Song Viết
Tiếng ngọc lụa reo trong những
cốt cách thanh cao
Hà Hữu Nga
Mùa xuân năm
1975, học năm thứ nhất khoa sử Đại học Tổng hợp Hà Nội, lần đầu tiên được đi thực
địa, khai quật hang Sũng Sàm tại Thung Mơ, Hương Tích với Giáo sư Trần Quốc Vượng,
cũng là lần đầu tiên tôi được nghe hai chữ Song Viết. Tôi nhớ được hai chữ đó vì
nó có một âm hưởng vừa rất lạ, lại vừa như đã thân quen tự thuở nào; hơn nữa
hai chữ đó càng dễ nhớ vì nó gắn liền với hai cái tên rền vang như sấm trong giới
học thuật Việt Nam: Giáo sư Đào Duy Anh, và Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Sau khi kể
với lũ học trò chân ướt chân ráo từ mọi nẻo đường đất nước tụ họp bên Thầy về tấm
gương lao động của hai bậc thầy trên xung quanh chữ Song Viết, Giáo sư Trần nói
đại ý: đi đào khảo cổ cũng giống như
cách đãi chữ tìm ngọc của hai vị giáo sư đáng kính Đào - Nguyễn đối với hai chữ
Song Viết vậy; người làm khảo cổ không được bỏ qua bất cứ mảnh ngọc dữ liệu nào
trong đất.
Thời gian như
bóng câu qua cửa sổ, mới ngày nào mảng nghe Thầy dạy mà giờ đã ngót 40 năm trôi
qua, các bậc Thầy hầu đã ra người thiên cổ, và lũ học trò tập tọng chúng tôi
ngày ấy giờ cũng đã “lục thập nhi nhĩ thuận” cả rồi; ở tuổi này người chiến
binh xưa rửa tay gác kiếm; chúng tôi nay quanh năm sơn cùng thủy tận theo đòi bước
chân của Giáo sư Trần, cũng đã đến lúc có thể buông bay, cất cuốc, giã từ những
vùng non xanh nước biếc của Đông Bắc, Tây Bắc, Thanh – Nghệ, Trường Sơn, Tây
Nguyên hầu mong ké chút thơm lây với nghiệp đèn sách mà tiền nhân định giá 惟有讀書高 “duy
hữu độc thư cao”. Vào độ tiết đông se lạnh, chạnh nhớ đến Thầy, lần giở mấy
trang sách xưa, bỗng gặp lại hai chữ Song Viết, mà nghe như tiếng ngọc lụa reo trong
những cốt cách thanh cao của những bậc thầy 何厺來之了也 hà khứ lai chi liễu dã - nào có đi có đến ấy (lời của Đức
Phật Hoàng Trần Nhân Tông).
I. Song Viết - một mạch ngầm chữ nghĩa
Cụ Đào Duy Anh kể lại: “Sách Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập là tài liệu rất quan trọng về lịch sử
văn học nước ta, đã được hai ông Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm phiên âm và
chú giải và được nhà xuất bản Văn Sử Địa xuất bản năm 1956. Một hôm chúng tôi
được nghe ông Phạm Trọng Điềm nói rằng quyển sách ấy cũng còn một số chữ phiên
âm và giải thích chưa ổn cho nên khi có tái bản thì phải đem hiệu đính lại đã.
Ông nêu chữ “song viết” mà hai ông đã chua là không rõ nghĩa nên còn để tồn
nghi. Ông nói có người cho rằng “song viết” là do chữ “thư song” dịch ra tiếng
Việt, nhưng không chắc có đúng không. Từ đó trong tổ chúng tôi thỉnh thoảng
trong giờ nghỉ lại đem hai chữ “song viết” ra để trao đổi ý kiến và chúng tôi chỉ
mới thống nhất ý kiến được về một điểm là “song viết” mà giải thích là “thư
song” thì không ổn chút nào, vì theo nghĩa ấy thì hầu hết những câu có chữ
“song viết” trong Nguyễn Trãi Quốc âm thi
tập và Hồng Đức Quốc âm thi tập sẽ không thông nghĩa”.
[Đào Duy Anh 1962; 2005: 217].
Giáo sư Đào Duy Anh và nhóm của Cụ đã tìm thấy 19 câu
có hai chữ “song viết” trong ba tác phẩm vào loại xưa nhất, đó là Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập, Hồng Đức Quốc âm thi tập và Bạch vân [Quốc âm] thi tập. Cụ cho rằng
nếu hiểu “song viết” là “thư song” thì tất cả 19 câu có chữ “song viết” trong
ba tập trên đều không “xuôi nghĩa”; hơn nữa không phải bây giờ người ta mới cắt
nghĩa “song viết” là “thư song”, mà ngay cả sách Minh đô sử của Lê Trọng Hàm, do Viện sử học mới sưu tầm được, sau mục
“Nguyễn Bạch Vân tiên sinh thi tập” (Minh đô sử, tập 4, quyển 8), có chép một
bài có hai câu: “Song viết hãy còn hai dặng quýt, Thất gia chẳng quản một con lều”,
mà chữ “song viết” lại chép là “thư song”. Trong khi đó trong cả ba tác phẩm
trên có những chỗ chỉ “song the”, “song bắc”, “song hiên” thì đều dùng chữ 窗 song cửa, mà không dùng chữ 雙 song hay 双 song (viết tắt) trong hai chữ 雙曰 “song viết”. Cụ
cho rằng nếu Nguyễn Trãi muốn dịch nghĩa chữ “thư song” thì phải dịch là “song
sách”, chứ không thể dịch là “song viết”. Bởi vậy Cụ bỏ hẳn chữ “thư song”, và
đặt câu hỏi: “Chữ “song viết” có đúng chữ của nguyên văn không, hay là do chữ
khác chép lộn thành?”. Cụ kiểm tra bản Ức
Trai thi văn tập của thư viện Viện sử học thì trong đó chữ “song viết” của
bản Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập lại
chép là 𣌋曰 “sớm viết”. Và tại Thư viện Khoa học Trung ương có bản Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, viết tay, số AB 635, có
một số chỗ chữ “song viết” của bản Bạch
Vân thi tập lại chép thành 癶曰 “bát
viết”. [Đào Duy Anh 2005: 220, 221]
Do có những cách viết
khác nhau như thế nên cụ Đào đoán hai chữ “song viết” là chữ viết lầm. Căn cứ
vào hai chữ 癶曰 “bát viết” trong bản Trình quốc
công, Cụ cho rằng chữ 双 song (viết tắt) có thể bị chép
lộn bằng chữ 癶 “bát”, nhưng nếu xét về nghĩa thì thấy chữ 癶曰 “bát
viết” không thích dụng với các câu trong tập thơ nên Cụ đã gạt bỏ chữ này. Cụ
thấy trong tập thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một bài giống hệt bài Mạn thuật 2 trong tập Nguyễn Trãi, ở câu
5 có mấy chữ “Song viết huống còn hai
dặng quýt” thì trong tập Nguyễn Trãi chữ “song viết” lại là chữ “nô bộc”: “Nô bộc
ắt còn hai dặng quýt”. Vậy là chữ “nô bộc” ở tập Nguyễn Trãi đã chuyển thành chữ
“song viết” ở tập Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong đó chữ 奴 “nô” theo cụ Đào rất dễ lầm thành chữ 双 song. Vì vậy Cụ đặt câu hỏi: Có phải chữ 双 song là do chữ 奴 “nô” mà thành không? Và thế là Cụ đã thử đưa “nô bộc” thay cho “song viết”
trong các câu thơ của cụ Nguyễn Trãi, chẳng hạn câu 6: “Nô bộc có nhiều dân có
khó, Cửa nhà càng rộng thế càng phiền”; câu 2, nếu dùng chữ “nô bộc” thì thành:
“Con cháu mựa thành nô bộc tiện”, theo Cụ “kể cũng hơi khó hiểu” nhưng khi đặt
vào với vế sau: “Nghìn đầu cam quýt ấy là tôi”
thì thấy chữ “nô bộc” ở vế trước lại “đúng lắm”. Tương tự như vậy, “nô bộc tiện”
đi với “nô bộc ngặt” ở câu 1 thì “lại càng thông hơn”; còn những câu 17, 18, 19
của tập Nguyễn Bỉnh Khiêm thì dùng chữ “nô bộc” “kể cũng thông hơn” chữ “sớm tối”.
Tuy nhiên Cụ Đào vẫn nhận thấy “đối với hơn hai phần ba số câu thì chữ “nô bộc”
không thích hợp”. Để khắc phục tính chất không thích hợp trên, cụ Đào tiếp
tục đi tìm những chữ có tự dạng gần với 雙 hay 双曰
“song viết”, thì Cụ thấy có chữ 從且 thong thả viết tắt 从且 gần với tự dạng 双曰 “song viết”, nên cụ gọi “thong thả” là “chữ
thiên thành”, “gán chữ ấy vào các câu khác thì thấy cũng nhiều câu xuôi nghĩa”.
[Đào Duy Anh 2005: 220, 221, 223].
Từ các phân tích
trên, Cụ tóm tắt quá trình xuất hiện của chữ “song viết” như sau: “Sự sai lầm
trước hết là do chữ “thong thả” biến thành, vì nghĩa trong cả tập thơ của Nguyễn
Trãi, cơ hồ bài nào cũng là ca ngợi cảnh thanh nhàn ở điền viên, thì không thể
nào không thường dùng chữ “thong thả” là chữ cửa miệng để chỉ cảnh thanh nhàn,
thế mà trong cả tập chỉ thấy có một bài “Tự thán 39” là có chữ “thong thả” rõ
ràng: “Thong thả dầu ta ngoài thế giới,
La ngàn non nước một thằng hề”. Nhưng tại sao chữ “thong thả” ở câu ấy lại
không biến thành “song viết”? Có lẽ vì ở đây chữ “thong thả” được viết bằng 從且 cho nên người ta không lầm, chỉ ở những chỗ
viết là 从且 hay 雙且 mới bị lầm làm “song viết”. Đến như Hồng Đức Quốc âm thi tập, trong ấy
cũng ca tụng cảnh thái bình và nhàn hạ rất nhiều, chữ “thong thả” cũng là chữ
hay được dùng lắm. Thế mà ở đây thấy có hai câu có chữ “thong thả” là: “Chín lần
lèo rủ dầu thong thả, Bốn biển lòng
vui phỉ ngóng trông” (Bài “Diều giấy”); “Bốn phương phẳng lặng kềnh bằng thóc, Thong thả dầu ta bỏ lưới câu” (Bài “Bạch
Đằng”). Lại trong phần “Nhàn ngâm thi phẩm” chép ở sau tập Hồng Đức, bài đề “Tượng
Bà Banh” có câu: “Chẳng lên bảo điện ngồi thong
thả, Khéo đứng ru mà đứng mãi này!”. Ở hai câu trên thì “thong thả” viết là
通且, ở câu dưới thì thong thả viết là 從且. Vì thế cho nên khi chép lại, người ta không
chép lầm. Nhưng trong một bản có chỗ chép là 从且. Những
chỗ chép là 从且 thì đã bị sao lầm thành “song viết”. Theo cụ Đào, đến tập Bạch Vân thì “có thể nói cảnh sống thanh
nhàn là đề tài duy nhất của toàn tập”, vì vậy ở tập này không thể lộn “thong thả”
với “song viết” được. Thế mà trong tập đó lại vẫn có những câu có chữ “song viết”;
có bài có cả chữ “thong thả” lẫn chữ “song viết”: “Chốn điền viên cũ dầu thong thả, Đạo thánh hiền xưa luống chốc
mòng. Song viết chớ rằng đã ngặt. Đâu
thời cũng có xuân phong”. [Đào Duy Anh 2005: 224, 225, 226].
Đối vối trường hợp trên, cụ Đào cho rằng đã có sự lầm
lẫn từ “nô bộc” sang “song viết”; trong câu “Song viết hãy còn hai dặng quýt,
Thất gia chẳng hết một con lều” thì chữ “song viết” “rõ ràng là do chữ “nô bộc”
biến thành. Theo Cụ, bài có câu ấy ở tập Bạch
Vân chính là một bài của tập Ức Trai đã bị sao sang. “Vào thời Nguyễn Trãi
- cuối Trần và đầu Lê - chế độ nô tỳ còn thịnh cho nên sự giầu sang còn được
tính bằng số nô bộc. Ở những câu 1 và 2, “nô bộc ngặt” và “nô bộc tiện” nghĩa
là nô bộc ít ỏi, không đủ để sai khiến, đặc biệt ở câu 2 thì lại rõ lắm: Tác giả
khuyên con cháu đừng hiềm về nô bộc (tôi tớ) ít, vì “nghìn cây cam quýt” đó là
tôi tớ chứ gì (ngày xưa tôi tớ thường gọi là thằng Cam, thằng Quýt)…Ở câu 6,
“Song viết có nhiều dân có khó” thay chữ “song viết” bằng “nô bộc” thì câu rất
là thích hợp với nghĩa cả bài”. Theo cụ Đào, sở dĩ “nô bộc” biến thành “song viết”
vì chữ 奴 “nô” vốn dễ lầm
thành chữ 双 song; còn chữ 僕 bộc
không thể lầm thành chữ 曰 viết, nhưng vì sau khi chữ “thong thả” đã biến thành chữ 双曰 “song viết”, “thì một người chép vụng về nào
đó không đọc ra chữ “nô bộc”, thấy chữ 奴 “nô” hơi giống chữ 双 song, đã bị chữ “song viết” hấp dẫn mà đồng hóa
luôn chữ “bộc” với chữ “viết”. Còn chữ “sớm tối” thì trong Ức Trai thi văn tập, đối với câu “Sớm viết lại toan nào của tích” thì
người chép đã chép chữ 雙 song, rồi lại bỏ đi mà chép chữ 𣌋 sớm
ở bên. Nhưng chữ “sớm” không thể đi với chữ “viết” được, mà chỉ có chữ “sớm tối”
là thích hợp. Xét tự dạng thì chữ 最 tối nếu bỏ phần dưới thì còn chữ 曰 viết; hơn nữa chữ 最 tối viết thảo cũng đọc lầm thành chữ 曰 viết
được. Cuối cùng cụ Đào kết luận: “Xem như thế thì thấy chữ “song viết” là một
chữ vô nghĩa mà có cái vận mệnh lạ lùng đã cho nó có một sức hấp dẫn đặc biệt,
khiến người ta, trong khi chép lại tập thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, hễ gặp chữ
gì khó hiểu mà có tự dạng ít nhiều tương tự với nó thì người ta dùng nó để giải
quyết. Do đó mà những chữ “thong thả”, “nô bộc”, “sớm tối” trong tập thơ ấy đều
đã biến thành ‘song viết’”. [Đào Duy Anh 2005: 227, 228]. Toàn bộ kết quả dịch,
nghiên cứu và chú giải của Cụ về sách Quốc
âm thi tập của Nguyễn Trãi đã được sử dụng và công bố trong Nguyễn Trãi Toàn tập, bao gồm các phần
“Lời dẫn về hai tập thơ ‘Ức Trai thi tập’” (tr.249-264); “Quốc âm Thi tập” (tr.
395-476); và “Chú thích Quốc âm Thi tập” (tr. 703-844) [Uỷ ban Khoa học Xã hội
Việt Nam – Viện Sử học, 1976].
II.
Song Viết – một phương trình hai ẩn
Khác với Giáo sư Đào Duy Anh, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn
cho rằng “hai chữ “song viết” chính
là hai chữ vốn chép đúng, và nên xuất phát từ chúng để khảo sát". Từ đó
ông đã xác định những khả năng ngữ âm để đọc hai chữ đó. Trước hết với chữ
song, có thể có những cách đọc sau:
Song
Sung Suông Sông
Xong
Xung Xuông
Xông
Rong
Rung Ruông Rông
Thong
Thung Thuông Thông
Chong
Chung Chuông Chông
Giong Giung Giuông Giông
Theo ông, “nói chung phải đọc với thanh bằng (ngang,
huyền), nhưng cũng có thể cá biệt đọc cả với thanh trắc (sắc, nặng, hỏi, ngã)”.
Ông cho rằng S có thể đọc thành X, R, TH, CH, G là vì trong chữ nôm đã có những
tiền lệ như vậy, chẳng hạn Xưa (sơ), Xùng (sùng), Xây (thổ + sai), Xằng (mịch +
sang); Rải (sái), Rờ (sơ), Rây (si), Rộ (sô); Thày (sài), Thầy (sài), Thưa
(sơ), Thửa (sở); Chọn (soạn), Chùm (sâm), Chấu (trùng + sửu), Chum (thổ + sâm);
Giường (sàng), Giấu (sửu), Giùm (thổ + sâm), Gium (thổ + sâm). ONG có thể đọc
thành UNG, UÔNG, ÔNG vì đã có các tiền lệ: Cùng (cọng), Cụng (cọng), Bùng (vũ +
phong), Lùng (thảo + long); Buồng (phòng), Chuông (trọng), Ruồng (thủ + long),
Ruông (túc + long); Rồng (long), Lông (vũ + long), Rông (thủy + long). Những
trường hợp cá biệt có chuyển thanh chẳng hạn như: Lâm (lấm), Lang (lẳng), Lần
(lấn, lận), Rằng (rẳng, lãng). Đối với chữ Viết cũng có thể dự kiến các cách đọc
sau: Viết (Vit, Vêt, Vet, Vat, Vơt, Vươt); Phiết (Phit, Phêt, Phet, Phat, Phơt,
Phươt); Miêt (Mit, Mêt, Met, Mat, Mơt, Mươt); tiền lệ của việc đọc V thành PH,
M: Phũ phàng (vũ), Bao phủ (vũ); Mùa (vụ), Mùi (vị), [Năm] mùi (vị); tiền lệ đọc
IÊT thành IT, ÊT, ET, AT, ƠT, ƯƠT: Rit (tiệt), Tít (tiết), Rịt (mịch + liệt), Sịt
(khẩu + tiết); Rệt (liệt), Thết (thiết), Sết (thủy + triết), Sệt (tâm + liệt);
Tét (tiết), Rét (thủy + liệt), Thét (hỏa + thiết); Vát (việt), Vạt (y + việt);
Lướt (liệt), Vượt (việt), Trượt (diệt); Nớt (niết), Trợt (điệt), Vợt (mịch + việt),
Cợt (khẩu + kiệt). (Nguyễn Tài Cẩn 1985: 183-184).
Từ các khả năng đọc trên, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho rằng
“đã có thể tiến hành kết hợp cặp đôi, tạo ra tất cả mọi khả năng đọc có thể có
(đại để như song vít, song vịt, sòng vịt,
v.v) và tập hợp thành bảng để bắt đầu cân nhắc, đối chiếu với yêu cầu của văn cảnh.
Giả dụ rằng hai tiếng nôm ta đang tìm là hai “ẩn số” X và Y. Tìm ra giá trị của
X và Y tức là phải tìm ra hai tiếng thỏa mãn đồng thời hai điều kiện dưới đây: i)
phải suy ra được từ song viết đúng
theo quy tắc đọc chữ nôm; và ii) phải phù hợp với mọi yêu cầu của văn cảnh”.
Theo ông, căn cứ vào 19 câu thơ và văn hiện có hai chữ song viết thì có thể xác
định rằng ẩn số Y là một tiếng bắt buộc phải thuộc thanh trắc; còn ẩn số X thì
chắc là một tiếng thuộc thanh bằng, nhưng cũng không loại trừ khả năng thuộc cả
thanh trắc. Về phương diện ngữ pháp thì hai tiếng XY phải là hai tiếng tạo
thành một từ đôi (song tiết) mang ý nghĩa tổng hợp, đặt theo kiểu láy nghĩa (có
quan hệ song song giữa hai yếu tố đồng loại), hoặc đặt theo kiểu láy âm (cụ thể
là láy phụ âm đầu, vì 5 lần có hiện tượng XY đối với những từ như thế: đối với hôm chiều, hôm mai, cửa nhà, đôi co, nết na.
Trong tiếng Việt, hai kiểu từ láy nghĩa và láy phụ âm đầu có nhiều nét gần gũi
nhau, có thể dùng bên này đối cho bên kia, nên xét trên nguyên tắc chưa thể xác
định được XY cấu tạo theo lối nào trong hai lối đó. Nhưng vì hiện tượng đối với
hôm chiều, hôm mai, cửa nhà, đôi co chiếm tỷ lệ lớn hơn (4/5 lần), nên XY có
nhiều khả năng là một từ láy nghĩa hơn là một từ láy âm. Hơn nữa do XY là một từ
đôi nên chỉ có thể thuộc một trong ba từ loại là danh từ, động từ hay tính từ,
vì chỉ ba từ loại này mới giữ được nhiều chức vụ cú pháp khác nhau, đáp ứng được
sự đòi hỏi của nhiều văn cảnh khác nhau”. Bên cạnh đó còn phải đặc biệt nhấn mạnh đến “sự tương hợp về ngữ
nghĩa và ngữ cảnh; yêu cầu này chỉ được thỏa mãn khi đặt XY vào câu thì câu đó
phải có nghĩa, phải hiểu được; câu đó không chỉ phù hợp với nội dung của toàn
bài, mà còn phải phù hợp cả với tư tưởng, văn phong của tác giả, hợp với đặc điểm
ngữ ngôn, văn tự của thời đại nữa”. (Nguyễn Tài Cẩn 1985:
186, 187).
Từ các yêu cầu trên, sau khi đã tra cứu các từ điển,
cân nhắc từng trường hợp một trong số hơn 6000 trường hợp ghi trong bảng, Giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn nhận thấy “tuyệt đại đa số trường hợp đều phải bị loại… Duy
chỉ có trường hợp sau đây là trường hợp đáng được lưu ý: trường hợp rông vát, rong vát, róng vát. Cái ấn tượng
đầu tiên đến với chúng ta là rông vát,
rong vát, róng vát đọc lên nghe rất lạ. Nhưng đây lại là những từ đôi có sẵn
và khá cổ”. Ông đã xác định mối quan hệ giữa rông vát, rong vát, và róng
vát theo hai giả định: i) có thể chia thành ba từ khác nhau, vì chúng khác
nhau về ngữ âm và khác nhau cả về nghĩa, hoặc nhiều, hoặc ít; ii) có thể chia
thành hai: một bên là róng vát và một
bên là rông vát, rong vát vì rông vát, rong vát đều thuộc mô hình “bằng
– trắc” và có ý nghĩa hết sức gần nhau (trong lúc róng vát có ý nghĩa hơi xa hơn, và có thanh trắc ở đầu); iii) cũng
có thể nhập tất cả làm một vì nghĩa của ba cụm từ đó vốn bắt nguồn từ róng vát, chạy rong, như trong từ điển của
Génibrel đã giảng giải, sau đó mở rộng nghĩa ra. Theo ông, “trong giai đoạn
nghiên cứu hiện nay, cách chia thứ hai có nhiều nét ổn thỏa hơn cả. Nhưng dầu về
vấn đề này nay mai có xử lý thế nào đi nữa, thì hiện nay cũng đã khá có cơ sở để
tin tưởng rằng rông vát, rong vát, và róng vát chính là những khả năng đọc
nôm khá hợp lý của song viết” xét cả
về thanh điệu bằng trắc, cũng như quy tắc đọc nôm tương ứng giữa vát và viết. Tuy nhiên ông cũng nhận thấy đối với ba cụm từ này thì “việc
tìm hiểu, phân tích mặt ngữ pháp có phần quanh co, khó khăn hơn…Trong tiếng Việt
loại từ láy nghĩa có thể chia thành 3 kiểu nhỏ: a) kiểu ghép hai yếu tố đồng
nghĩa, như thôn xóm, binh lính; b) kiểu
ghép hai yếu tố trái nghĩa, như thị phi,
thành bại; và c) kiểu ghép hai yếu tố cũng không đồng nghĩa, cũng không
trái nghĩa, như tốt tươi, quần áo,
v.v… Trong trường hợp ba cụm từ trên, “róng
vát thì dứt khoát thuộc kiểu đầu”, còn rông,
rong vốn có quan hệ lịch sử với yếu tố long ở các tiếng Thái, theo quy luật
chuyển l thành r (l → r), về trường hợp này thì Haudricourt (1960) và Maspéro
(1912) đã làm rõ trong các công trình của họ. (Nguyễn Tài Cẩn 1985: 191-194).
Đối với giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, “một vấn đề tế nhị nhất:
vấn đề ngữ nghĩa”. Bước này gồm hai nhiệm vụ: i) tìm hiểu những khía cạnh ý
nghĩa đã cho một cách khách quan ở từ điển; ii) đối chiếu với nghĩa ở từng câu.
Vì cho rằng song viết là rông vát cho nên ông đã sử dụng nghiệm
XY = rông vát để kiểm tra kết quả của
lời giải. Theo ông: “căn cứ vào tài liệu thống kê sơ bộ của hai cụ Trần Văn
Giáp và Phạm Trọng Điềm thì rông vát
(song viết) là một từ có tần số xuất hiện thuộc vào loại cao nhất trong đám
những thực từ hay được dùng lặp đi lặp lại nhiều lần ở Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập: rông
vát xuất hiện 8 lần, tập trung ở ba mục: Ngôn chí (3 lần), Thuật hứng
(2 lần) và Bảo kính cảnh giới (3 lần).
Như vậy rất có khả năng rông vát
chính là một từ quan trọng vào bậc nhất của Nguyễn Trãi, một từ nằm trong cùng
một hệ với những từ liên quan mật thiết đến đề tài “xuất xử”, “vui cảnh ẩn dật”,
“an bần lạc đạo” ta vốn thường gặp trong Quốc
âm thi tập.” Để đánh giá mức độ phù hợp của rông vát với 19 câu thơ văn được phát hiện có từ song viết, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã “tiến
hành một đợt điều tra thử ý kiến của những người có hiểu biết về mặt văn học”,
và kết quả thu được là: trong 14 trường hợp thì ý kiến đa số (38) đều thống nhất
cho rằng “hình như có sự ăn khớp khá tự nhiên về mặt ý nghĩa: i) trước hết các
khía cạnh nghĩa “dong chơi thơ thẩn, nhàn tản, phóng túng” trông có vẻ khá ăn
khớp với 8 câu viết về “hằng nga nguyệt” và viết về “ngư, tiều, canh, mục”
trong Hồng Đức Quốc âm thi tập, đó là
các câu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, và 8. ii) ý nghĩa “dong chơi thơ thẩn, nhàn tản,
phóng túng” “cũng được cho là tương đối phù hợp” với một số câu 9, 10, 11, 12,
13, và 14 của Nguyễn Trãi. Trong tổng số 23 văn cảnh cũng có đến 4 trường hợp xem
ra cần phải có cân nhắc, biện luận, đó là các câu 15, 16, 17, và 18; một số ý
kiến ngả về khía cạnh “vất vơ vất vưởng”. Đối với ông “Duy chỉ trong một câu
sau đây (ở Thập giới cô hồn quốc ngữ văn)
là cảm thấy có phần phải đắn đo thực sự”, đó là câu 19. Rông vát liền tay, gương lờ (?) non ánh (?), Hôm mai họp mặt, nội cỏ
vườn lau. Với trường hợp này ý kiến rất phân tán, có người cho là róng vát với nghĩa “xoay xở”; có người
cho là rông vát với nghĩa “bừa bãi,
qua quýt”, có người lại cho rằng cả rông
vát lẫn róng vát đều không đúng;
tuy nhiên ông cho rằng “đây vẫn là từ rông
vát với nghĩa “dong chơi”. Và trong bài viết vào năm 1974 ấy, ông kết luận:
“Trong tình hình nghiên cứu hiện nay, có thể tạm cho song viết là cách ghi nôm của rông
vát …rông vát đáng được xem là một
từ tương đối đủ điều kiện để thỏa mãn các yêu cầu của 23 văn cảnh đang xét” (Nguyễn
Tài Cẩn 1985: 197, 201).
Cùng năm, nhà văn Nguyễn Công Hoan (1974) giới thiệu bốn
câu thơ của cụ Nguyễn Hằng (1548 – 1625), trong đó có hai chữ mới “song kiết” hoặc “song biết”, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã công bố thêm một nghiên cứu
mới cho rằng “song kiết tức là song biết và tức cũng là song viết…đây lại là một trường hợp được
cấu tạo theo lối láy âm hay láy nghĩa, vì dưới dạng song viết nó đã từng được dùng để đối với “hôm chiều”, “cửa nhà”,
“đôi co”, “nết na” v.v…Đối với một trường hợp cấu tạo theo lối ấy mà chỉ có một
sự khác nhau nhỏ ở phụ âm đầu của tiếng thứ hai, khi đọc theo âm mặt chữ, như sự
khác nhau giữa “viết”, “biết”, và “kiết”, thì chắc rằng đó không phải là một sự
khác nhau dễ dàng đưa đến khả năng có thể khu biệt thành ba từ…Thêm vào đó, sự
luân chuyển giữa B, K, và V không phải là một sự luân phiên ngẫu nhiên, vô cớ
mà là một sự luân phiên có cơ sở ngữ âm lịch sử rõ rệt…Nếu xét một cách thật
toàn diện thì ở đây chúng ta có khá nhiều cơ sở để có thể tin được rằng “song
viết”, “song biết”, “song kiết”, xét về cách ghi và cách đọc theo âm mặt chữ
thì tuy có chỗ khác nhau, nhưng xét về từ Nôm được ghi thì thực ra chỉ là một”.
(Nguyễn Tài Cẩn 1985: 211 – 212).
Để có thêm cớ liệu xác định ba chữ trên chỉ là một,
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã xem xét cẩn thận “những tiền lệ phụ âm V được ghi bằng
thanh phù K, ví dụ vấp (túc + cấp), vập (cập), vấu (cấu) v.v…Trong ngôn ngữ văn
học cũng như trong phương ngôn…vẫn có những cặp từ nêu lên mối quan hệ V – K
như vậy: chỗ nước vẩn – chỗ nước quẩn; vấn khăn – quấn khăn; vầng – quầng; văng
chài – quăng chài; cá vẫy – cá quẫy v.v… Sự tồn tại ở trong chữ nôm của ba cách
ghi “viết – biết – kiết” là một hiện tượng về cơ bản cũng không khác gì sự tồn
tại của mối tương ứng “vụ - gụ - cù” ở trong “bong vụ” (Nam bộ), “”đánh gụ”
(Nghệ An), “đèn cù” (Hà Nội), hoặc sự tồn tại của mối tương ứng “vấp – bấp – gấp”
trong ba cách nói “chân đi vấp phải đá”, “chân đi bấp phải đá”, “chân đi gấp phải
đá” mà ta hiện còn gặp ở ba phương ngôn Bắc bộ, Thừa Thiên và Nghệ An, Hà Tĩnh.
Sau khi minh định về phương diện ngữ âm, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng không quên
lưu ý đến ngữ nghĩa bài thơ của cụ Nguyễn Hằng để tiếp tục khẳng định sự phù hợp
của từ rông vát. Theo ông, qua các từ
điển cuối thế kỷ 19, khi truy tìm giải thích ý nghĩa của từ rông vát, có một số khía cạnh ngữ nghĩa
đã từng đề cập có liên quan đến lối sống hàn nho đó. Ví dụ các khía cạnh “ngao
du, thơ thẩn”, “nhàn tản, ung dung”, “vô tâm, vô tư”, “phóng túng, thảng
thích”, “sống vất vả, thanh bần, đạm bạc” v.v…Rõ ràng những từ này rất phù hợp
với nội dung trong bốn câu thơ của cụ Nguyễn Hằng. “Và có lẽ cũng chính những
điều này đã làm cho gia đình cụ cứ tưởng rằng đây là từ “kiết”…Đặt “song kiết”
vào các câu như: “Song kiết” có nhiều dân có khó, Cửa nhà càng rộng thế càng
phiền; hay: “Song kiết” liền tay, gương lờ (?) non ánh (?), Hôm mai họp mặt, nội
cỏ vườn lau, thì ai cũng cảm thấy rằng nội dung sẽ trở nên rất khó hiểu. Ngược
lại nếu đọc là “rông vát”, với nghĩa trường “thơ thẩn, nhàn nhã, thảng thích
v.v…thì sự giải thích sẽ có phần được thỏa đáng hơn nhiều”. (Nguyễn Tài Cẩn
1985: 216 – 219). Và ông kết luận: trong số những giả thuyết hiện có như “thong
thả”, “nô bộc”, “sớm tối”, “suông nhạt” [Đỗ Văn Hỷ 1967], “song cát” [Đoàn Ngọc
Phan, 1975], “song kiết” không có một trường hợp nào có thể ăn khớp đồng thời với
cả ba cách ghi đó. Riêng giả thiết “rông vát” thì vẫn còn ăn khớp được”. (Nguyễn
Tài Cẩn 1985: 223).
Cho đến năm
2005, tuy thừa nhận: “Nửa thế kỉ đã trôi qua, nhiều nhà nghiên cứu đã lên
tiếng, nhưng hai chữ Song Viết mãi đến
nay vẫn đang còn là 2 chữ X+Y đầy bí ẩn, chưa được giải mã”, nhưng ông vẫn kiên
trì rằng cần phải gắng tìm cho kì được những kết cấu X+Y, và phải thoả mãn đầy
đủ các điều kiện như sau: i) về mặt gốc tích, X+Y phải là loại kết cấu cổ, hiện
không còn trong bộ nhớ của người hiện đại nữa, vì vậy mới có hiện tượng xưa nay
không ai hiểu Song Viết là gì. Cứ
ngồi vắt óc cố tìm cho ra một giải pháp có thể rõ nghĩa ngay được, đó là một
sai lầm; ii) về cách đọc (phụ âm, vần, thanh điệu), X phải suy ra được từ Song và Y phải suy ra được từ Viết, theo qui luật ngữ âm lịch sử; iii)
về mặt từ loại, X+Y phải là danh từ có thể vị từ hóa, hoặc là vị từ có thể danh
từ hóa. Việc vừa phải đối lại “hôm chiều”, “hôm mai”, “cửa nhà” vừa phải đối
lại “đôi co”, “nết na” đòi hỏi như thế; iii) về mặt cấu tạo từ, X+Y phải là từ
ghép láy nghĩa hoặc là từ ghép láy âm để có thể đối lại được các trường hợp vừa
dẫn; iv) “về mặt ngữ nghĩa, X+Y phải có nội dung thật ăn khớp với cái tứ chung
toát ra từ trong toàn thể các câu, các bài” (Nguyễn Tài Cẩn 2005). Là một nhà khoa học
chân chính ông không ngại tự nhận: “Chúng tôi trước nay đều thiên về Rông Vát trong tuyệt đại đa số trường
hợp, vì cho rằng đó là một kết cấu đã được xác nhận trong từ điển (Huỳnh Tịnh
Của) và kết cấu đó có 2 nghĩa Vui Thú
hay Vất Vưởng hợp với tứ thơ hơn cả,
nhưng sợ rằng chúng tôi còn chủ quan, chưa đủ nhạy cảm trong thưởng thức văn
học. Mong rằng bạn đọc, nhất là các nhà nghiên cứu, các nhà văn, nhà thơ chịu
khó suy ngẫm thật kĩ càng về các câu thơ hiện đang còn nghi vấn, cố gắng vận
dụng tất cả sự tinh tế của mình trong nghệ thuật phân tích, để cuối cùng có thể
đi đến được những câu trả lời thích đáng nhất trong vấn đề tìm hiểu các bài thơ
cổ điển này” (Nguyễn
Tài Cẩn, 2005).
III. Song Viết – một mạng
kết nối các liên tưởng
Cũng
xin được nói trước rằng bài viết nhỏ này không phải là một nghiên cứu ngôn ngữ;
bản thân người viết chỉ là một chuyên viên khảo cổ học thời đại đồ đá, không có
đủ tri thức và phương pháp ngôn ngữ học để giải quyết một vấn đề hóc búa như Song
Viết; vì vậy, những suy nghĩ trình bày ở đây nếu có vô tình liên quan đến lĩnh
vực hoặc tri thức ngôn ngữ học thì đó chỉ thuần túy là một số hiểu biết cóp nhặt
được khi đọc các công trình nghiên cứu ngôn ngữ; còn lại chủ yếu là một vài liên
tưởng theo cách tiếp cận khảo cổ học mà chúng tôi học được từ Thầy mình và suy
nghĩ về câu chuyện hai chữ Song Viết ở chùa Hương năm nào mà thôi. Trong tâm tưởng
tôi, Giáo sư Trần Quốc Vượng luôn song hành với người bạn lớn của Thầy là Giáo
sư Nguyễn Từ Chi. Tâm cảm đó chẳng khác nào một nỗi ám ảnh, bởi có một lần,
nhân ngày giỗ cụ Từ, tôi được nghe những lời tận đáy lòng Thầy về người bạn của
mình: người ta trao cho cụ Từ bộ “Y phục bất xứng kỳ đức”. Ý thầy là lúc sinh
thời cụ đã không được cư xử xứng đáng với một bậc kỳ đức kỳ tài. Vốn hay cãi,
tôi đánh bạo nói: Thưa Thầy, em lại thấy cụ Từ là người “Y phục dĩ xứng kỳ đức”.
Thầy Vượng hỏi: Tại sao cậu lại nghĩ thế? Tôi thưa: Em thấy không có bất kỳ bộ
y phục nào đẹp bằng bộ “Cạp váy Mường” do cụ Từ dệt cho người đời cả. Thầy trở
nên trầm tư, và khẽ nói như nói với chính mình: “Có thể thế thật! Nói về cụ Từ
ai cũng nghĩ ngay đến Hoa văn Mường, Cạp váy Mường”. Rồi Thầy quay lại hỏi tôi:
“Thế cậu học được gì từ Ông cụ?”, Tôi thưa: Em học được hai chữ “sống sít”.
Đối
với tôi, các công trình của Giáo sư Từ Chi (Nguyễn Từ Chi 1974a,b; 1978, 1996,
v.v…), là một khối tri thức mênh mông uyên áo, và trong các công trình đó tôi
thường nhớ tới văn phong khoa học bậc thầy của ông, nhất là những từ lấp láy
khi ông dùng để tả về nghề dệt nói chung và về các motif hoa văn cạp váy Mường
nói riêng, trong đó các từ đã thực sự trở thành các con chữ đang sống, đang múa
hát trong văn cảnh của chúng như: “le lói”, “nhúc nhíc”, “chen chúc”, “chồng chất”,
“loang loáng”, “tim tím” v.v…Riêng từ “sống sít” của ông, tôi chẳng bao giờ
liên tưởng nó với nghĩa thực của từ, mà chỉ hình dung nó như chiếc thoi dệt
thoăn thoắt chuyển động dưới những bàn tay thành thạo của các mệ quý tộc Mường
xưa; như con tằm vàng óng không ngừng giăng tơ; như những mặt lụa ánh lên những
cát sợi mịn màng, lóng lánh; như một con vật huyền kỳ tạo thành các dải lụa sống,
phát ra những tiếng lanh canh như tiếng những chuỗi ngọc khẽ chạm vào nhau. Tôi
liên tưởng “sống sít” với hình ảnh mẹ tôi thời chúng tôi còn thơ bé, mỗi lần thấy
chúng tôi treo vắt áo quần lung tung thì mẹ thường la: Áo Xống bừa bộn thế này à? Còn khi sắm sanh đưa chúng tôi về bà ngoại
hoặc đến nhà chị em của mẹ “ăn cỗ” thì mẹ không bao giờ quên nhắc: Xống áo thế à? Dường như khi nhắc thế, là
mẹ tôi nghĩ đến bà ngoại và các chị em của mẹ. Mẹ không muốn mọi người phải tủi
vì thấy lũ cháu con đã nghèo, lại còn nhếch nhác, cho nên dù có mặc áo vá thì
cũng không được lôi thôi luộm thuộm. Xống
áo thế à? Hóa ra cái từ Xống đó
chưa chết, cái từ đó vẫn sống hàng ngày trong mọi gia đình Việt; cái từ đó chảy
trong máu tôi hệt như con chữ “sống sít” của cụ Từ đã ăn vào tâm não tôi vậy. Nhiều
khả năng nó chính là chiếc sarong thời
thự sử, làm chức năng cả áo lẫn quần, và khi chiếc áo được may tách riêng mặc ở
phần trên của cơ thể thì sarong trở
thành chiếc xống (quần) (De Rhodes A.
1991: 252). Đến khi chiếc áo được kéo dài ra kiêm cả quần thành áo lễ, thành bộ
lễ phục thì nó lại hiện nguyên hình là chiếc xống, mà không còn là chiếc quần
đơn trong cặp từ láy nghĩa quần áo hoặc
xống áo nữa.
Diễn
biến trên có thể giúp trả lời câu hỏi: Tại sao lại là Xống Áo? và/hoặc Áo Xống?
Có thể là tôi tưởng tượng, có thể mẹ tôi không bao giờ quan tâm đến trật tự từ
cho thích hợp với từng văn cảnh: Xống trước Áo sau, hay Áo trước Xống sau, khi la nhắc chúng tôi trong
hai trường hợp trên. Nhưng cái cảm giác trật tự như vậy trong tôi, và tôi chắc
rằng trong nhiều người khác nữa, là có thật. Phải chăng trong truyền thống sâu
thẳm các gia đình Việt, đều ngự một vị Ngọc Lụa Thần y, gọi là chiếc Xống. Theo nghĩa đó, chiếc Xống không đơn thuần làm chức năng che
thân của chiếc áo, mà nó chủ yếu làm chức năng Lễ với những nghi thức, thể hiện tư cách, thể hiện thân phận, địa vị
xã hội của người mang nó, và chiếc Xống
đó đích thực là một bộ lễ phục, hoặc hơn thế, một bộ Đại Việt Quốc phục. Chính
vì vậy, khi các bà, các mẹ, các cô, các dì, các chị nhắc ta Xống áo thế à? thì trong chiều sâu của lời
nhắc nhở đó có uy lực của những quy ước, lễ thức, chuẩn mực, vị thế, đẳng cấp
và gia phong của người mang chiếc Xống
đó, và có vẻ như các định chế xã hội mà chiếc Xống là biểu tượng đã có từ thời nảo thời nào, có thể từ khi xã hội
Việt còn đang kỳ mẫu hệ. Dù rất nhẹ nhàng, dù chỉ như một làn gió thoảng, nhưng
dường như lời nhắc nhở đó âm vang thần lực của gia đình, dòng tộc, cộng đồng đối
với kẻ mang nó: Đừng quên tư cách làm người.
Vậy thì phải chăng khi nói Xống Áo,
là người phụ nữ muốn nhắc những người đàn ông của họ phải chú ý tới gia phong đối
với người ngoài; còn khi nói tới Áo Xống
là họ muốn nói tới nền nếp, trách nhiệm với bản thân, với các thành viên trong
nội bộ gia đình. Người Việt vẫn thường nói: “quen sợ dạ, lạ sợ áo quần”, và còn
hơn thế, khi nói tới “Y phục dĩ xứng kỳ đức” thì bộ lễ phục đã có vai trò xã hội
to lớn đến nhường nào.
Bằng
liên tưởng ấy, tôi đã thử lần tìm trong sử sách xem ngày xưa ông cha ta có dùng
một thứ gì tương tự như chiếc Xống
không? Nếu có thì nó được làm bằng gì? Làm như thế nào? Hình dáng của nó ra
sao? Nó có những tên gọi nào khác không? Nó có những chức năng gì? Có loại Xống nào tên gọi khả dĩ liên hệ tới chữ
Song Viết không? Bản thân nó có phải là Song Viết không? vv… Vậy thì cách tốt
nhất là tìm đến hỏi các sử gia và các bộ sử. Một trong những mô tả sớm nhất về
trang phục của người Việt là An Nam Chí lược thì cũng chỉ có thể biết được những
dòng sau: Đời nhà Trần thì Quốc chủ đội mũ Bình-thiên, mũ Quyến vân hay mũ
Phù-dung, mặc áo cổn y, đeo đai lưng Kim Long, cổ áo đính là trắng hay bông trắng
kết lại, khăn kết tua vàng và ngọc châu, phủ tấm vuông, tràng áo cong, tay cầm
ngọc khuê…Thân vương mặc áo Tiêu-kim-tử-phục (áo thêu kim tuyến), Hầu, Minh-tự
mặc áo phượng ngư tú phục (áo thêu chim phượng, cá). Từ đại-liêu-ban trở xuống
mặc áo cổn…Bọn quan chức, tá chức mặc áo tía, thắt đai xéo…Từ vương hầu đến thứ dân thường hay mặc
xiêm màu huyền, cổ tròn, quấn bằng lụa trắng, thích đi giày da”. (Lê Tắc 1961:
221).
Nhưng
đến cụ Phan Huy Chú thì mọi sự đã trở nên sáng tỏ: “Lê Đại Hành lên ngôi, mặc
áo long cổn, về sau áo mặc phần nhiều dùng vóc đỏ, mũ sức chân châu. Lý
Thái-tông mới chế thứ mũ gọi là “bát giác tiêu dao” bằng vàng…Lê Thái Tông, năm
Thiệu-bình thứ 4 [1437], theo lời tâu của Lương Đăng, những khi tế trời, tế tôn
miếu, lễ thánh tiết, tết Nguyên đán, vua mặc áo long cổn, đội mũ miện, lên ngự
bảo tọa; còn lễ thường triều, những ngày mồng một và ngày rằm thì mặc áo hoàng
bào, đội mũ xung thiên…Thánh tông, năm Quang-thuận thứ 7 [1466], định màu phẩm
phục cho các quan văn võ: từ nhất phẩm đến tam phẩm mặc áo màu hồng, tứ ngũ phẩm
mặc áo màu lục, ngoài ra đều mặc áo màu xanh…Thần-tông, năm Khánh-đức thứ 5
[1653], tháng 6, định mẫu y phục trong nước, dài rộng khác nhau. Cho quan văn từ
khoa đạo, quan võ từ quận công, mặc thanh cát, đều dùng lá phủ đằng sau, người
khác không được dùng lạm…Dụ-tông, năm Vĩnh-thịnh thứ 10 [1714] định hạn chế về
mũ áo bằng vải thanh cát. Tục cũ nước ta dùng áo vải nhuộm màu xanh chàm rồi phủ
màu nâu, lại cho thêm ít keo, lấy chày đập, đem phơi khô, gọi là áo thanh cát. Không
cứ quan hay dân, sang hay hèn, đều thông dụng cả, chỉ lấy dài ngắn làm mức. Về
sau phần nhiều quá mức, đến đây mới hạn định phải theo đúng thước tấc dài ngắn
rộng hẹp, để phân biệt thứ bậc. Năm thứ 16, định phẩm phục các quan văn võ lớn
nhỏ cùng nha lại binh lính đều mặc áo thanh cát, đội mũ chữ đinh, không có phân
biệt sang hèn trên dưới. Đến đây chúa Trịnh [Cương] bàn với tham tụng là Nguyễn
Công Kháng đổi định lại, để cho rõ ràng phẩm phục: áo của hoàng thân, thân
vương, mùa xuân, mùa hạ dùng sa Trung-quốc, mùa thu mùa đông dùng đoạn Trung Quốc…Các
quan văn võ và nội giám khi chấp sự hành lễ và trông coi việc công thì đều dùng
áo thanh cát, mũ ô sa, quan văn võ
khi hầu ở Nội các cũng thế”. (Phan Huy Chú 1992: 12,13).
Về
chiếc áo thanh cát, cụ Phạm Đình Hổ cũng cho biết khá chi tiết: “Ngày xưa học
trò và người thường có việc công mặc áo thanh cát (màu xanh lam) lúc thường mặc
áo truy y (màu thâm), dân quê mặc áo vải trắng thô. Bây giờ thì ai cũng mặc áo
thanh cát, mà màu thâm, màu trắng ít dùng. Áo thanh cát thứ nhất là màu hỏa
minh (màu xanh sẫm), thứ nhì là màu vi minh (màu xanh nhạt), sau nữa là màu quì
sắc, tục gọi là màu xừng. Nếu gặp quốc tang thì vương, công, khanh, sĩ đều mặc màu
quì sắc. Bây giờ không cứ người sang, người hèn đều mặc áo quì sắc cả, mà màu hỏa
minh, vi minh thì cho là quê, không dùng nữa. Lệ cũ có tang người ta lúc thường
mặc áo vải thô, đi đâu đội nón, rũ tóc che miệng, có việc quan vào công nha, mặc
áo quì sắc, bỏ nón, để búi tóc ra ngoài, đùa cười ngoài đường không còn biết xấu
hổ…Lại còn những thói dâm bôn vô sỉ, hẹn hò nhau ở trên sông, cướp trộm tung
hoành, bắt cóc những người buôn bán. Phong tục đến thế là cùng!” (Phạm Đình Hổ
1989: 63-64).
Vậy
là đã tương đối rõ về chiếc Xống, hay
bộ lễ phục Thanh Cát. Để tăng thêm độ thuyết phục bản thân, tôi cũng lần giở
những tư liệu có hạn trong giá sách nhà mình thì thấy người Trung Quốc có chiếc
Jong, hoặc Jeong (có thể nôm hóa thành song,
xống), nhưng tôi lại chưa tìm thấy
cái Jong, Jeong nào có tên Thanh Cát ở xứ người “Bắc quốc” kia cả. Tuy
nhiên cũng phải ghi nhận rằng tại quốc gia láng giềng Philippines có chiếc Malong của người Tagalog. Đối với tôi, Malong mang đầy âm hưởng mlong, tsong, song, xống đặc biệt khi chúng ta biết rằng người
Tagalog đa âm hóa ngôn ngữ của mình bằng cách thêm nguyên âm a vào giữa hai phụ âm đầu từ: giả sử từ căn
Malay của Xống có âm nguyên thủy là mlong thì chắc chắn đến xứ Tagalog nó sẽ
mang hình hài malong. Nguyên ủy, chiếc
Malong vốn là một loại váy quây truyền
thống của nhiều bộ lạc tại Philippines, tương tự như chiếc sarong của nhiều nhóm cư dân Đông Nam Á khác, nhất là người
Malaysia, người Indonesia và người Brunei. Sau khi Philippinese bị Tây Ban Nha
thống trị, để tránh người bản địa giấu vũ khí trong chiếc Malong, người Tây Ban Nha buộc họ phải sản xuất loại lễ phục dệt bằng
chất liệu trong suốt, và ngày nay nó trở thành chiếc áo quốc phục Barong của họ; người có công khôi phục và
luôn mặc chiếc áo lễ đó, chính là cố tổng thống Marcos. (Hamilton R. W. (ed.)
1998).
Nhưng
có lẽ gần gũi đến mức như người chị em song sinh với chiếc Thanh Cát của Đại Việt trong khu vực người Malay, và người
Indonesian, chính là cái mà họ gọi là Songket,
hoặc Sungkit. Bộ y phục này vốn là tên
gọi một loại vải dệt tay, có thêu kim tuyến, và được làm thành bộ lễ phục của
người Malay và người Indonesian. Các nhà nghiên cứu lịch sử nghề dệt truyền thống
Malaysia và Indonesia vẫn chưa khẳng định được từ nguyên của chữ Songket hoặc Sungkit, một số người cho rằng từ đó có nguồn gốc từ chữ Songka, một loại khăn trùm đầu của tộc người
Palempang. Người Malay và
người Indonesian đều thống nhất là nghề dệt loại vải này có nguồn gốc từ bên
ngoài, nhưng họ lại có quan điểm khác nhau về quê gốc của nó: người Kelanta thì
cho rằng nghề dệt này có nguồn gốc từ phương bắc, có thể là khu vực Thái Lan hoặc
Campuchia; còn người Terengganu lại nghĩ là nghề này do các thương nhân Ấn Độ đưa đến từ thời Srivijaya,
vào khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 13. Nhưng cho dù được du nhập từ Đông Dương hay
Ấn Độ thì ngày nay nghề thủ công sản xuất Songket
cũng đã được con cháu của những người thợ dệt xưa phát triển thành một ngành
công nghiệp nổi tiếng thế giới của Malaysia và Indonesia, trong khi tại các xã
hội truyền thống bộ Songket vẫn là bộ
lễ phục, quốc phục, và vẫn được hoàng gia Malay dùng làm bộ Triều phục của họ (Summerfield
A., John
Summerfield, editors 1999; Uchino M. 2005; Rodgers S., Anne Summerfield, John Summerfield, 2007). Còn đối với tôi, tự dạng và ngữ âm Songket thì lại hoàn toàn gần với
tên loại vải và bộ lễ phục Thanh Cát
của Đại Việt. Nói một cách thẳng thắn, tôi hoàn toàn tin chắc Songket có cội nguồn từ Thanh Cát Đại Việt.
Như vậy, có thể thấy rằng về phương diện ngữ
âm, các từ thanh cát, songket, song viết là hoàn toàn tương đồng. Trong lịch sử biến đổi ngữ âm tiếng
Việt chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận quá trình biến đổi từ tlong → tsong →
song (xống) → trong → thanh → xanh, v.v…Tương tự như vậy, quá trình biến đổi từ
kep → ket → kit → cát → kiết → viết, v.v…cũng hoàn toàn có thể chứng minh được,
và đã được Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn chứng minh rất đầy đủ trong nhiều công trình
khác nhau của mình. Vì vậy giờ đây đã đến lúc tôi muốn gọi bộ lễ phục Thanh Cát kia bằng chính cái tên cổ Xống Kép, hoặc một cách nôm na là chiếc Áo Kép (De Rhodes A. 1991: 10), mà câu ca dao có lẽ không xưa lắm vẫn còn cố níu giữ những chiếc “áo
đơn áo kép” dân giã đó, để thà là nó nhất thời thất thế tạm lánh ra “đứng nép bờ
ao” chứ không hề biến mất khỏi vị thế quốc phục của nó. Và trong tôi xót xa một
câu hỏi: Thay vì quá đỗi thoải mái, tự tin trong những bộ cánh tây tàu, không
biết đến bao giờ chúng ta mới được thấy thần thái của các đại diện ưu tú của nước
nhà trong bộ quốc phục Thanh Cát đã được Nguyễn Trãi* xông hương bằng Bình Ngô
Đại cáo lại thực sự rạng ngời tinh thần Đại Việt?
Giờ
đây đã đến lúc chúng ta có thể và cần phải kiểm nghiệm sơ bộ hai từ Xống Kép theo các tiêu chí đã được Giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn xác lập: 1. Tiêu chí đầu tiên: Xống Kép là một kết cấu cổ, vì Xống
trong cụm từ xống áo là một từ cổ, và Kép
(cặp (De Rhode A. 1991: 31), đáp, ghép, tháp, thiếp) cũng là một từ cổ, hai từ
đó ghép lại thể hiện nghĩa chiếc áo kép thì đó hoàn toàn là một kết cấu cổ; 2.
Về cách đọc Xống hoàn toàn suy ra
được từ Song và Kép hoàn toàn suy ra được từ Viết,
theo qui luật ngữ âm lịch sử; 3. Về mặt từ loại, Xống Kép là danh từ hoàn toàn có thể vị từ hóa; 4. Về mặt cấu tạo
từ, Xống Kép là từ ghép vừa láy nghĩa,
vừa láy âm, hoàn toàn có thể đối lại được các trường hợp đã được dẫn; Xống Kép láy nghĩa vì Xống chuyển tải âm song có nghĩa là đôi, mà kép
thì cũng chính là đôi. Xống Kép là
chiếc áo kép theo hai nghĩa: nó dài gấp đôi chiếc áo cánh; nó được làm bằng hai
lần vải thành chiếc áo đúp, mặc mùa đông là chính; 5. Cuối cùng, việc kiểm
nghiệm ngữ nghĩa của Xống Kép xem nó có
nội dung thật ăn khớp với cái tứ chung toát ra từ trong toàn thể các câu, các
bài sử dụng từ Song Viết sẽ được thực hiện ở phần IV dưới đây.
IV. Xống Kép – kiểm nghiệm
ngữ nghĩa trong văn cảnh
Xống Kép là hai từ mà
chúng tôi giả định là âm nôm của Song Viết, vì vậy để phần nào có thể tự thuyết
phục được bản thân mình, chúng tôi cũng theo đòi người đi trước thử đưa hai từ
đó thay vào các từ Song Viết trong các bài thơ mà chúng ta đã quen thuộc. Chúng
tôi trộm nghĩ thơ là một lĩnh vực tinh tế không chỉ về từ ngữ, ngữ nghĩa mà còn
cả về ngữ âm. Vì vậy bên cạnh Song Viết, Song Kép, Xống Kép, Áo Kép, trong những
văn cảnh khác nhau, với tư cách là người thưởng thức, tôi muốn thay đổi Song Kép, Áo Kép, Thanh Cát, thậm chí
còn có thể mở rộng ý nghĩa thành nền nếp, quốc phong, quốc hồn tùy theo ngữ cảnh,
vì tất cả đều vang lên nguyên âm điệu và tinh thần Song Viết, và đều chỉ cùng một
vật cụ thể là chiếc quốc phục Xống Kép – Thanh Cát. Hơn nữa về phương diện xã hội
học, tôi tin chắc rằng các nhóm xã hội Đại Việt xưa là không đồng nhất về vị thế
xã hội, vì vậy chắc chắn ngôn ngữ của họ, dù để chỉ cùng một sự vật cũng không
hoàn toàn đồng nhất. Thậm chí ngay trong một nhóm xã hội, tùy từng sắc thái
quan hệ, tùy từng văn cảnh mà người ta có thể sử dụng những từ khác nhau cho
cùng một sự vật. Tôi cho rằng điều đó cũng có thể diễn ra đối với trường hợp
chiếc Xống Kép – Thanh Cát. Nếu phân theo nhóm lớn chúng ta có thể nghĩ rằng
ngôn ngữ sử dụng trong các gia đình đại trí thức, đại nho, đại quan cỡ Nguyễn
Trãi phải khác với ngôn ngữ của các gia đình hàn nho, tiểu lại; đến lượt mình,
ngôn ngữ của các gia đình hàn nho, tiểu lại cũng lại khác với ngôn ngữ của các
thị dân kẻ chợ; và đến lượt mình ngôn ngữ thị dân kẻ chợ cũng lại khác với ngôn
ngữ quê mộc vùng thôn ổ xa xôi, v.v…Ấy là chưa kể các đặc trưng phương ngữ, những
khác biệt ngôn ngữ vùng miền, tộc thuộc vốn rất phổ biến ở nước ta. Vì vậy việc
sử dụng từ nào trong những từ tương đương với Song Viết cho thích hợp với luật
bằng trắc, luật đối, luật láy, từ ngữ, ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ cảnh của từng bài
thơ, câu thơ là điều có thể chấp nhận được. Và như vậy chúng ta có thể yên tâm
đôi chút để kiểm nghiệm mấy từ đã được giả định ở trên vào các tác phẩm của
Nguyễn Trãi, Hồng Đức, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hằng, và các cụ khác như dưới
đây.
Quốc Âm thi
tập của Nguyễn Trãi:
1- Con
cháu chớ hiềm xống kép [thanh cát] ngặt,
Thi
thư thực ấy báu nghìn đời. (Ngôn chí 9)
Nghĩa:
Con cháu chớ băn khoăn vì không có áo xống cho ra hồn, vì của báu nhà ta là thi
thư chứ không phải là quần áo đẹp, đắt tiền.
2- Con
cháu mựa hiềm xống kép [thanh cát] tiện,
Nghìn
đầu cam quít ấy là tôi. (Ngôn chí12)
Nghĩa: Con cháu việc gì phải quá băn khoăn vì áo xống có vẻ nghèo tiện, vì nhà ta vẫn còn cả một vườn cam, nếu muốn sắm áo đẹp thì lo gì bán đi không đủ.
3- Xống kép hằng lề phiến
sách cũ,
Hôm
dao đủ bữa bát cơm xoa.(Ngôn chí19)
Nghĩa: Áo
xống muôn thuở của ta là chồng sách cũ kia kìa; Dù ngặt khó nhưng sáng tối cũng
đủ bữa cơm đạm bạc là ổn rồi
4- Xống kép lại toan
nào của tích,
Bạc
mai vàng cúc để cho con. (Thuật hứng 4)
Nghĩa: Ta
nào có ý định sắm sanh áo xống làm của để giành; Với ta hoa mai là bạc, hoa cúc
là vàng để cho con đó
5- Buồng văn lấp cửa trọn ngày thu,
Đèn sách nhàn làm xống kép nhu. (Thuật
hứng 13)
Nghĩa: Ta suốt ngày trong thư phòng; Đèn sách mới chính là bộ cánh đẹp của nhà Nho vậy
6- Xống kép có
nhiều dân có khó,
Cửa
nhà càng rộng thế càng phiền. (Tự giới 16)
Nghĩa: Bộ
cánh của kẻ sĩ càng đẹp, càng xa xỉ thì dân càng nghèo khó; Cửa nhà thênh thang
chỉ càng chuốc thêm phiền toái mà thôi.
7- Xống kép huống còn
non nước cũ,
Mặc
dầu thua được có ai tranh. (Tự giới 29)
Nghĩa: Xống áo của ta chính là non nước cũ vậy; Vì thế kẻ nào tranh giành kèn cựa với ta làm gì.
8- Một
yên một sách một con lều
Xống kép bao nhiêu mặc
bấy nhiêu. (Tự giới 37)
- Nghĩa: Ta chỉ cần một căn lều, quyển sách và cái bàn đọc là được rồi; Xống áo có gì mặc nấy, ta không bận tâm.
Hồng Đức Quốc
âm thi tập:
9- Năm hồ nhưng lấy làm xống kép,
Bốn bể đều thời thảy nết
na. (Hằng Nga nguyệt)
- Nghĩa: Ta lấy năm hồ làm áo xống; Bốn bể với ta thì cũng là chiếc áo nết na.
9- Ngư
hà xống kép ngày thường
đủ,
Bạng
duật đôi co thế ngại dòm. (Vịnh ngư)
- Nghĩa: Cá tôm kiếm được
cũng đủ sắm sanh; Vì vậy ngại dính đến tranh giành lừa lọc
10- Nẻo đầu kể bốn thú nhàn cư.
Xống kép ai bằng xống kép ngư. (Vịnh
ngư)
- Nghĩa: Trong bốn thú nhàn thì cái nhàn của kẻ ngư ông là đầu; Xống áo của ta là sông hồ thì hỏi có kẻ nào bằng
12- Một rìu một búa của hôm dao,
Xống kép ai bằng xống kép tiều.(Vịnh
tiều)
- Nghĩa: Nghề tiều của
ta sớm hôm chiếc rìu, chiếc búa; Rừng núi làm xống áo của ta thì thử hỏi xống
áo của kẻ nào bằng
13- Một cày, một cuốc phận đã đành,
Xống kép ai bằng xống kép canh. (Vịnh
canh)
- Nghĩa: Nghiệp canh nông của ta gắn với cái cày cái cuốc; Ta lấy ruộng đồng làm xống áo thì thử hỏi xống áo của kẻ nào bằng
14- Nẻo ra thời có phu đồng bọc,
Xống kép ai bằng xống kép mục. (Vịnh
mục)
- Nghĩa: Kẻ mục phu quanh năm nội cỏ chở che; Thử hỏi có kẻ nào có được bộ xống áo như ta?
15- Phong nguyệt ít nhiều xống
kép [thanh cát] đủ,
Khứng đâu vay bợ khứng
cho ai. (Ngư nhân thuyền)
- Nghĩa: Ta lấy gió
trăng làm xống áo thì cần gì phải khứng sánh với kẻ nào.
16- Bốn mùa xống kép một
thuyền chài.
Sớm tối giang hồ tới
nguyệt đài. (Ngư nhân thuyền)
- Nghĩa: Ta bốn mùa mặc chiếc thuyền chài làm xống áo; Sớm tối bạn cùng sông hồ, trăng gió.
Bạch Vân Quốc âm thi tập:
17- Xống kép chớ rằng đã hổ,
Đến đâu thời cũng có
xuân phong. (Bài33)
- Nghĩa: Ta việc gì phải
hổ ngươi vì thiếu xống áo; Đến chỗ nào mà chả có gió xuân ấm áp.
18- Khách đến hỏi nào xống kép [thanh
cát],
Nửa rằng còn một túi
thơ treo. (Bài 38)
- Nghĩa: Khách đến hỏi
ta áo thanh cát đâu? Ta rằng có cả túi thơ kia thì bận tâm đến xống áo làm gì!
19- Xống kép hãy còn hai rặng quít,
Thất gia chẳng hết một
căn lều. (Bài 51)
- Nghĩa: Sắm thanh cát trông vào hai rặng quýt kia, nhà cửa thì đã có căn lều này rồi.
20. - Mựa hiềm xống kép nhà còn ngặt,
Tích đức cho con ấy mới mầu.
- Nghĩa: Chẳng việc gì
phải bận tâm vì không có xống áo sang trọng, để lại cái đức cho con mới quý.
21. Xống kép liền tay, gương lờ (?) non ánh (?),
Hôm
mai họp mặt, nội cỏ vườn lau.
- Nghĩa: Chiếc thanh cát
đã được cởi ra, nhưng vẫn không rời tay lúc trăng mờ, núi tỏ; kể cả sớm hôm bờ
bụi tụ tập cũng vậy.
Những bài
khác:
22. Bùi Xương Trạch (1451-1529):
Đêm trung thu không trăng
Lượt là vằng vặc rạng tơ hào,
Phải mịt mù nay vì cớ sao?
Nhân bởi hắc vân ngất phủ,
Há rằng ngọc thỏ hèn sao.
Hằng nga chiếm lấy làm xống áo
Thục tế tuồng ni dám ước ao,
Mựa dắng đêm nay trăng thấy nguyệt,
Thu qua đông đến quế càng cao.
23. Bùi Xương Tự (1656-1728, hậu duệ Bùi Xương Trạch)
Cửa Đạt
Cảnh thanh mát thú càng thanh mát,
Mọi cửa đều thông danh cửa Đạt.
Sóng lẩn đầu ghềnh thuở gió doi,
Khói loà mặt nước khi sương toát.
Thanh thơi bến liễu tiện vào ra,
Ngang dọc thuyền lan dầu cậy bát.
Bờ cõi văng băng chẳng cấm ngăn,
Mặc ai chiếm lấy làm xống áo.
24. Nguyễn Hằng (1548 –1625) (trong gia phả nhà văn Nguyễn Công Hoan)
Ba mươi chín tuổi đổ đăng khoa
Xống kép [thanh cát] ai bằng
xống kép [thanh cát] ta
Đãi khách vẻ vang rau lộc: muống
Điều canh chan chứa nước chè: cà.
Vài
lời cuối bài viết
Sau
khi kiểm nghiệm giả định Xống Kép vào
24 trường hợp trên, chúng tôi vẫn chưa phát hiện được bất cứ mâu thuẫn nào, vì
vậy cho đến bây giờ chúng tôi tạm yên tâm với đề xuất của
mình, kể cả đối với những trường hợp mà Giáo sư Đào Duy Anh và Giáo sư Nguyễn
Tài Cẩn còn băn khoăn với các đề xuất của các Cụ. Tuy nhiên, bể học là vô cùng,
chúng tôi không nghĩ đề xuất của mình đã đạt tới sự thật. Với khối tri thức
tích lũy càng ngày càng lớn và trình độ hiểu biết chung của xã hội ngày càng
nâng cao không ngừng, chúng tôi tin rằng trong tương lai sẽ được đọc các đề xuất
mới, hầu góp phần thúc đẩy các thành quả nghiên cứu ngày càng tiến gần tới chân
lý, trong đó có cuộc kiếm tìm thực ngữ của hai từ Song Viết.
________________________________
Chú thích:
* Đối với tôi, cuộc đời, sự nghiệp và số phận vắt ngang hai thế kỷ
của Nguyễn Trãi vô cùng đặc biệt: dường như cuộc đời ấy, số phận ấy luôn gắn liền
với những khúc quanh quyết định của vận mệnh dân tộc, kể cả cho đến bây giờ và
mai sau. Tôi hình dung hai chữ Song Viết
của ông đối với Đại Việt có cái gì đó na ná như mấy chữ Ούτε λέγει,
ούτε κρύπτει, άλλά σημαίνει Không gom, không giấu, chỉ gợi – của thần Apolo trong ngôi đền Delphi
đối với người Hy Lạp vậy. Mong có dịp trở lại với riêng vấn đề hấp dẫn này.
Tài liệu dẫn
De
Rhodes A. 1991. Từ điển Annam –
Lusitan – Latinh (Thường gọi là Từ điển Việt – Bồ - La). Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
Đào
Duy Anh 1962; 2005. Sự cần thiết chỉnh lý
tài liệu trong công tác nghiên cứu và phiên dịch. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37, tháng 4,
1962; in lại trong Đào Duy Anh – Nghiên cứu
Văn hóa và Ngữ văn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2005, tr. 211-229.
Đoàn
Ngọc Phan, 1975. Phải chăng song viết,
song kiết là song cát. Tạp chí Văn học, số 2-1975, Hà Nội.
Đỗ
Văn Hỷ 1967. Góp phần giải quyết những tồn nghi trong “Quốc âm Thi tập”. Tạp
chí Văn học, số 6-1967, Hà Nội.
Hamilton R. W. (ed.) 1998. From the Rainbow's Varied Hue: Textiles of
the Southern Philippines. Fowler Museum of Cultural History, University of
California at Los Angeles.
Haudricourt
A.G. 1960. Note
sur les dialects de la resgion de Moncay,
BEFEO, tome L; fasc.1; p.172.
Lê Tắc 1961. An
Nam Chí lược, Toàn bộ 19 quyển. Bản tiếng Việt của Viện Đại học Huế, Uỷ ban
Phiên dịch Sử liệu Việt Nam.
Maspéro H. 1912. Études
sur la phonétique historique de la langue annamite; BEFEO.
Nguyễn Công Hoan 1974. Song viết hay song kiết, song viết. Tạp chí Văn học, số 5. Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn 1974, 1985. Thử tìm cách đọc nôm hai chữ «song viết». Tạp chí Văn học, số
2 năm 1974; Đăng lại trong Một số vấn đề
về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr.
181-209.
Nguyễn Tài Cẩn 1975, 1985. Bàn thêm về “song viết? song biết? song kiết?. Tạp chí Văn học, số
6. 1975 ; Đăng lại trong Một số vấn
đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr.
210-227.
Nguyễn Tài Cẩn 2005. Xin trở lại vấn đề Song Viết. Trong Tập
biên khảo về Khoa học xã hội và nhân văn Từ
Đông sang Tây do Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính chủ
biên. Nxb. Đà Nẵng, Tp. Đà Nẵng 2005.
Nguyễn Từ Chi 1974a. Cạp váy Mường. Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 3/1974.
Nguyễn Từ Chi 1974b. Hoa văn cạp váy hoa văn hình học. Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số
4/1974.
Nguyễn Từ Chi 1978. Hoa văn Mường (Nhận xét đầu tay). Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Nguyễn Từ Chi 1996. Góp phần Nghiên cứu Văn hóa và Tộc người. Nxb. Văn hóa Thông tin –
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
Phạm Đình Hổ 1989. Vũ
trung tùy bút. Dựa theo bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Quảng
Tuân khảo đính và chú thích. Nxb. Trẻ - Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học TP. Hồ
Chí Minh. Tp. Hồ Chí Minh.
Phan Huy Chú 1992. Lịch
triều Hiến chương Loại chí. Tập II: Lễ
nghi chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí. Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
Rodgers S., Anne Summerfield, John Summerfield, 2007. Gold Cloths of Sumatra: Indonesia’s “Songkets”
from Ceremony to Commodity. Leiden: KITLV Press, Holland.
Summerfield A., John Summerfield, editors 1999. Walk in splendor: ceremonial dress and the Minangkabau. Publisher: Los Angeles: UCLA Fowler Museum of Cultural History1999.
Uchino M. 2005. Socio-cultural History of Palempang “Songket”. In Indonesian and Malay World. Vol. 33, No. 96, July 2005.
Uỷ ban Khoa học Xã hội
Việt Nam
– Viện Sử học 1976. Nguyễn Trãi Toàn tập.
In lần thứ hai - có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hà Hữu
Nga
BONUS (tác giả Hà Hữu Nga gửi bổ sung)
1. 1920* - Nam Phong Tạp Chí (số 31) ghi nhận Song Viết là song nhặt
2. 1925* - Nguyễn Hữu Tiến /Lê Thành Ý ghi Song Viết là song nhặt (xem thêm bài viết của Ngô Đăng Lợi - số 14 năm 2000 đăng trên trang 1 diễn đàn này)
2. 1930(?)* - Sở Cuồng (Lê Dư) trong Bạch Vân Am Thi tập phiên Song Viết là song nhặt (đọc trại âm nhật thành nhặt)
3. 1957 - Trần Văn Giáp /Phạm Trọng Điềm cho Song Viết là sớm viết, sớm nhặt, lông vết
4. 1957 - Lê Trọng Khánh/Lê Anh Trà Song Viết = song nhật, song nhặt
5. 1962 - Đào Duy Anh Song Viết = thong thả, sớm tối, nô bộc
6. 1967 - Đỗ Văn Hỷ Song Viết = Suông nhạt (cũng như theo cụ Vũ Văn Kính, 1995)
8. 1974 - Nguyễn Công Hoan Song Viết = song viết (giàu nghèo) trong bài 'song viết hay song kiết, song biết' trong Tạp Chí Văn Học 5-1974 (A)
9. 1975 - Đoàn Ngọc Phan Song Viết = song cát (sống thanh cao) trong Tạp Chí Văn Học 2-1975
11. 1983 - Nguyễn Ngọc Bích/Đào Thị Hợi đề nghị Song Viết = công việc trong bài 'Những địa Tầng ngôn ngữ trong lịch sử tiếng Việt' - VICANA
12. 1984 - Bùi Văn Nguyên Song Viết = song nhật (ngày chẵn ...cho kết bạn họp mặt)
13. 1985 - Nguyễn Quảng Tuân Song Viết = song nhật (ngày chẵn ... nghĩ ngơi, thong thả) (A)
14. 1987 - Xuân Phúc (cũng là Paul Schneider làm việc ở Sai Gòn năm 1974 qua 'Bạch Vân Am Thi Tập'...) - Song Viết = di sản, kho tàng, công lao ... Tác giả Lê Hữu Mục cũng đề nghị nghĩa này (xem bài viết đăng trên trang 1 diễn đàn này của tác giả Ngô Đức Thọ)
15. 1987 – GS. Cao Xuân Hạo/Trần Xuân Ngọc Lan: Song Viết dịch chữ Hán tư nghiệp (như tiếng Tày Nùng có chữ khoong=của, đồ đạc)
16. 1996 – GS. Lê Hữu Mục viết bài Song Viết là SÀNG VẠT trong tạp chí Vietnamologica, số 2 - 1996
17. 1999 - Hoàng Thị Ngọ đề nghị Song Viết là song nghề (trong cuốn "Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân trọng Kính" NXB KHXH - Hà Nội 1999) (D)
18. 2000 - Ngô Đăng Lợi Song Viết = thong(song) nhật
19. 2000 –GS. Ngô Đức Thọ Song Viết = rông (hung) viết
20. 2000 - An Chi (Huệ Thiên) cho rằng SV là song vát (âm xưa của gốc Hán sinh hoạt) trong Kiến Thức Ngày Nay số 371 - 1/12/2000
21. 2002 - Vương Lộc ghi nhận một số cách giải thích Song Viết như trên trong cuốn 'Từ Điển Từ Cổ ' NXB Đà Nẵng - Trung Tâm Từ Điển Học (Hà Nội Đà Nẵng 2002)(C)
22. 2003 - Nguyễn Thị Oanh đề nghị Song Viết là hôm sớm (Văn Học, số 7-2003) (D). Bài phản biện của AC đăng trong "Chuyện đông chuyện tây" - tập 5 - trang 389-396 cho rằng hôm sớm không đúng so với song vát ...
23. 2003 (?) - Nguyễn Hy Vọng đề nghị Song Viết = cách ăn mặc và cách ăn ở dựa vào tiếng Thái và Lào
24. 2003 - Vũ Văn Kính đề nghị là suông nhạt với gốc là cụm từ thanh đạm, thanh bạch ... Cụ cũng không chắc lắm vì '...biết đâu đấy, sau này các bạn học chữ Nôm lại chẳng tìm được những âm đúng hơn...' (trang 39, 'Học Chữ Nôm' 2003 - NXB Mũi Cà Mau - TP HCM)
26. 2004 - Nguyễn Quảng Tuân viết bài trong 'Hồn Việt' số 3 đưa ra chứng minh Song Viết = song nhặt (A)
27. 2004 – GS. Cao Xuân Hạo viết bài trong 'Hồn Việt' số 2 khen ngợi GS Nguyễn Tài Cẩn đã biết sửa sai và 'chủ trương chấp nhận nhiều khả năng đọc âm..' (trang 56). Ông đưa ra bảng so sánh các cách đọc SV như tư nghiệp, tài sản, rông vát, chơi nhởi
28. 2004 GS. Lê Văn Quán dựa vào cấu trúc chữ Việt Cổ và quá trình đơn âm hóa đề nghị SV là viết (vừa là danh từ, động từ) - bài viết cho Hội Nghị Quốc Tế về chữ Nôm (Hà Nội 12-13/11/2004)
29. 2006 - Nguyễn Quang Hồng chủ biên trong 'Tự Điển Chữ Nôm'- NXB Giáo Dục - ghi SV = của cải, vốn liếng (?) với dấu hỏi trong ngoặc...và '... trong từ ngữ SV âm và nghĩa chưa được xác định chắc chắn...' (trang 1239, 1018 )
30. 2006 - Nguyễn Thế - bài tham luận đăng trên trang 1 diễn đàn này tóm tắt các cách giải thích (bài này được bác Đinh Tuấn dán lên 2007)- tác giả dựa vào câu hò cổ vùng Thừa Thiên và đề nghị Song Viết = RÔNG VÁT, GIONG VÁT
31. 2007 - tháng 7/2007, bác Nguyen.Ng mở chủ đề này trên diễn đàn Viện Việt Học (VVH) - bác huongho trên diễn đàn ghi lại bài thơ Nôm của Bùi Xương Tự (cũng được Nguyễn Quảng Tuân ghi trong ghi chú số 16 bên trên
32. 2007 - bác Nguyen.Ng đề nghị SV=song vách (đôi vách - cảnh sống)
33. 2008 - Song Viết = XONG VIỆC Nguyễn Cung Thông/NCT đề nghị - viết 曰 và việt 越 đều có âm (Hán) Trung Cổ là vương PHẠT thiết (Khang Hi) so với dịch 役 là doanh chích thiết ... Thời Nguyễn Trãi cũng dùng SONG 双 chỉ XONG (hoàn tất - như 'Nhịn xong thì vạn sự qua' Nguyễn Trãi)... Đọc thêm chi tiết trên diễn đàn VVH (các trang trước)
34. 5/2008 - Phạm Anh Dũng/PAD đề nghị Song Viết là tư nghiệp, song nguyệt (dựa vào Phật Thuyết đại báo phụ mẫu trọng kinh 'No kiếm song nguyệt 奴劍双月'). PAD cũng đưa ra so sánh song với khrong và khong (tiếng Tày Nùng, Thái nghĩa là của cải) dựa vào bài viết mới của tác giả Nguyễn Tài Cẩn 3/2008) để đưa ra kết luận SV là tư nghiệp, song nguyệt/việt/viết ...
35. 7/2008 - bác lhk trên diễn đàn VVH đề nghị Song Viết là sống việc 'Hỏi : anh sống việc gì? = anh làm việc gì để sống? Trả lời : tôi sống việc tiều...'
36. 11/2008 - bác Đinh Tuấn (diễn đàn VVH) đề nghị Song Viết là xương 昌(một kiểu ráp chữ bình dân) hàm ý cách sống trong sáng của nhà Nho.
37. 2009 - nhóm Nguyễn Tá Nhí cho rằng Song Viết là ruộng đất, nhà cửa
38. 10/2009 - bác Lê Hải Nam đề nghị Song Viết có khả năng phiên âm của tiếng Phạn sampad, nhập qua các tiếng láng giềng như Thái, Lào, Khme rồi vào tiếng Việt - mang các nghĩa tài sản, của cải, thành công, hạnh phúc (một đặc tính của chữ Phạn với phạm trù nghĩa rất rộng).
Vài hàng vắn tắt thân gởi các bạn trên diễn đàn - mong các ý kiến khác cho diễn đàn thêm phong phú
(A) cố GS Nguyễn Khắc Kham cũng cho rằng Song Viết là song nhật (bác Nguyễn Ngọc Bích bây giờ không còn theo cách giải thích này nữa - và đề nghị 'cách ăn ở' của BS Nguyễn Hy Vọng là có lý hơn (trao đổi riêng 27/4/2008). Nguyễn Cung Thông: điều này cũng dễ hiểu vì trong/tlong/klong có khi ghi là công/cộng chứ không thấy tài liệu nào ghi song bằng công cả.
(C) nhưng trong cuốn 'Từ Điển Từ Việt Cổ' của Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện - NXB Văn Hoá Thông Tin (Hà Nội - 2001) lại không có ghi nhóm chữ Song Viết.
(D) "Chuyện đông chuyện tây" - tập 5 của An Chi/AC, tuy có những điểm không đồng ý - nhưng cũng có những điểm khá đồng ý/NCT (như phê bình về cách hiểu Song Viết/SV của Hoàng Xuân Hãn - trang 407). Cập nhật bảng tóm tắt về Song Viết, thêm cách lý giải của chị Hoàng Thị Ngọ (1999) và Nguyễn Thị Oanh (2003) từ sđd của An Chi ".
(Nguyễn Cung Thông tóm lược)
Đăng ngày:
09:16 04-03-2011
Thư mục: Học
tiếng Việt
Lời dẫn: Dưới đây là thư mục nghiên cứu do anh Nguyễn Cung Thông thực hiện và công bố trên diễn đàn Việt học. Thật sự tiện lợi cho những ai có
quan tâm đến hiện tượng Song Viết trong đọc chữ Nôm Việt Nam.
Thư mục của
anh Thông còn thiếu một vài bài đáng đọc nữa, chẳng hạn bài của cụ Nguyễn
Tiến Đoàn (trên tạp chí Hán Nôm).
Thảo luận về
Song Viết, nhóm các nhà nghiên cứu Nhật Bản cũng có vài ý kiến nhỏ, nhưng không
có phát kiến gì đặc biệt cả, hầu như chỉ nói lại quan điểm của phía Việt Nam.
Nhóm nghiên cứu Truyện Kiều của Trung Quốc cũng có người nhắc đến Song Viết, và
không bình luận gì.
Từ đây trở
xuống là thư mục của anh Nguyễn Cung Thông.
"Đây
chỉ là tóm tắt theo dòng thời gian sau 90 năm - xem thêm chi tiết và tài liệu
tham khảo trên diễn đàn
1. 1920* - Nam Phong Tạp Chí (số 31) ghi nhận Song Viết là song nhặt
2. 1925* - Nguyễn Hữu Tiến /Lê Thành Ý ghi Song Viết là song nhặt (xem thêm bài viết của Ngô Đăng Lợi - số 14 năm 2000 đăng trên trang 1 diễn đàn này)
2. 1930(?)* - Sở Cuồng (Lê Dư) trong Bạch Vân Am Thi tập phiên Song Viết là song nhặt (đọc trại âm nhật thành nhặt)
3. 1957 - Trần Văn Giáp /Phạm Trọng Điềm cho Song Viết là sớm viết, sớm nhặt, lông vết
4. 1957 - Lê Trọng Khánh/Lê Anh Trà Song Viết = song nhật, song nhặt
5. 1962 - Đào Duy Anh Song Viết = thong thả, sớm tối, nô bộc
6. 1967 - Đỗ Văn Hỷ Song Viết = Suông nhạt (cũng như theo cụ Vũ Văn Kính, 1995)
7. 1974 -
Nguyễn Tài Cẩn Song Viết = rông vát, nhưng 3 thập niên sau, ông sửa lại và cho
rằng SV= tài sản, vốn liếng, của cải (theo Nguyễn Thế trong bài tham luận đăng
trên trang 1 chủ đề này thì NTC bị ảnh hưởng các tài liệu và tin tức từ trong
Nam)
8. 1974 - Nguyễn Công Hoan Song Viết = song viết (giàu nghèo) trong bài 'song viết hay song kiết, song biết' trong Tạp Chí Văn Học 5-1974 (A)
9. 1975 - Đoàn Ngọc Phan Song Viết = song cát (sống thanh cao) trong Tạp Chí Văn Học 2-1975
10. 1981 -
Hoàng Xuân Hãn qua bài phỏng vấn của GS Nguyễn Đình Hoà cho rằng Song Viết = thật
là ...'Giáo Sư Hoàng còn dạy tôi rằng đời Lê, người ta còn nói làm song với
nghĩa là rất tốt...'
11. 1983 - Nguyễn Ngọc Bích/Đào Thị Hợi đề nghị Song Viết = công việc trong bài 'Những địa Tầng ngôn ngữ trong lịch sử tiếng Việt' - VICANA
12. 1984 - Bùi Văn Nguyên Song Viết = song nhật (ngày chẵn ...cho kết bạn họp mặt)
13. 1985 - Nguyễn Quảng Tuân Song Viết = song nhật (ngày chẵn ... nghĩ ngơi, thong thả) (A)
14. 1987 - Xuân Phúc (cũng là Paul Schneider làm việc ở Sai Gòn năm 1974 qua 'Bạch Vân Am Thi Tập'...) - Song Viết = di sản, kho tàng, công lao ... Tác giả Lê Hữu Mục cũng đề nghị nghĩa này (xem bài viết đăng trên trang 1 diễn đàn này của tác giả Ngô Đức Thọ)
15. 1987 – GS. Cao Xuân Hạo/Trần Xuân Ngọc Lan: Song Viết dịch chữ Hán tư nghiệp (như tiếng Tày Nùng có chữ khoong=của, đồ đạc)
16. 1996 – GS. Lê Hữu Mục viết bài Song Viết là SÀNG VẠT trong tạp chí Vietnamologica, số 2 - 1996
17. 1999 - Hoàng Thị Ngọ đề nghị Song Viết là song nghề (trong cuốn "Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân trọng Kính" NXB KHXH - Hà Nội 1999) (D)
18. 2000 - Ngô Đăng Lợi Song Viết = thong(song) nhật
19. 2000 –GS. Ngô Đức Thọ Song Viết = rông (hung) viết
20. 2000 - An Chi (Huệ Thiên) cho rằng SV là song vát (âm xưa của gốc Hán sinh hoạt) trong Kiến Thức Ngày Nay số 371 - 1/12/2000
21. 2002 - Vương Lộc ghi nhận một số cách giải thích Song Viết như trên trong cuốn 'Từ Điển Từ Cổ ' NXB Đà Nẵng - Trung Tâm Từ Điển Học (Hà Nội Đà Nẵng 2002)(C)
22. 2003 - Nguyễn Thị Oanh đề nghị Song Viết là hôm sớm (Văn Học, số 7-2003) (D). Bài phản biện của AC đăng trong "Chuyện đông chuyện tây" - tập 5 - trang 389-396 cho rằng hôm sớm không đúng so với song vát ...
23. 2003 (?) - Nguyễn Hy Vọng đề nghị Song Viết = cách ăn mặc và cách ăn ở dựa vào tiếng Thái và Lào
24. 2003 - Vũ Văn Kính đề nghị là suông nhạt với gốc là cụm từ thanh đạm, thanh bạch ... Cụ cũng không chắc lắm vì '...biết đâu đấy, sau này các bạn học chữ Nôm lại chẳng tìm được những âm đúng hơn...' (trang 39, 'Học Chữ Nôm' 2003 - NXB Mũi Cà Mau - TP HCM)
25. 2003
Nguyễn Đức Dương đưa ra kết luận "... giả thiết Song Viết đã thắng thế rõ
rệt ở 14 trong tổng số 20 câu ..." trích từ bài viết về Song Viết của AC
(D)
26. 2004 - Nguyễn Quảng Tuân viết bài trong 'Hồn Việt' số 3 đưa ra chứng minh Song Viết = song nhặt (A)
27. 2004 – GS. Cao Xuân Hạo viết bài trong 'Hồn Việt' số 2 khen ngợi GS Nguyễn Tài Cẩn đã biết sửa sai và 'chủ trương chấp nhận nhiều khả năng đọc âm..' (trang 56). Ông đưa ra bảng so sánh các cách đọc SV như tư nghiệp, tài sản, rông vát, chơi nhởi
28. 2004 GS. Lê Văn Quán dựa vào cấu trúc chữ Việt Cổ và quá trình đơn âm hóa đề nghị SV là viết (vừa là danh từ, động từ) - bài viết cho Hội Nghị Quốc Tế về chữ Nôm (Hà Nội 12-13/11/2004)
29. 2006 - Nguyễn Quang Hồng chủ biên trong 'Tự Điển Chữ Nôm'- NXB Giáo Dục - ghi SV = của cải, vốn liếng (?) với dấu hỏi trong ngoặc...và '... trong từ ngữ SV âm và nghĩa chưa được xác định chắc chắn...' (trang 1239, 1018 )
30. 2006 - Nguyễn Thế - bài tham luận đăng trên trang 1 diễn đàn này tóm tắt các cách giải thích (bài này được bác Đinh Tuấn dán lên 2007)- tác giả dựa vào câu hò cổ vùng Thừa Thiên và đề nghị Song Viết = RÔNG VÁT, GIONG VÁT
31. 2007 - tháng 7/2007, bác Nguyen.Ng mở chủ đề này trên diễn đàn Viện Việt Học (VVH) - bác huongho trên diễn đàn ghi lại bài thơ Nôm của Bùi Xương Tự (cũng được Nguyễn Quảng Tuân ghi trong ghi chú số 16 bên trên
32. 2007 - bác Nguyen.Ng đề nghị SV=song vách (đôi vách - cảnh sống)
33. 2008 - Song Viết = XONG VIỆC Nguyễn Cung Thông/NCT đề nghị - viết 曰 và việt 越 đều có âm (Hán) Trung Cổ là vương PHẠT thiết (Khang Hi) so với dịch 役 là doanh chích thiết ... Thời Nguyễn Trãi cũng dùng SONG 双 chỉ XONG (hoàn tất - như 'Nhịn xong thì vạn sự qua' Nguyễn Trãi)... Đọc thêm chi tiết trên diễn đàn VVH (các trang trước)
34. 5/2008 - Phạm Anh Dũng/PAD đề nghị Song Viết là tư nghiệp, song nguyệt (dựa vào Phật Thuyết đại báo phụ mẫu trọng kinh 'No kiếm song nguyệt 奴劍双月'). PAD cũng đưa ra so sánh song với khrong và khong (tiếng Tày Nùng, Thái nghĩa là của cải) dựa vào bài viết mới của tác giả Nguyễn Tài Cẩn 3/2008) để đưa ra kết luận SV là tư nghiệp, song nguyệt/việt/viết ...
35. 7/2008 - bác lhk trên diễn đàn VVH đề nghị Song Viết là sống việc 'Hỏi : anh sống việc gì? = anh làm việc gì để sống? Trả lời : tôi sống việc tiều...'
36. 11/2008 - bác Đinh Tuấn (diễn đàn VVH) đề nghị Song Viết là xương 昌(một kiểu ráp chữ bình dân) hàm ý cách sống trong sáng của nhà Nho.
37. 2009 - nhóm Nguyễn Tá Nhí cho rằng Song Viết là ruộng đất, nhà cửa
38. 10/2009 - bác Lê Hải Nam đề nghị Song Viết có khả năng phiên âm của tiếng Phạn sampad, nhập qua các tiếng láng giềng như Thái, Lào, Khme rồi vào tiếng Việt - mang các nghĩa tài sản, của cải, thành công, hạnh phúc (một đặc tính của chữ Phạn với phạm trù nghĩa rất rộng).
Vài hàng vắn tắt thân gởi các bạn trên diễn đàn - mong các ý kiến khác cho diễn đàn thêm phong phú
(A) cố GS Nguyễn Khắc Kham cũng cho rằng Song Viết là song nhật (bác Nguyễn Ngọc Bích bây giờ không còn theo cách giải thích này nữa - và đề nghị 'cách ăn ở' của BS Nguyễn Hy Vọng là có lý hơn (trao đổi riêng 27/4/2008). Nguyễn Cung Thông: điều này cũng dễ hiểu vì trong/tlong/klong có khi ghi là công/cộng chứ không thấy tài liệu nào ghi song bằng công cả.
(C) nhưng trong cuốn 'Từ Điển Từ Việt Cổ' của Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện - NXB Văn Hoá Thông Tin (Hà Nội - 2001) lại không có ghi nhóm chữ Song Viết.
(D) "Chuyện đông chuyện tây" - tập 5 của An Chi/AC, tuy có những điểm không đồng ý - nhưng cũng có những điểm khá đồng ý/NCT (như phê bình về cách hiểu Song Viết/SV của Hoàng Xuân Hãn - trang 407). Cập nhật bảng tóm tắt về Song Viết, thêm cách lý giải của chị Hoàng Thị Ngọ (1999) và Nguyễn Thị Oanh (2003) từ sđd của An Chi ".
Đọc bài này của anh Nga mình lại nhớ
khi sang Hàn Quốc và Nhật Bản, trực tiếp nhìn thấy những bộ lễ phục (Hanbok và
Kimono), cách mặc và người mặc, mình thêm hiểu lễ phục phải đủ tính chất cầu kỳ
và trang nghiêm để quy trình sử dụng được đảm bảo nghiêm ngặt về thời gian,
không gian.
Những tấm áo dài nhiều lớp (tứ thân,
mớ ba mớ bảy)… của người Việt khi mặc chắc cũng cần một quy trình phức tạp như
thế với những quy định chắc cũng không kém phần cầu kỳ về màu sắc và chất liệu,
góp phần tạo cho xã hội một sự tôn ti, nghiêm ngặt nhất định.
Tiếc rằng,
người Việt ta thường chuộng sự đơn giản tiện lợi và vì thế áo dài lên ngôi (mặc
dù mình thích áo dài, mặc áo dài cũng cần những điều kiện nhất định, không phải
bạ đâu mặc đấy, tiện đâu mặc đấy như hiện nay) nhưng mình vẫn ngờ rằng áo dài
làm người Việt trở nên linh động hơn nhưng đồng thời cũng dễ dãi hơn và xã hội
bớt tôn ti trật tự.