm thấy là đồ tùy táng của mộ. Những mộ có trống chôn theo đã được xác định là mộ của thủ lĩnh hay của người đứng đầu trong xã hội, dạng “Big man”
20. Sự lan tỏa của trống đồng Đông Sơn một mặt minh chứng cho sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Đông Sơn ở Đông Nam Á, mặt khác trống đồng Đông Sơn được xem như những biểu tượng quyền lực và gắn với sự hình thành nhà nước sớm ở Đông Nam Á.
Những trống Đông Sơn ở Đông Nam Á mà cụ thể là ở Lào, Thái Lan, bán đảo Malay và Indonesia thường có niên đại từ thế kỷ III trước Công nguyên đến thế kỷ I Công nguyên. Sự có mặt của những trống này được giải thích bằng nhiều nguyên nhân. Đó là, do áp lực bành trướng của Trung Hoa (Hán), văn hóa Đông Sơn đã Nam tiến và do quá trình lớn mạnh của những xã hội mới với nhu cầu của những người đứng đầu coi trống như một biểu trưng về quyền lực. Trống thường được tìm thấy ở những địa điểm mang tính chiến lược trên những tuyến giao thông và chuyên chở đường sông. Không những nhập trống từ quê gốc là miền bắc Việt Nam, trống đồng theo truyền thống trống Đông Sơn còn được sản xuất tại Thái Lan hay một địa điểm khác ở Đông Nam Á để đáp ứng nhu cầu của những tổ chức xã hội với cơ cấu mới đang hình thành và phát triển, điển hình là trống Salayar tìm thấy ở miền đông Indonesia. Một số trống có kích thước rất lớn tìm thấy ở miền đông Indonesia lại được xác định có nguồn gốc tại Việt Nam, nói một cách khác chúng được sản xuất tại Việt Nam chỉ nhằm mục đích xuất khẩu
21.
Tuy chưa có thể nhất trí hoàn toàn với những ý kiến trên của nhà nghiên cứu Imamura, đặc biệt về việc sản xuất trống ở Việt Nam với mục đích xuất khẩu. Tuy vậy, có thể thấy rằng văn hóa Đông Sơn có một ảnh hưởng rất lớn ở Đông Nam Á và trống đồng Đông Sơn thực sự là biểu tượng cho quyền lực và sức mạnh của những người đứng đầu trong xã hội.

Tiểu kết
Cho dù những phát hiện cổ nhân và sơ kỳ đá cũ ở Đông Nam Á vẫn chưa được khẳng định một cách chắc chắn, nhưng đã có nhiều chứng cứ để kết luận rằng đây là một trong những khu vực Homo Sapiens hoá của nhân loại.
Cư dân thời đại đã cũ ở đây một mặt có những nấc phát triển tương đồng với những thang bậc kỹ nghệ chế tác công cụ đá của những khu vực khác trên thế giới, mặt khác cũng có không ít những đặc điểm riêng, được quy định bởi sự thích ứng với môi trường tự nhiên và hệ sinh thái khu biệt. Ngay từ thời đại đồ đá cũ đã hình thành hai truyền thống chế tác đá riêng của Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Tuy vậy, chúng không tồn tại đơn lập, tách biệt hoàn toàn khỏi nhau mà đã có những sự đan xen và mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Truyền thống địa phương trong kỹ nghệ đồ đá phản ánh sự đa dạng trong cách kiếm sống, tổ chức xã hội và cho thấy những nhóm cư dân thời này có tính thích ứng cao, linh hoạt để tận dụng tối đa nguồn lực từ môi trường tự nhiên. Nói một cách khác họ đã có những cách thích ứng với giá trị sinh thái cộng đồng khá cao.
Đông Nam Á, đặc biệt là khu vực lục địa là vùng giàu tiềm năng sinh thái (khí hậu, địa hình, địa mạo, nhiệt độ, nguồn lợi thiên nhiên…), vốn được xem là nơi đáp ứng đủ điều kiện cho việc khởi thành và phát triển nghề trồng trọt. Những phát hiện khảo cổ cùng những tư liệu sinh - dân tộc học đã chứng minh một cách chắc chắn quá trình đá mới hoá ở đây với các thang bậc phát triển từ thấp đến cao những hình thức trồng củ, quả làm vườn sơ khai đến trồng cây lấy hạt (đa canh với cây lúa chủ đạo) ở các địa hình khác nhau như hình thức nương rẫy, ruộng chờ mưa, chờ nước thuỷ triều đến nông nghiệp trồng lúa tưới nước… Cư dân Đông Nam Á đã thực hành nhiều loại kỹ thuật trị thuỷ và sử dụng nước khác nhau, trong đó có những kỹ thuật bản địa và cũng không ít kỹ thuật được du nhập từ bên ngoài. Do đặc điểm hệ sinh thái phồn tạp và thực vật rất phát triển nên bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi (nhỏ), cư dân cổ ở Đông Nam Á chưa bao giờ coi nhẹ việc hái lượm phổ rộng, săn bắt, đánh cá… và tuỳ thuộc vào điều kiện địa lý cụ thể, ở một số vùng cách kiếm sống bằng khai thác nguồn lợi tự nhiên vượt trội hơn cách kiếm sống bằng nông nghiệp.
Đề cập tới những đặc trưng của kỹ thuật chế tác và cách thức sử dụng công cụ, dụng cụ của cư dân thời đại đá Đông Nam Á, chúng ta cần lưu ý tới vai trò của công cụ tre nứa, gỗ và sự bảo lưu lâu dài những kỹ thuật truyền thống. Điều này không thể diễn giải bằng sự trì trệ, lạc hậu và kém phát triển về năng lực tư duy… như một số học giả phương Tây trước đây đã làm. Những đặc trưng trên chính là bằng chứng về khả năng tận dụng một cách tối đa các nguồn lực tự nhiên trong phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của các cộng đồng cư dân Đông Nam Á.
Vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay cư dân Đông Nam Á bước vào thời đại kim khí. Bất luận những tranh cãi về niên đại, về nguồn gốc của kỹ thuật luyện kim, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của nó trong đời sống xã hội. Ở Đông Nam Á đã hình thành những trung tâm khai khoáng và luyện kim với quy mô lớn, đây đồng thời cũng là những trung tâm của từng vùng đóng vai trò hội nhập, kết tinh văn hoá. Dù có những bước phát triển không đồng đều, thời đại kim khí cũng là thời kỳ tiếp xúc, giao lưu và hội nhập văn hoá nội vùng, liên vùng phát triển rực rỡ. Tiếp xúc, giao lưu và hội nhập những yếu tố nội sinh với ngoại sinh làm tiền đề cho những thay đổi mang tính bước ngoặt vào những thế kỷ đầu Công nguyên.




(15) Hà Văn Tấn: Khảo cổ học Đông Nam Á - Những phát hiện đáng quan tâm; Giáo trình đào tạo sau đại học chuyên ngành Khảo cổ học; H., 1996, tr.13.
16 Eiji Nitta: The Dawn of the Civilization in the Mekong Basin and its Neighboring Regions. Htm.
17 W.G. Soilhem Solheim: Taiwan, Coastal South China and Northern Vietnam and the Nusantao Maritime Trading Network, In JEAA 2. Brill. Leiden, 2000, p. 279.
18 Ch. Higham: The Bronze Age of Southeast Asia, The Cambridge University Press, Cambridge, 1996, p. 299.
19 Lâm Thị Mỹ Dung: Chuyên đề 3 - Diễn trình văn hoá Việt Nam, trong: Trần Quốc Vượng (Cb): Lịch sử Văn hoá Việt Nam, Đề tài NCKH trọng điểm cấp ĐHQG Hà Nội, H., 2003
20 Nitta Eiji: The Dawn of the Civilization in the Mekong Basin and its Neighboring Regions, Html. 2004.
21 Imamura Keiji: The Distribution of bronze drums of the Heger I and Pre-I types: temporal changes and historical background, Department of Archaeology, the University of Tokyo.
(15) Hà Văn Tấn: Khảo cổ học Đông Nam Á - Những phát hiện đáng quan tâm; Giáo trình đào tạo sau đại học chuyên ngành Khảo cổ học; H., 1996, tr.13.
16 Eiji Nitta: The Dawn of the Civilization in the Mekong Basin and its Neighboring Regions. Htm.
17 W.G. Soilhem Solheim: Taiwan, Coastal South China and Northern Vietnam and the Nusantao Maritime Trading Network, In JEAA 2. Brill. Leiden, 2000, p. 279.
18 Ch. Higham: The Bronze Age of Southeast Asia, The Cambridge University Press, Cambridge, 1996, p. 299.
19 Lâm Thị Mỹ Dung: Chuyên đề 3 - Diễn trình văn hoá Việt Nam, trong: Trần Quốc Vượng (Cb): Lịch sử Văn hoá Việt Nam, Đề tài NCKH trọng điểm cấp ĐHQG Hà Nội, H., 2003
20 Nitta Eiji: The Dawn of the Civilization in the Mekong Basin and its Neighboring Regions, Html. 2004.
21 Imamura Keiji: The Distribution of bronze drums of the Heger I and Pre-I types: temporal changes and historical background, Department of Archaeology, the University of Tokyo.

Lâm Thị Mỹ Dung

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét