Thứ Năm, 18 tháng 7, 2013

Cổ Luỹ - Phú Thọ trong bối cảnh khảo cổ học Champa nửa đầu thiên niên kỷ I Công nguyên

Lâm Thị Mỹ Dung
(ĐH KHXH&NV- Hà Nội)
Nguyễn Anh Thư
(Viện Khảo cổ học)

(Bài đã in ở Tạp chí Khảo cổ học, 2009, số 1 (157), tr.45-62, Nxb KHXH, Hà Nội)

Giới thiệu

Di tích Cổ Luỹ (tức Cổ Luỹ-Phú Thọ) nằm ở bờ phải sông Trà Khúc gần ngay cửa đổ ra biển, đối diện với thành Châu Sa. Di tích đã được khảo sát vào đầu thế kỷ 20 (H. Parmentier), thám sát năm 1998 (Đoàn Ngọc Khôi, Bảo tàng Quảng Ngãi) và khai quật năm 2004 (Lâm Mỹ Dung).
Kết quả cho thấy đây là một di tích thành luỹ Champa sớm được xây dựng trên nền tảng của một khu cư trú Champa sớm. Tầng văn hoá sớm có niên đại từ cuối TK 1 CN, tính chất văn hoá giống với lớp văn hoá sớm của tầng văn hoá dưới) ở thành Trà Kiệu (Quảng Nam) và lớp văn hoá sớm nhất ở Thành Hồ (Phú Yên). Dấu tích kiến trúc gạch, ngói và đầu ngói ống được tìm thấy ở tầng văn hoá muộn có niên đại từ thế kỷ 3 CN.
Như vậy thành Cổ Luỹ (Sông Trà Khúc, Quảng Ngãi) cùng với Thành Lồi (Sông Hương- Huế); Thành Trà Kiệu (Sông Thu Bồn, Quảng Nam), Thành Hồ (Sông Đà Rằng, Phú Yên),  và có thể còn một số địa điểm nữa ở miền Trung chưa được phát hiện hay được nghiên cứu kỹ, tạo thành một chuỗi thành cổ Champa sớm - trung tâm của những dạng nhà nước hay tiểu quốc Champa thiên niên kỷ I CN.     

1. Diện mạo và tính chất của Cổ Luỹ - Phú Thọ từ kết quả nghiên cứu thực địa
1.1. Di tích
Địa điểm Cổ Lũy - Phú Thọ thuộc địa bàn xã Nghĩa Phú, huyện Tư  Nghĩa, Quảng Ngãi có tọa độ 15o07'840''  vĩ độ bắc và 108o53'116'' kinh độ đông. Những dấu tích của phức họp di tích phân bố trên những núi đất cao nằm ở ngã ba sông Trà Khúc và sông Phú Thọ phần đổ ra biển (Cửa Đại). Parmentier đã có một thông báo ngắn về địa điểm này từ những năm đầu của thế kỷ XX. Theo đó phía trước núi Bàn Cờ đã phát hiện 01 lanh tô  trên có hình tượng Visnu (tương tự như lanh tô ở Mỹ Sơn E1); 01 tượng bò Nandin. Parmentier cũng đã khảo sát phế tích thành Cổ Luỹ và theo ông đây là tiền đồn của thành Châu Sa (Parmentier 1909: 234 – 235). Di tích được bảo tàng Quảng Ngãi đào thám sát năm 1998. Theo người phụ trách di tích có hai tầng văn hoá. Tầng trên chứa kiến trúc Champa niên đại từ thế kỷ III đến thế kỷ VII Công nguyên. Tầng dưới chứa vết tích cư trú của cư dân văn hoá Sa Huỳnh Sơ kỳ Sắt (Đoàn Ngọc Khôi 1998). 
Di tích được chúng tôi khai quật năm 2004 với tổng diện tích 50m2. Phần đất phía trên ở nhiều chỗ của di tích đã bị xúc ủi năm 1998. Do vậy, nhiều vết tích kiến trúc cổ đã bị phá huỷ và chỉ còn lại dấu vết móng, tường gạch. Nhìn chung tầng văn hoá dày trung bình từ 1.40-1.50m và thuộc hai giai đoạn văn hoá sớm muộn phát triển liên tục (Lâm Mỹ Dung và Đặng Hồng Sơn 2005).
1.2. Cấu tạo địa tầng.
Lớp đất mặt dày trung bình từ 5-7cm
Tầng văn hoá I (trên): Gồm các lớp đào từ 1-8, đất laterite lẫn đá felspad phong hoá thành một loại bột màu trắng. Tầng này chứa vết tích của hai thời kỳ kiến trúc sớm và muộn. Thời kỳ muộn gồm các di tích ký hiệu F (Feature) từ 1 đến  5 và nằm trong các lớp đào từ 2 đến 5. Thời kỳ sớm gồm các di tích từ  9 đến 11. Những F có số từ  6- 8 không phải là vết tích kiến trúc mà chỉ là những đám đất sẫm màu hơn so với xung quanh. Niên đại của tầng này là từ thế kỷ III đến thế kỷ VII Công nguyên. Hiện vật có những nét tương đồng với hiện vật của một phần lớp văn hoá dưới và đầu đến giữa lớp văn hoá trên của Trà Kiệu (Quảng Nam)[1].
Tầng văn hoá II (dưới): Gồm các lớp đào từ 9 đến 14.
Giữa hai tầng này có 01 lớp đất bị cháy, nhiều than tro, dưới là một lớp cát mỏng, lớp này dày không đều và bắt đầu xuất lộ từ đáy lớp 7, mặt lớp 8 và nằm trọn trong lớp 9. Tầng văn hoá II KHÔNG có vết tích kiến trúc và bị những kiến trúc của tầng văn hóa I ăn xuống và cắt phá.
Tất cả những di tích thuộc thời kỳ kiến trúc sớm F 9 đến F 11 đều xuất lộ bên trên lớp đất cháy ngăn cách tầng văn hoá trên và dưới. Những di tích này đã cắt phá lớp đất cháy ở một số chỗ.
Niên đại của tầng văn hoá II có thể xác định từ cuối thế kỷ I, đầu thế kỷ II đến thế kỷ III Công nguyên, tương đương với nửa sau của lớp văn hoá dưới Trà Kiệu (Quảng Nam). Ở đây chưa thấy vết tích của giai đoạn văn hoá tương đương với lớp văn hoá sớm nhất của Trà Kiệu (lớp có ngói in dấu vải và bình hình trứng).
Do những hoạt động sống của cư dân, trong mỗi tầng đều có những vết tích cắt phá và xáo trộn cục bộ.
Sinh thổ: Đất laterit do đá granit phong hoá lẫn bột trắng do felspat phong hoá.

1.3. Cấu trúc của một số di tích xuất lộ trong hố 1
Tầng văn hoá trên CHỨA dấu tich kiến trúc gạch, ngói
Vết tích kiến trúc giai đoạn muộn: Bao gồm các dấu tích có ký hiệu từ F1 đến F5 xuất lộ sớm nhất từ lớp 5 và kéo dài đến lớp 2. Đây là những vết tích đống gạch, ngói chưa xác định được công năng chính xác, trong đó có 01 nền gạch nhỏ (F2) còn lại ba hàng gạch xếp dài hơn 1m theo hướng đông-tây, gạch không còn viên nào nguyên, F2 còn một phần trong vách AD. F 5 ở góc D hố cho thấy dấu vết của một dạng trụ cột được xử lý khá kỹ càng. Đầu ngói ống (đa phần là mặt hề) CHỈ XUẤT LỘ trong những lớp muộn này và chủ yếu tập trung ở lớp 2. Dựa vào vị trí (độ sâu) phân bố của các di tích và hiện vật trong các di tích, đặc biệt là đầu ngói mặt hề, chúng tôi cho rằng giai đoạn kiến trúc muộn này có niên đại từ sau thế kỷ V.
Vết tích kiến trúc giai đoạn sớm: Bao gồm các dấu tích có ký hiệu từ F 9 đến F11, bắt đầu xuất lộ từ lớp 6 và ăn xuống tầng dưới, thậm chí có di tích như F 9 đào sâu vào sinh thổ từ 30 đến 40cm. Tất cả những di tích này đều cắt phá lớp đất cháy giữa tầng văn hoá trên và dưới, tức là chúng xuất lộ sau thời gian hình thành lớp đất cháy ngăn giữa hai tầng. Đây là vết tích của những kiến trúc thuộc thời kỳ sớm của tầng trên, có niên đại từ thế kỷ IV trở đi. Trong giai đoạn sớm này KHÔNG thấy có đầu ngói ống.
Dựa trên quan sát và nhận diện các dấu vết kiến trúc phát hiện được trong hố khai quật cũng như những dấu vết gạch, cuội còn lại trên những khu đất cao của di tích hay ở những vách hố xúc ủi đất năm 1998, chúng tôi cho rằng những kiến trúc ở đây đều được xây bằng gạch theo kiểu chập khối đặc trưng của xây gạch Champa. Gạch, ngói và những vật liệu xây dựng, chi tiết trang trí bằng đất nung khá đa dạng và được sản xuất hàng loạt, một số được sản xuất với kỹ thuật cao, có hình dạng và trang trí đã được chuẩn hoá. Việc xử lý móng của một số công trình rất công phu chứng tỏ chúng thuộc dạng có kích thước khá lớn. Rất tiếc, một phần khá lớn của di tích đã bị xe ủi xúc đi và diện tích đã khai quật quá nhỏ do vậy không xác định được chức năng, tính chất và mối quan hệ của các dấu tích kiến trúc này.
Tầng văn hoá dưới KHÔNG chứa các vết tích kiến trúc
Trong tầng này có các di tích như cụm gốm, đám đất bị nung cháy hay bếp đào vào lòng đất. Đây là những vết tích cư trú sớm giai đoạn từ cuối thế kỷ I Công nguyên. Như vậy những kiến trúc muộn hơn và có thể cả thành lũy đã được xây dựng bên trên tầng cư trú sớm này.
1.4. Đặc điểm di vật
Đất nung
Nhóm vật liệu xây dựng và chi tiết trang trí kến trúc: Gạch, ngói, đầu ngói ống, chốt gốm, trang trí hình con tiện gốm... (của tầng văn hoá trên)
Gạch khá đa dạng về màu sắc, chất liệu, độ nung. Đa phần gạch có kích thước lớn (44x18x13) cm, dày trung bình của gạch từ 8cm - 13cm. Gạch thường có lõi màu xám, chi có một số ít gạch có màu sắc đồng nhất từ ngoài vào trong.
Ngói tìm thấy ở đây đều làm bằng khuôn nhưng khá khác nhau về chất liệu, màu sắc, trang trí và độ nung. Ngói có chất lượng từ xấu đến tốt, trên lưng ngói có những kiểu trang trí văn in ô vuông chuẩn, song cũng có kiểu trang trí khắc vạch tạo ô vuông (kiểu bắt chước in ô vuông), phổ biến là văn chải từ mịn đến thô. Một số ít ngói có màu xám và độ nung cao cứng gần như sành, trên lưng có in dấu ô vuông hay văn chải sâu, sắc cạnh.
Những đầu ngói ống còn nguyên cũng như mảnh vỡ thu được từ đào thám sát năm 1998, khai quật năm 2004 và khảo sát 2004 chỉ thuộc loại mặt người (mặt hề). Loại này đã tìm thấy ở những hố khai quật Trà Kiệu, Thành Hồ (Lê Đình Phụng và Phạm Văn Triệu 2004)và rất giống những đầu ngói mặt người ở Nanjing (Trung Hoa) (He Yunao 2003:37-39) có niên đại Lục Triều sớm (tức  khoảng từ đầu thế kỷ IV trở về sau).
 Hiện vật thuộc dòng gốm tinh mịn: Loại hình thuộc dòng gốm này có nhiều nét chung với gốm tinh mịn ở các địa điểm Champa cùng thời như Thành Hồ (Phú Yên), Trà Kiệu, Đồng Nà (Hội An, Quảng Nam) và chủ yếu là những đồ liên quan đến nghi lê, sinh hoạt văn hoá cộng đồng như kendi, bình, vò, cốc chân cao, đĩa, mảnh nắp có núm cầm... Đây là loại chất liệu sét lọc kỹ hơn, xương hầu như không thấy tạp chất và với các màu chủ đạo như trắng xám, vàng, đỏ gạch. Một số gốm xương có lõi xám. Gốm tinh mịn chủ yếu thuộc tầng văn hoá trên, ở tầng dưới đã thấy sự có mặt của loại gốm này nhưng rất ít và chủ yếu là mảnh vụn.
Đáng lưu ý là những nét tương đồng về màu sắc, chất liệu, kỹ thuật, độ nung giữa dòng gốm này với các loại vật liệu xây dựng, trang trí kiến trúc. Điều đó đưa tới giả thiết rằng chúng cùng đồng thời xuất hiện và được sản xuất để cùng đáp ứng những nhu cầu tinh thần, tâm linh và xã hội của cư dân từ khoảng thế kỷ II, III Công nguyên. Có lẽ kỹ thuật sản xuất gốm tinh mịn với các loại hình gốm kiến trúc, xây dựng và nghi lễ đã được cư dân Champa thu nhận và học tập từ bên ngoài (Trung Hoa Hán, miền Bắc Việt Nam và Ấn Độ). Cũng cần lưu ý rằng loại gốm này có nhiều nét tương đồng với gốm tìm thấy ở Luy Lâu và những địa điểm khác ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn nửa đầu thiên niên kỷ I Công nguyên. Gốm tinh mịn thường với màu đỏ nhạt hay xám trắng, một số có lõi xám giữa xương xuất hiện ở Đông Nam Á từ khoảng đầu Công nguyên. Nghiên cứu đồ gốm tìm thấy ở Angkor Borei M. Stark cũng nhận thấy quá trình diễn biến tương tự trong đồ gốm trước và từ Công nguyên ở di tích này nói riêng và những di tích cùng giai đoạn ở Căm-pu-chia nói chung (M.Stark 2000).

Hiện vật thuộc dòng gốm thô đa phần là đồ đun nấu, đồ đựng, mảnh bếp lò. Gốm thô được tìm thấy ở tất cả các lớp đào của hai tầng văn hoá nhưng tập trung chủ yếu trong các lớp đào từ 14 đến 9, số lượng mảnh giảm dần từ dưới lên trên. Tuy có những thay đổi nhất định trong loại hình nhưng gốm thô cho thấy diễn biến liên tục và nối tiếp về văn hoá giữa các giai đoạn. Gốm thô rất đa dạng về màu sắc và khá giống chất liệu gốm Sa Huỳnh và nếu chỉ nhìn một vài mảnh thì rất khó phân biệt. Tuy vậy, gốm thô ở đây có độ nung tốt hơn và pha ít cát hơn so với gốm mộ chum và cũng không hề thấy loại gốm “lòng rỗng” Sa Huỳnh điển hình.Một số kiểu dáng và cách trang trí cho thấy có những nét tương đồng với gốm lớp trên của địa điểm Suối Chình (đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi). Những loại hình như bát hay đĩa bằng gốm thô tìm thấy trong tầng văn hoá dưới rất giống với gốm tầng văn hoá dưới Trà Kiệu (xem Yamagata M., 1998. Hình 6, 17, 22) hay trong hố khai quật Thành Hồ (xem Lê Đình Phụng và Phạm Văn Triệu 2004, ảnh trang 27. Phụ lục ảnh) Trong dòng gốm này, đáng chú ý là loại gốm xương đen, áo nâu đỏ mỏng dễ bong, dày nhưng nhẹ phân bố ở cả hai tầng văn hoá. Loại gốm như thế này cũng đã được phát hiện trong hố khai quật thành Trà Kiệu năm 2003.
Ngoài gốm thô và gốm tinh mịn bản địa hay bản địa sản xuất theo kỹ thuật từ bên ngoài, trong hố đào còn tìm thấy một số mảnh gốm sành Hán văn in.

Chất liệu khác
Trong tầng văn hoá dưới còn có hạt chuỗi thuỷ tinh loại Indo Pacific, hạt chuỗi bằng kim loại màu vàng, dọi se chỉ đất nung hình nón cụt, bàn mài...
1.5. Diễn biến văn hoá ở Cổ Luỹ - Phú Thọ
Trên nền sinh thổ loại đất lẫn đá Granit phong hóa (mặt bằng cách bề mặt giông đất hiện tại gần 2 m), có lẽ là thềm bậc cao của sông Trà Khúc, lớp cư dân của tầng văn hóa I - sớm đã tụ cư sinh sống ở đây từ khoảng đầu thế kỷ II  đến thế kỷ III Công nguyên. Trong đồ gốm mà họ sử dụng hàng ngaỳ có lưu giữ một số truyền thống của dòng gốm văn hóa Sa Huỳnh trước đó, một số đồ trang sức-tức các hạt chuỗi bằng vàng, thủy tinh, và bằng chất liệu chưa xác định được cũng vẫn thấy tiếp tục được sản xuất và sử dụng. Như vậy, cùng với ý tưởng và học thuyết, những kỹ thuật mới trong chế tác đồ gốm, gạch và ngói cũng được đưa vào và đã được cư dân tiếp thu rồi phát triển.
Cư dân sinh sống liên tục ở đây, vào khoảng thế kỷ IV, khi ảnh hưởng từ bên ngoài gia tăng, đặc biệt là ảnh hưởng của các tôn giáo từ Ấn Độ, họ đã xây dựng những công trình kiến trúc tâm linh đầu tiên, những công trình thời kỳ sớm có qui mô lớn, qui chỉnh, có những gia hạ của móng côt? dày gần một mét được xử lý kỹ càng ăn xuống sinh thổ (điển hình là F 9). Lớp kiến trúc này cũng ăn vào tầng văn hóa sớm và đều có niên đại muộn hơn so với lớp cháy ngăn cách giữa hai tầng. Lớp kiến trúc này bị phá hủy và sau đó một thời gian, xuất hiện những kiến trúc của thời kỳ muộn hơn mà vết tích chỉ cách bề mặt hiện nay từ 15cm-20cm. Lớp này bị phá hủy nghiêm trọng và hầu như tại khu vực của nơi khai quật không thấy những hiện vật có niên đại muộn hơn thế kỷ thứ VII. Lớp kiến trúc sớm xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ III, đầu thế kỷ IV, lớp kiến trúc muộn được xây dựng sau đó chút ít, khoảng thế kỷ V. Đầu ngói ống trang trí mặt người gắn với kiến trúc giai đoạn muộn cho thấy những tương đồng với những hiện vật tương tự ở Trà Kiệu, Thành Hồ và ở Nam Kinh (Trung Quốc) có niên đại Lục Triều sớm giúp chúng ta định niên đại những vết tích kiến trúc thời kỳ muộn hơn này.
Kết quả khai quật Cổ Lũy lần này cho thấy không có đủ tài liệu để khẳng định sự tồn tại của hai lớp văn hoá Sa Huỳnh – Champa ở Cổ Lũy- Phú Thọ. Đây là di tích có niên đại từ sau Công nguyên và thuộc vào giai đoạn Chăm sớm, Champa[2].
Cổ Lũy là phức hợp di tích cư trú thành lũy đa chức năng thuộc giai đoạn sớm của văn minh Champa (hay giai đoạn hình thành những tiểu quốc sớm kiểu Lâm Ấp) và giai đoạn muộn hơn (giai đoạn Champa). Trong đó, thuộc giai đoạn sớm (tầng văn hoá dưới) là khu vực cư trú. Những kiến trúc xây gạch và lợp ngói (loại ngói muộn) và tưòng thành bắt đầu từ tầng văn hoá hai (từ sau thế kỷ IV).   
Kết quả khai quật Cổ Luỹ cho thấy những công trình kiến trúc tâm linh, công cộng và thành của cư dân Champa thường được xây dựng trên cơ tầng cư trú sớm hơn. Hiện tượng này cũng không phải hiếm gặp ở Đông Nam Á, ví dụ như cuộc khai quật ở Angkor Borei cho thấy kiến trúc xây bằng gạch được xây dựng trên nền cư trú sớm (Stark Miriam 1998: 189-195).
2. Cổ Luỹ - Phú Thọ trong bối cảnh khảo cổ học Champa nửa đầu thiên niên kỷ I Công nguyên.
2.1. Bối cảnh Đông Nam Á và miền Trung Việt Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ V Công nguyên.
Giai đoạn này ở Đông Nam Á chứng kiến những tiếp xúc văn hoá nhiều chiều dẫn đến những thay đổi mang tính chất bước ngoặt trong cơ cấu và quan hệ xã hội. Thời kỳ hình thành những cấu trúc xã hội có tính phức hợp cao, thời kỳ của sự mở rộng quan hệ buôn bán nội và liên vùng dẫn đến những biến chuyển văn hoá sâu sắc ở nhiều vùng của Đông Nam Á. Đặc biệt sự biến chuyển từ các dạng xã hội kiểu “lãnh địa” hay những dạng xã hội với mức độ phức hợp thấp tương đương “lãnh địa” sang những hình thức chính thể dạng nhà nước với mức độ phức hợp cao hơn.
Nhân tố tác động tới chọn lựa mô hình nhà nước sớm và nhà nước phát triển ở Đông Nam Á được xem xét từ nhiều góc độ. Từ biến đổi bối cảnh (Stark M) đến tác động bên ngoài (Coedes); Từ phát triển đô thị hoá và gia tăng hoạt động thương mại (Hall K) tác động đến sự phát triển của hình thức tổ chức chính trị mandala (Wolters) đến tìm hiểu vai trò của thương mại quốc tế với mô hình tương tác giữa các chính thể đồng dạng (Glover)  hay nhấn mạnh tác động của xu thế xa hoa, cầu kỳ gia tăng trong tầng lớp trên của xã hội phân tầng đối với quản lý và kiểm soát sản xuất nông nghiệp (Higham). 
Nhìn chung, trong những nghiên cứu về nguyên nhân, động lực hình thành và biến đổi cơ cấu xã hội dẫn đến sự hình thành và phát triển của các loại hình nhà nước ở khu vực nổi lên hai nhóm ý kiến chính.
i.                           Nhóm ý kiến thứ nhất nhấn mạnh đến những yếu tố bên ngoài như thương mại trao đổi khoảng cách xa, tiếp xúc với Trung Hoa, Ấn Độ, truyền bá tư tưởng, tôn giáo ...
ii.                       Nhóm ý kiến thứ hai tập trung vào những động lực bên trong như phát triển hay mức giới hạn của dân số, nhu cầu kiểm soát và điều tiết công việc trị thuỷ...
Vận dụng những quan điểm này trong nghiên cứu lịch sử cổ trung đại miền Trung Việt Nam chúng tôi nhận thấy rằng điểm căn bản trong những quan điểm “ngoại sinh hoá” là nhấn mạnh vai trò của tầng lớp tinh hoa của các xã hội bản địa và chính họ đã dung hoá những yếu tố (thuộc thượng tầng kiến trúc) của những nền văn minh Trung Hoa hay Ấn Độ. Khoảng đầu Công nguyên, một số vùng ở Đông Nam Á đã đạt tới trình độ phát triển cao cho phép những  thủ lĩnh địa phương có thể chọn lựa, cho dù phần nhiều không ý thức những hình thức của tôn giáo Ấn Độ, những loại thích hợp hay phù hợp với những tín ngưỡng và thực tiễn địa phương (Casparis và Mabbett 1992: 282).
Có thể thấy quá trình “ngoại sinh hoá” văn hoá Đông Nam Á từ đầu Công nguyên là quá trình tích hợp có chọn lọc (chỉ của) những yếu tố ngoại sinh phù hợp và đáp ứng nhu cầu tiến hoá của những xã hội bản địa. Quá trình này diễn ra không đồng đều và mỗi vùng đã có sự chọn lựa riêng dẫn đến những tác động văn hoá đa dạng. Từ diễn giải các nguồn tư liệu đã có, chúng tôi nhận ra rằng quá trình này (tiếp nhận những tư tưởng vũ trụ luận Ấn Độ) ở miền Trung Việt Nam khởi đầu không sớm lắm và với tốc độ vừa phải. Ở giai đoạn đầu quá trình này đã vấp phải những rào cản đáng kể từ những lực lượng ngoại sinh khác, đó là những yếu tố văn hoá Hán Trung Hoa. 
Một vấn đề cần lưu ý là quá trình này phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố nội sinh tức sự phát triển bên trong của Đông Nam Á, tức tính chủ động và tích cực trong việc tiếp thu và dung hoá các yếu tố ngoại sinh của các cộng đồng cư dân bản địa. Vai trò của quá trình được gọi là “Đông Nam Á hoá và Bản địa hoá” này dần được đánh giá đúng mức hơn. Trong khi những nghiên cứu trước đây thường tập trung đề cao các động lực ngoại sinh bất kể là kinh tế, chính trị hay tôn giáo... thì những nghiên cứu gần đây nhấn mạnh tầm quan trọng của nền tảng bản địa trong quá trình hình thành nhà nước ở các mức độ khác nhau. Chính nhu cầu phát triển nội tại “tới ngưỡng” là nguyên nhân chính để các xã hội Đông Nam Á lựa chọn những mô hình chính trị tương thích với điều kiện tự nhiên và xã hội của mình.
Đối với miền Trung Việt Nam, bên cạnh những điều kiện và yếu tố giống với khu vực còn có những đặc điểm riêng, đó là vai trò đáng kể của:
i.                          Điều kiện tự nhiên và sinh thái (yếu tố biển, vị thế trung điểm của miền Trung Việt Nam trên tuyến hải thương quốc tế thời cổ trung đại...);
ii.                        Điều kiện xã hội (bờ biển thuận lợi đưa đón những luồng di chuyển dân cư, đặc biệt là của cư dân ngữ hệ Nam Đảo);
iii.                     Điều kiện chính trị - văn hoá (tiếp xúc giao lưu với Bắc Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á...), trong đó nổi bật là sự kiện thuộc Hán và chống Hán của các nhóm cư dân vùng đất phía nam của quận Nhật Nam mà kết quả cuối cùng là cuộc khởi nghĩa của Khu Liên với sự thành lập của nhà nước Lâm Ấp.
 Những điều kiện chung và riêng kể trên đã có tác động ở các mức độ khác nhau vào việc chọn lựa mô hình chính trị phù hợp và hình thành nhà nước ở miền Trung Việt Nam.
2.2. Cổ Luỹ-Phú Thọ, Trà Kiệu, Thành Hồ[3]: Những trung tâm chính trị - kinh tế giai đoạn Champa sớm, Champa .

2.2.1. Những phát hiện khảo cổ giai đoạn nửa đầu thiên niên kỷ I sau Công nguyên ở lưu vực sông Thu Bồn.
Lưu vực sông Thu Bồn và đặc biệt là vùng hạ lưu là nơi tập trung với mật độ cao nhất những di tích có niên đại từ thế kỷ 5 TCN đến cuối thiên niên kỷ 1 CN.
Những địa điểm thuộc khung thời gian của bài nghiên cứu phân bố ở hai khu vực chính, đó là khu vực Hội An và khu vực Trà Kiệu. Trong bảng 2 dưới đây, chúng tôi khái lược những điạ điểm quan trọng nhất ở khu vực Trà Kiệu. Dựa vào nhiều nguồn tư liệu thành văn, vật chất và tham khảo những nghiên cứu khác, chúng tôi đồng thuận với ý kiến cho rằng địa bàn của Lâm Ấp chính là khu vực Trà Kiệu và vùng xung quanh Trà Kiệu.
Tại Trà Kiệu nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành khá liên tục trong khoảng 10 năm. Đã có nhiều bài công bố kết quả nghiên cứu Trà Kiệu cả ở lĩnh vực thực địa lẫn lý thuyết. Tuy còn có một số tranh luận về niên đại, đặc biệt là niên đại khởi đầu, song nhìn chung tất cả các nhà nghiên cứu đều đồng thuận phân lập hai hay ba giai đoạn văn hoá chính diễn biến liên tục ở Trà Kiệu (xem những nghiên cứu của Nguyễn Kim Dung; I. Glover, M.Yamagata, Nguyễn Chiều, Lâm Thị Mỹ Dung...).
Theo giới hạn thời gian chủ đề nghiên cứu, trong bài này chúng tôi chỉ đề cập tới giai đoạn văn hoá văn hoá sớm ở Trà Kiệu (một phần trùng với giai đoạn nhà nước Lâm Ấp, thế kỷ II-IV). Giai đoạn này được nhận biết ở những ở những lớp văn hoá chuyển từ tầng I lên tầng II, chuyển từ ngói làm bằng khuôn lót vải sang ngói làm theo lối dải cuộn, chuyển từ gốm thô kiểu sơ sử sang nhiều loại hình và kỹ thuật trang trí kiểu gốm Hán, gạch xuất hiện, xuất hiện nhiều loại hình gốm mới (bình vò trang trí văn in ô vuông, kendi...), một số loại gốm sớm không thấy nữa như bình hình trứng, song một số loại gốm sinh hoạt dòng gốm thô vẫn được sản xuất và tiếp tục sử dụng. Chưa có những kiến trúc theo kiểu xây gạch hay đền tháp ở giai đoạn này. Giai đoạn Lâm Ấp này có liên hệ nguồn gốc với nền tảng sớm hơn. Nền tảng này được phản ánh qua lớp văn hoá Gò Cấm (địa điểm sát ngay Trà Kiệu), những lớp văn hoá sớm nhất của Trà Kiệu. Lâm Ấp chịu ảnh  hưởng bên ngoài mà đặc biệt là những ảnh hưởng từ phía Bắc. Những ảnh hưởng này tiếp tục từ giai đoạn trước, song đến thế kỷ III đã có những thay đổi căn bản về cả cường độ lẫn tính chất và quy mô.
 Những kết quả khai quật Trà Kiệu và những địa điểm khác ở Hội An chứng tỏ dòng chảy văn hoá khá liên tục từ thế kỷ V trước Công nguyên đến cuối thiên niên kỷ I Công nguyên và muộn hơn. Trong đó có những điểm mốc thời gian chuyển biến văn hoá nhanh mạnh. Đó là chuyển biến từ Sa Huỳnh sang Champa sớm ở mốc từ cuối thế kỷ I trước Công nguyên đến giữa thế kỷ I Công nguyên và thời điểm từ thế kỷ III đến thế kỷ IV. Sự thay đổi về chất từ thế kỷ III trở đi tương ứng với sự hình thành cơ cấu nhà nước và từ cuối thế kỷ III, đầu thế kỷ IV bắt đầu xuất hiện những kiến trúc bằng gạch và sử dụng ngói loại dải cuộn (ngói in dấu vải chỉ thấy ở giai đoạn sớm thế kỷ I-II sau Công nguyên và liên quan đến kiến trúc gỗ). Mốc tiếp theo đó là thế kỷ V-VI khi những tiểu vương quốc Champa sớm tích hợp vào vương quốc Champa (cũng vẫn theo mô hình liên minh) và hướng mạnh mẽ theo quỹ đạo văn minh Ấn Độ.
2.2.2. Thành Hồ
Di tích toà thành Chăm, nay thuộc địa phận thôn Định Thọ, xã Hoà Định Đông, huyện Phú Hoà, tỉnh Phú Yên. Địa điểm cách thị xã Tuy Hoà 12km, nằm bên bờ Bắc (tả ngạn) của sông Ba (Đà Rằng) và cách cửa sông Đà Rằng 15km về hướng Đông[4].
Vết tích cư trú sớm ở Thành Hồ
Tháng 7/2001, Bộ môn Khảo cổ học, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội và Bảo tàng Phú Yên đã khảo sát tổng thể khu vực thành Hồ. Phía dưới Cột Cờ, trong khu vực nhà ông Nguyễn Sáu (ông Sáu Ất), thôn Định Thọ, phía bờ thành Tây, trên một khoảng đất rộng tương đối bằng phẳng, đoàn đã phát hiện một số mảnh gốm Chăm cổ, gốm thô, mềm và bở trong tầng đất sẫm màu. Qua quan sát diện phân bố của hiện vât, chất liệu và loại hình gốm  chúng tôi cho rằng đây là vết tích cư trú sớm của Thành Hồ, có thể tương đương với lớp dưới Trà Kiệu và lớp dưới Cổ Luỹ - Phú Thọ. Trên toàn bộ những di tích còn sót lại của luỹ thành còn tìm thấy nhiều gạch nguyên và vỡ, ngói, đầu ngói ống hình mặt hề, loại đầu ngói đã  được phát hiện nhiều ở lớp trên Trà Kiệu và lớp trên Cổ Luỹ-Phú Thọ.Tại địa điểm có tên gọi Thổ Đạo hay Hưng Đạo, bờ thành Đông, đoàn đã tìm thấy nhiều hiện vật gốm, song chưa phát hiện thấy tầng văn hoá. Nhóm gốm có nhiều loại hình như bình, vòi Kendi, cà ràng… một số bình vò có thân trang trí văn in ô vuông, sóng nước, hồi văn, xương cá… những hiện vật gốm này khá giống các loại hình gốm Chămpa ở tầng văn hoá trên của di chỉ Trà Kiệu, Cẩm Phô (Hộ An, Quảng Nam) và một số di tích Chămpa khác ở Quảng Nam, Quảng Ngãi… Trong sưu tập này còn có mảnh Kendi bán sứ, mảnh vò bán sứ Lục Triều… Nhìn chung bộ sưu tập này nằm trong khoảng thời gian từ thế kỷ III đến thế kỷ V CN.
Kết quả khai quật năm 2003 của Viện khảo cổ học
Hai hố khai quật đã được mở ra. Hố H1 nằm về phía Tây, khu đất cao của thành; hố H2 nằm gần về phía Đông, cả hai hố đều nằm trong khu vực dân cư và thuộc vùng đất được coi là thành Nội (Lê Đình Phụng và Phạm Văn Triệu 2004).
Các vết tích kiến trúc phát hiện được đều được xây bằng gạch theo kiểu xếp chập khối, không có chất kết dính. Vật liệu xây dựng là gạch, thường có màu đỏ, không trang trí hoa văn, đáng chú ý là sự tận dụng và tái sử dụng gạch để xây dựng. Bình đồ của các công trình này đều có hình tứ giác. Theo những người khai quật niên đại của những công trình này thuộc thế kỷ V đến VII SCN.
Di vật: Nhóm di vật liên quan đến kiến trúc như gạch, ngói âm dương, đầu ngói ống mặt hề, sư tử, kala, hoa sen, chi tiết trang trí kiến trúc con tiện gốm, đinh/chốt gốm... có nhiều nét tương đồng với hiện vật tìm thấy ở Trà Kiệu, Đồng Dương (Quảng Nam), Cổ Luỹ - Phú Thọ... và niên đại của nhóm hiện vật này thuộc thế kỷ V đến thế kỷ VII.
Đáng chú ý là nhóm đồ gốm, gốm tìm thấy tại đây theo báo cáo khai quật cũng thuộc về hai loại chất liệu. Loại thô, pha cát, nung không cao và hình dáng kế thừa từ đồ gốm văn hoá Sa Huỳnh và loại gốm có xương mỏng mịn, độ nung cao, hoa văn trang trí (in ô vuông) được xem là ảnh hưởng từ trang trí đồ gốm Hán. Trong hố khai quật cũng tìm thấy một số mảnh gốm Hán in ô vuông xương gốm mỏng mịn, độ nung cao, hoa văn in ô vuông sắc sảo, giống với gốm văn in Đông Hán ở Gò Cấm, Trà Kiệu, Suối Chình và Cổ Luỹ-Phú Thọ.
Loại hình gốm trong các lớp đào ở cả hai hố khai quật gồm bát, đĩa đáy bằng, cốc chân cao đặc, nắp vung, cà ràng, kendi... là những loại hình gốm phổ biến từ giai đoạn sau Công nguyên. Cà ràng giống như loại đã tìm được ở Trà Kiệu, Cổ Luỹ-Phú Thọ. Trên mép chân kiềng của cà ràng Thành Hồ được trang trí văn in ô vuông.
Những mô tả đồ gốm và bản vẽ hiện vật gốm trong báo cáo khai quật rất tiếc không ghi lớp và chỉ có một số có ghi hố khai quật (Nguyễn Đính và Phạm Văn Triệu 2004), do vậy rất khó để theo dõi diến biến sớm muộn của đồ gốm từ lớp 1 đến lớp 4 trong cả hai hố. Đồ gốm tập trung trong hai lớp 2 và 3 và có lẽ những công trình kiến trúc đã làm xáo trộn các lớp văn hoá ở đây. Loại hình, chất liệu gốm và hiện vật đất nung khác ở đây cho thấy nhóm hiện vật gốm nằm trong khung niên đại từ thế kỷ II đến VII Công nguyên.
 Như vậy, diễn biến gốm ở Thành Hồ cho thấy gốm ở đây nằm trong dòng chảy chung của diễn biến đồ gốm ở miền Trung Việt Nam từ đầu thiên niên kỷ I Công nguyên.
Kết quả của những nghiên cứu và khai quật cho thấy, thành Hồ được xây dựng sớm trong lịch sử Chămpa, có quy mô xây dựng lớn, thành là một công trình kiến trúc hoàn thiện, một trung tâm lớn của cư dõn Champa  trong thời kỳ đầu lịch sử và có thể là trung tâm chính trị, kinh tế của một vùng-tiểu quốc. Trung tâm này được xây dựng và phát triển rực rỡ không thua kém bất cứ một trung tâm nào của người Chăm, tương đương với kinh đô Trà Kiệu (Quảng Nam) (Lê Đình Phụng, Phạm Văn Triệu 2004). 
Kết quả khảo sát thực địa và nghiên cứu so sánh loại hình di vật của thành Hồ với Trà Kiệu, Gò Cấm, Cổ Luỹ-Phú Thọ... cho thấy niên đại thế kỷ V-VII Công nguyên mà các nhà nghiên cứu đưa ra là niên đại của bản thân  toà thành và những công trình kiến trúc của thành. Thành Hồ được xây dựng trên khu vực cư trú sớm hơn, có thể khu cư trú này tương đương với lớp dưới của Trà Kiệu và Cổ Luỹ-Phú Thọ, có niên đại từ khoảng thế kỷ II CN. Sự có mặt của đầu ngói ống hình mặt hề có niên đại Lục Triều sớm (thế kỷ IV) tại Thành Hồ giống như những đầu ngói ống tương tự ở Trà Kiệu và Cổ Luỹ-Phú Thọ giúp chúng tôi đưa ra nhận định chung về niên đại xuất hiện của những di tích kiến trúc sử dụng đầu ngói ống loại này trong văn hoá Champa là từ thế kỷ thứ IV.
Sự đồng nhất trong tiêu chuẩn loại hình và kỹ thuật chế tác của những vật liệu xây dựng, kiến trúc như đầu ngói ống, gạch, ngói giai đoạn muộn (loại làm bằng khuôn, mặt bụng không có dấu vải, lưng có dấu văn chải, văn thừng, in ô vuông), gốm hình con tiện, chốt/đinh gốm của thời kỳ này (từ sau thế kỷ IV) cho thấy có sự thống nhất tương đối và mức độ đòng đều trong phát triển giữa các trung tâm kinh tế - chính trị của của các chính thể nhà nước sớm và nhà nước phát triển hình thành và lớn mạnh từ sau thế kỷ I, II CN.
2.3. Chuyển biến cơ cấu xã hội Champa sớm - Champa từ dữ liệu khảo cổ
Quá trình chuyển biến Sa Huỳnh - Lâm Ấp - Champa có liên quan mật thiết với những chuyển động và biến động chính trị- kinh tế của khu vực. Áp dụng những lý thuyết - mô hình dạng tiền nhà nước - nhà nước sớm khác nhau trên thế giới, các học giả nghiên cứu về Đông Nam Á đã thử đưa ra nhiều mô hình cho khu vực này từ cấu trúc lãnh địa đến sự hình thành các mandala và liên minh của các mandala. Tuy còn khá nhiều ý kiến tranh luận về nội hàm của các khái niệm và sử dụng khái niệm phổ quát chung cho toàn thế giới về tiến hoá xã hội ở Đông Nam Á, song đa số các nghiên cứu về sự hình thành các chính thể Đông Nam Á ít nhiều đều áp dụng những thuật ngữ như lãnh địa, nhà nước sớm, nhà nước khi đề cập tới các tầng bậc thấp cao của tính phức hợp xã hội. Những đặc thù riêng của Đông Nam Á như tính không đồng nhất trong phát triển, mật độ dân số không đồng đều, số dân ít, sự cắt rời lãnh thổ và đa tộc người đã được nhiều học giả quan tâm đúng mức khi nghiên cứu quá trình chuyển biến xã hội dẫn tới sự hình thành của nhà nước.
Quá trình chuyển biến từ những lãnh địa sang nhà nước sớm dạng mandala sang vương quốc Champa diễn ra trong vài thế kỷ từ thế kỷ II đến thế kỷ VI Công nguyên. Mặc dù bản chất của giai đoạn quá độ này chưa thể nhận biết một cách rõ ràng nhưng thư tịch và tài liệu khảo cổ mà chúng ta có cho đến hiện nay đều chứng tỏ đây là quá trình phát triển xã hội nội tại trong bối cảnh chung của khu vực và chịu tác động của một số yếu tố từ bên ngoài. Đây cũng là quá trình của những mối quan hệ liên minh, thu phục và chiếm lấn lẫn nhau giữa các lực lượng nội tại nhằm mục đích một mặt đối trọng với những thế lực bên ngoài và mặt khác thu nhận (bằng những cách thức cưỡng bức và tự nguyện) những mô hình tổ chức chính trị từ nơi khác (ban đầu là của Trung Hoa và muộn hơn là của Ấn Độ). Mút cuối của quá trình này là sự nổi lên của vương quốc Champa trên chính trường Đông Nam Á .   
Đây là thời kỳ có rất nhiều những thay đổi trong cả hai lĩnh vực, hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Đây cũng là thời kỳ mà các cộng đồng cư dân ở Đông Nam Á tăng cường các mối tiếp xúc, quan hệ với nhau và với thế giới bên ngoài. Cả Đông Nam Á bằng nhiều cách khác nhau dần tiếp hợp với mạng lưới hải thương quốc tế, chịu tác động của chính sách bành trướng của nhà Hán (Trung Hoa) và chiến lược ngoại giao qua buôn bán và truyền bá tôn giáo của các quốc gia cổ đại Ấn Độ. Miền Trung Việt Nam với vị thế trung lộ và đường bờ biển dài không thể nằm ngoài vùng tác động của những yếu tố này. Vị thế cầu nối bắc nam và cả đông tây ở bán đảo Đông Dương đã làm cho vùng đất này chịu tác động của những luồng văn hoá, sóng dịch chuyển dân cư không chỉ một lần và không chỉ của một văn hoá đơn lẻ.
Nếu xét từ phương diện lịch sử, có vẻ như có một sự thay đổi  khá đột ngột trong cấu trúc chính trị của những xã hội giữa thời tiền, sơ sử và lịch sử, với sự hình thành của những chính thể dạng nhà nước. Tuy vậy, từ góc độ khảo cổ, chúng ta có thể thấy có một sự tiếp nối đáng kể giữa hai thời kỳ này. Nói một cách khác sự phát triển kinh tế - xã hội thời sơ sử là cơ sở nền tảng cho sự hình thành nhà nước ở giai đoạn muộn hơn. Sự phát triển của những thiết chế chính trị phân tầng, sự chuyên hoá về sản xuất kinh tế và sự tiến hoá của xã hội dựa trên cơ sở giai cấp trong khoảng một thiên niên kỷ đã góp phần đáng kể vào việc nảy sinh những nhà nước sớm ở nhiều vùng của Đông Nam Á (Lâm Thị Mỹ Dung 2008). Mặc dù bản chất và thời gian của những thay đổi này ở Đông Nam Á không đồng nhất, nhưng nhìn chung cho đến giữa thiên niên kỷ I Công nguyên ở Đông Nam Á lục địa nhiều chính thể phức hợp đã được hình thành.
Dựa trên sự phân bố của các địa điểm khảo cổ học, đặc biệt là dọc theo bờ biển và theo lưu vực các sông lớn, vào khoảng thế kỷ V trước Công nguyên đến thế kỷ I Công nguyên, có thể thấy rằng duyên hải và các lưu vực sông và cả sâu ở trong nội địa ở Trung và Nam Trung bộ Việt Nam đã hình thành và phát triển một số khu vực cư trú-mộ táng lớn như những  phức hợp chính trị được tổ chức tập trung theo vùng với hệ thống phân tầng khá phát triển, những phức hợp này có thể được gọi bằng khái niệm lãnh địa
Từ thế kỷ I đến thế kỷ II  Công nguyên - thời kỳ mà Bắc và một phần Nam Trung bộ thuộc quận Nhật Nam. Đây là thời gian chứng kiến những chuyển biến từ lãnh địa sang cơ cấu xã hội dạng nhà nước sớm. Chuyển tiếp từ lãnh địa sang mandala hay negara theo cách dùng khái niệm mang tính đặc thù khu vực của một số nhà nghiên cứu. Bên cạnh những điều kiện nội sinh như nền tảng kinh tế phát triển kéo theo những chuyển biến về chất trong lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất dẫn đến chuyển biến trong cơ cấu xã hội thì chúng ta cũng không thể không lưu ý tới bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Đó là sự suy yếu của nhà Đông Hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho một số cộng đồng cư dân nổi dậy khởi nghĩa lập ra chính quyền của mình. 
Giai đoạn tương đương Lâm Ấp cuối thế kỷ II đến đầu thế kỷ V là thời kỳ của mandala sớm. Sự kiện quan trọng được sử chép đó là Phạm Văn cố vấn cho Phạm Dật có nhiều yếu tố liên quan đến văn hoá Hán (người Hán từ Giang Châu hay người Lâm Ấp nhưng sống ở Trung Quốc và hấp thu văn hoá Hán theo như Coedes). Sử cũ còn ghi “Đời Thái Khang (280-290), vua Lâm Ấp là Phạm Dật sang Trung Quốc tiến cống, Dật có người nô lệ là Văn đi theo, rồi sau đó thường qua lại buôn bán, thấy được chế độ văn minh của thượng quốc, khi trở về Lâm Ấp bèn dạy cho Dật xây cung thất, thành quách và chế khí giới” (Dẫn theo Đào Duy Anh 1994: 69). Tư liệu khảo cổ học từ những địa điểm Champa sớm có niên đại từ thế kỷ I-III Công nguyên như Trà Kiệu, Cổ Luỹ-Phú Thọ... cho thấy sự tham góp của những yếu tố văn hoá Hán trong làm gốm, sản xuất vật liệu xây dựng và xây đắp thành...
Từ khoảng cuối thế kỷ IV, những xã hội này dần tiếp thu mạnh mẽ hơn những yếu tố văn hoá Ấn Độ và về phương diện chính trị đây cũng là thời gian chuyển biến sang mô hình Nam (Ấn Độ) mandala thực sự, quá trình chuyển hướng chính trị và tôn giáo này đã dẫn đến sự nổi lên của Champa trên chính trường Đông Nam Á vào thế kỷ VI. Tiếp xúc và trao đổi với văn hoá Ấn Độ tăng mạnh được ảnh xạ qua sự có mặt của hàng loạt những bi ký chữ Phạn, những điêu khắc đồng đá Phật giáo, Blamon giáo ở Trung và Nam Trung bộ. Ngoài tư liệu khảo cổ, sử liệu cổ cũng ghi nhận từ sau  Khu Liên (tức thế kỷ III trở đi) sứ Lâm Ấp đã dùng “ chữ viết Hồ- Ấn Độ” trong văn thư. Đây là quá trình chuyển biến tạo nên những thay đổi lớn tuy không có những xung đột mạnh mẽ hay thay đổi đột ngột và cũng không hẳn là sự thay thế hoàn toàn mô hình cũ bằng mô hình mới. Đây cũng là hiện tượng chung cho Đông Nam Á và thế kỷ V chứng kiến những thay đổi về thể chế có tính chất mạnh mẽ ở Đông Nam Á (Stark  M 1998: 86).
Do sự phát triển không đồng đều và cũng do sự khác biệt trong đầu mối và cường độ tiếp xúc với thế giới bên ngoài nên sự hình thành nhà nước sớm đã diễn ra không đồng thời. Ở những vùng châu thổ sông lớn và duyên hải của Đông Nam Á lục địa những nhà nước được hình thành sớm hơn và phát triển mạnh hơn so với những vùng khác của khu vực.
Cho tới thời điểm hiện nay, đã có thể xác định ba trung tâm hành chính - chính trị - kinh tế  phân bố ở các lưu vực sông lớn ở Trung và Nam Trung bộ Việt Nam. Đó là Trà Kiệu, Cổ Luỹ - Phú Thọ và Thành Hồ. Trong đó Trà Kiệu được xây dựng trên một cơ tầng văn hoá sớm có niên đại cận kề với niên đại kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh. Tầng văn hoá sớm nhất ở Cổ Luỹ - Phú Thọ và Thành Hồ tuy có niên đại muộn hơn chút ít so với Trà Kiệu nhưng cũng cho thấy tất cả những trung tâm này đều được phát triển và mở rộng từ cơ tầng văn hoá bản địa có niên đại khởi đầu muộn nhất là từ nửa sau thế kỷ I Công nguyên. Những tương đồng trong diễn biến liên tục từ tầng văn hoá sớm đến tầng văn hoá muộn (cả di vật và di tích) ở ba trung tâm này (và ở nhiều địa điểm Champa sớm khác) minh chứng cho nguồn gốc bản địa và mức độ phát triển tương đương trong các lĩnh vực kinh tế-chính trị-văn hoá của các cộng đồng dân cư ở những vùng lưu vực sông lớn ở Trung và Nam Trung Bộ Việt Nam trong suốt 10 thế kỷ đầu Công nguyên và muộn hơn.
     Những di tích và di vật khảo cổ cùng những ghi chép trong thư tịch cổ cũng cho thấy vai trò quan trọng của tiếp xúc, trao đổi và tiếp biến văn hoá giữa các trung tâm này và giữa chúng với khu vực Đông Nam Á, Nam Á và Đông Á tạo nên những chuyển biến kinh tế - chính trị - xã hội của vương quốc Champa ở một số mốc thời gian quan trọng. 
Chú thích
Những minh hoạ không ghi nguồn trong bài do Đặng Hồng Sơn, Nguyễn Hồng Kiên và các tác giả bài viết thực hiện.

Tài liệu dẫn

Đào Duy Anh 1994. Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb. Thuận Hoá.
Đoàn khảo sát Phú Yên, 2002, Kết quả khảo sát khảo cổ học tỉnh Phú Yên, tháng 7 năm 2001, NPHMVKCH năm 2002, 792-797.
Đoàn khảo sát Phú Yên, 2002, Kết quả khảo sát thành Hồ tháng 7 năm 2001, NPHMVKCH năm 2002, 798-800
Parmentier H., 1909. Inventaire Describtif des Monuments Cams de l’ Annam. Volume I. Paris.
Đoàn Ngọc Khôi 1998. Báo cáo đào thám sát khảo cổ học địa điểm núi Phú Thọ - Cổ Luỹ. Tư liệu khai quật của  Bảo tàng Quảng Ngãi. Quảng Ngãi.
Lâm Mỹ Dung, Đặng Hồng Sơn 2005. Báo cáo khai quật khảo cổ học di tích Cổ Luỹ - Phú Thọ (Quảng Ngãi). Tư liệu Bảo tàng Nhân học, trường ĐHKHXH & NV, Hà Nội.
Yamagata Mariko 1998. Formation of Linyi. Journal of Southeast Asian Archaeology . N0.18: 51-89.
Lâm Thị Mỹ Dung 2008. Nghiên cứu quá trình chuyển biến từ Sơ sử sang lịch sử sớm ở miền Trung Trung bộ và Nam Trung bộ Việt Nam. Báo cáo Đề tài khoa học trọng điểm QGTĐ.06.07. Tư liệu Bảo tàng Nhân học, trường ĐHKHXH & NV, Hà Nội.
Stark Miriam 1998. The Transition to History in the Mekong Delta : A View from Cambodia. International Journal of Historical Archaeology, Vol.2, No. 3.
Stark  Miriam 2000. Pre - Angkor Earthenware Ceramics from Cambodia’s Mekong Delta. Udaya. Journal of  Khmer Studies 1: 69-90.
He Yunao 2003 Tile Ends with Human and Animal Faces of the Six Dynasties Unearthed in Nanjing. Cultural Relics No.7. (tiếng Trung).
Lê Đình Phụng và Phạm Văn Triệu 2004. Báo cáo khai quật khảo cổ học di tích Thành Hồ (Phú Hoà, Phú Yên). Tư liệu Viện Khảo cổ học. Hà Nội.
Nguyễn Đính và Phạm Văn Triệu 2004. Phụ lục báo cáo khai quật khảo cổ học di tích Thành Hồ (Phú Hoà, Phú Yên). Tư liệu Viện Khảo cổ học. Hà Nội.



Cổ LUỹ–Phú Thọ (Quảng Ngãi) in the context of Champa archaeology
in the early half of the first Christian millennium
                  Lâm Thi Mỹ Dung, Nguyễn Anh Thư
The paper consists of two parts. One introduces the excavated results of Cổ Luỹ - Phú Thọ site and the other highlights some practical and theoretical issues of early state emergence and transition to history in Central Vietnam. These issues have been resolved by using the comparative studies of three archaeological complexes of Trà Kiệu, Cổ Luỹ - Phú Thọ và Thành Hồ.
Cổ Luỹ - Phú Thọ site is located at Nghĩa Phú village, Tư Nghĩa district and Quảng Ngãi province. This site was first reported by H. Parmentier. Then, the site was test-excavated in 1998 and officially excavated in 2004. The archaeological vestiges are distributed on the high areas in the T – junction of Trà Khúc and Phú Thọ rivers. This is multifunctional archaeological site dated from the end of AD 1. The early habitation layer was from the end of AD 1 to the end of AD 3. The brick and tile architectural features appeared in the upper cultural layer and belonged to two phases. The early architectural phase dated to the AD 4 and the late one dated to the AD 5. The tile - ends decorated with the human face found in the late architectural phase were similar to those found in Nanjing (China), Tam Thọ kiln and Luy Lâu citadel (Northern Vietnam), Trà Kiệu (Quảng Nam province) and Thành Hồ (Phú Yên province).
The results obtained from Cổ Luỹ - Phú Thọ site have been interpreted by using cross-cultultural research methods, which led us to the recognition of three early Cham centers located on three main river deltas: Trà Kiệu was in Thu Bồn river delta, Cổ Luỹ - Phú Thọ was in Trà Khúc river delta and Thành Hồ - Đà Rằng was in Đà Rằng river delta. Of these, Trà Kiệu was the earliest, established on the habitation layer from the beginning of AD 1. The earliest habitation layers of Cổ Luỹ- Phú Thọ and Thành Hồ were slightly later than Trà Kiệu. However, both Cổ Luỹ- Phú Thọ and Thành Hồ sites came into existence and developed in the local cultural base.
            The similarities in the continuous process from the early to the late cultural layers in these three centres (and other Cham sites) demonstrate the indigenous origin and the equivalent development in the economic, political and cultural aspects of the people communities settled in the main river deltas in Central Vietnam during the 10 centuries AD.












[1] Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đây là phức hợp di tích cư trú, đền tháp, thành luỹ của giai đoạn từ TK 1 đến thế kỷ 9,10. Lớp văn hoá sớm nhất ở đây có niên đại khoảng nửa đầu TK 1 CN.
[2] Bên cạnh địa điểm này ở Quảng Ngãi còn có những địa điểm Champa từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn, có thể xem những báo cáo khảo sát và khai quật về đảo Lý Sơn, các huyện Bình Sơn, Đức Phổ… của Viện Khảo cổ học.
[3] Theo chúng tôi, miền Trung giai đoạn này không phải chỉ có ba trung tâm như đề cập ở đây. Như ở bắc Đèo Hải Vân, TP. Huế có nhiều khả năng có một trung tâm nữa với đại diện Thành Lồi, ở Bình Định với những thành như  thành Tra, cảng Thi Nại… tuy nhiên do chưa có những khảo sát khảo cổ học chi tiết, chúng tôi tạm chỉ báo cáo về những địa bàn đã được khảo sát khảo cổ học những năm gần đây, mặc dù mức độ khảo sát ở từng trung tâm là khác nhau.
[4] Bên cạnh toà thành này, ở Phú Yên có khá nhiều di tích Champa sớm và Champa phát triển khác (Đoàn khảo sát Phú Yên, 2002, 792-797)

Minh hoạ


























Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

TRƯỜNG LUỸ NGHI HOẶC KÝ- KỲ CUỐI: LÝ HOẶC

                                                                       Lê Hồng Khánh

 I. MẤY ĐIỀU XÁC QUYẾT:
Chữ “Lý hoặc” chúng tôi mượn từ tên một tác phẩm nổi tiếng của Mâu Bác - tập luận văn “Lý hoặc luận”, nghĩa là dùng lý luận để làm sáng tỏ những nghi hoặc, ngờ vực. Ông nầy là một học giả Phật giáo người Trung Hoa nhưng nhập tịch vào Giao Chỉ (Bắc Việt ngày nay), sống và nghiên cứu, tu tập ở Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) vào khoảng cuối thế kỷ II. Mượn chữ nghĩa của người xưa để đặt tên cho bài viết của mình, chúng tôi đồng thời muốn xác quyết mấy điều sau đây:
   1) Sự ủng hộ của người viết đối với việc tìm hiểu, nghiên cứu về Trường Luỹ và khẳng định giá trị lịch sử, văn hoá của hệ thống đồn luỹ được xây dựng công phu nầy là không hề bàn cải. Chúng tôi đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình trong quá trình tiếp xúc, làm việc với nhóm EFEO cũng như trong bài viết “Mấy ý kiến về Trường Luỹ và việc nghiên cứu Trường Luỹ” đã in trên tạp chí Xưa Nay (Hội Khoa học Lịch sử VN), sau đó in lại trên trên tạp chí Sông Trà. Xin trích lại nguyên văn một đoạn từ bài viết đó: “Độ lùi của thời gian hẳn nhiên khiến người nghiên cứu xa dần hiện trạng lịch sử và đó là một bất lợi, nhưng sự lùi nầy lại có thể mang đến một ưu thế khác khi chúng ta đã có thêm thời gian để có cách tiếp cận khác, lỏng dần sự chi phối của các điều kiện chính trị - xã hội, mà vì đó quá trình, và dẫn theo là thành quả nghiên cứu, những luận giải về lịch sử ít nhiều bị thiên lệch hoặc phải chấp nhận thiên lệch. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX chúng ta đã “nhìn lại”, “đánh giá lại” những con người như Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn Tường, Lê Văn Duyệt ...; còn trước đó là các đền đài, lăng tẩm của kinh thành Huế, cùng nhiều công trình kiến trúc được xây dựng với mục đích “phục vụ bộ máy cai trị” của nhà nước phong kiến Việt Nam, đặc biệt là triều Nguyễn. Như vậy, Trường Lũy có thể nhìn lại được chăng? Khiêm lăng (Lăng Tự Đức) được xây dựng bằng công sức của hàng vạn phu phen, binh lính, thợ thuyền để làm chỗ cho ông vua Tự Đức rong chơi, nghỉ ngơi khi còn sống và an táng khi qua đời. Ấy vậy mà công trình kiến trúc mỹ lệ và đường bệ nầy là một bộ phận không thể thiếu trong tổng thể hệ thống kiến trúc kinh thành Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, và là niềm vinh dự cho nhân dân Việt Nam, cho văn hóa Việt Nam. Dĩ nhiên chúng ta cũng biết rằng, trong quá trình xây dựng lăng nầy, đã từng nổ ra một cuộc khởi loạn của binh lính, phu phen do 2 ông Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo, mà sử gọi là “Loạn chày vôi”. Les politiques passent, les cultures restent – Chính trị qua đi, nhưng văn hóa thì còn lại, là thế đó!” (1)
2) Những trao đổi chân thành, nghiêm túc trên tinh thần khoa học là rất cần trong hành trình gian khó tiếp cận chân lý, vì vậy sự ủng hộ như vừa nói không đồng nghĩa với việc tán đồng vô điều kiện những giả thuyết mà nhóm EFEO đưa ra trong quá trình nghiên cứu về Trường Luỹ, nếu những giả thuyết đó còn những vấn đề khiến phải “nghi hoặc”; mặc khác, chúng tôi cũng không đồng tình với những ai dùng bài viết nầy để phủ nhận đóng góp khoa học đáng trân trọng của nhóm EFEO, cũng như hạ thấp giá trị của di tích Trường Luỹ bởi những thiên kiến lệch lạc, nông cạn, phi lịch sử.
3) Người viết cũng không giấu giếm sự hứng thú khi được “nói lại” với chính những người bạn của mình trong nhóm EFEO; bởi vì sự khác nhau về các phán đoán ở đây lại dựa trên cơ sở tương đồng cơ bản, đó là sự tôn trọng những khác biệt trong quá trình nghiên cứu, sự xa rời thói quen lặp lại một cách “vô tư” những phát ngôn của người khác về những vấn đề vốn rất cần phải được thường xuyên nhìn lại, quan sát lại.
4) Trường Luỹ và những vấn đề liên quan về lịch sử, văn hoá, dân tộc… chắc chắn còn được trao đổi rất nhiều, và sự trao đổi nầy sẽ là đóng góp cần thiết để làm rõ hơn những giá trị quý báu của Trường Luỹ vốn đã quá lâu rồi, vì nhiều lý do khác nhau, bị lãng quên một cách đáng tiếc; đồng thời, sự trao đổi (và cả tranh luận công khai trên các phương tiện báo chí, truyền thông) mặc nhiên sẽ tạo ra sự chú ý từ dư luận trong và ngoài nước, và đây chính là một trong những cách hữu hiệu nhất để giới thiệu, quảng bá về Trường Luỹ.
Trên cơ sở mấy điều như trên, chúng tôi xin được tiếp tục thảo luận thêm một kỳ nữa, nhằm góp phần “lý hoặc” những hồ nghi, ngờ vực để những giá trị quý báu của Trường Luỹ có thể hiện diện sòng phẳng trước thanh thiên bạch nhựt.

II. LUỸ DÀI, DÀI BAO NHIÊU?
Trong bài viết kỳ trước, chúng tôi đã nêu nghi vấn về các con số liên quan đến chiều dài của Trường Luỹ mà nhóm EFEO và một số bài báo đã nêu. Tại “Hội nghị bàn công tác bảo vệ di tích Trường Luỹ Quảng Ngãi” do UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức ngày 5/1/2010 (sau thời điểm chúng tôi công bố phần I bài Trường Luỹ ký), nhóm EFEO đã đề cập đến số liệu chiều dài Trường Luỹ, như sau: “Những nghiên cứu trong nhiều năm qua trên Trường Luỹ cho thấy luỹ dài 132 km mà phần năm trên đất Quảng Ngãi là 111km. Trong khu vực Đông Nam Á không có di tích luỹ nào có quy mô lớn như thế.”(2) Đoạn trích nầy it nhất có 3 điều cần làm rõ:
-                     Số liệu chiều dài luỹ có bao gồm chu vi các “bảo” không?
-                     Các đoạn luỹ đã bị phá có được đo không, và nếu đo thì bằng cách nào khi chúng không còn dấu vết rõ ràng trên thực địa?
-                     Khẳng định quy mô “lớn” của Trường Luỹ mà chỉ nêu chiều dài của nó, liệu đã thoả đáng chưa?
         Song, vấn đề chúng ta đang bàn ở đây là chiều dài của luỹ. Có thể hiểu, khi người ta nêu đến số lẻ trong hàng đơn vị (132 và 111), thì cũng thể đoán rằng đây là con số dựa trên một sự tính toán, đo đạt nào đó mà không thể là phỏng đoán. Có điều, con số nầy cho thấy phán đoán của chúng tôi ở kỳ trước là đúng. Xin trích lại nguyên văn: “Nhưng từ lúc nầy đến khi chiều dài của Trường Luỹ được công bố chính thức, chúng tôi (LHK), qua việc tìm hiểu các tài liệu lịch sử, phán đoán  và phân tích những dữ kiện có được, cho rằng chiều dài Trường Luỹ chỉ ở mức xấp xỉ 150km, trong đó, đoạn đi qua đất Quảng Ngãi (do Nghĩa Phòng, thuộc Nghĩa Định Sơn phòng quản lý) trên dưới 100km, phần còn lại, trên đất Bình Định (thuộc Định phòng) chừng non 40 cây số ngàn.”(3). Thực ra, trong bài viết “Trường Luỹ và việc nghiên cứu Trường Luỹ” chúng tôi đã nói đến con số 177 dặm chiều dài của luỹ. Đây là số liệu mà sử quan triều Nguyễn đã ghi rõ trong Đại Nam nhất thống chí và Đồng Khánh địa dư chí. Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê  chủ Biên; Nxb KHXH. Hà Nội, 1988), một dặm có chiều dài tương đương 444,44m; vị chi tổng chiều dài Trường Luỹ là 78.665,88m, xấp xỉ 79 cây số ngàn (4). Còn theo Từ lâm Hán Việt từ điển (Vĩnh Cao - Nguyễn Phố)  thì 1 dặm = 1800 xích (thưc Trung Quc) = 576 mét; tính ra Trường Luỹ có chiều dài là 101.952m , tương đương 102 km (5). Nếu theo chú giải của nhóm dịch giả - biên khảo bản dịch Đồng Khánh địa dư chí  (Ngô Đức Thọ, Nguyễn văn Nguyên, Philippe Papin, Phan Văn Các, Lê Việt Nga, Dương Thị The ; NXB Thế giới; HN) thì 1 dặm = 720 m, vị chi chiều dài Trường Luỹ  là 127.440 m, tương đương 127 cây số (6). 

III. CÁC HIỆN VẬT KHẢO CỔ HỌC NÓI GÌ?
Báo cáo tháng 1/2011 của EFEO cho biết, trong 2 năm 2009 và 2011 họ đã tiến hành khai quật một số di tích đồn/bảo trên hệ thống Trường Luỹ (Thiên Xuân, Rùm Đồn và đèo Chim Hút – đều thuộc huyện Nghĩa Hành) và thám sát tại di tích luỹ ở thôn Phú Thọ (xã Hành Tín Tây, huyện Nghĩa Hành). “Kết quả cho thấy: Trong các đồn /bảo có khá nhiều hiện vật gốm không men hay đất nung vỡ ra từ các loại hình như vò, nồi, choé, vại… Đây là những vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày của những binh lính đồn trú. Bên cạnh đó các nhà khảo cổ học còn phát hiện nhiều mảnh gốm có men, những loại gốm nầy, qua nghiên cứu chúng là gốm thương mại có xuất xứ từ Quảng Đông, Hồng Kông, Hải Nam (Trung Quốc), từ Hải Dương, Bát Tràng (Bắc Việt Nam). Loại hình gốm nầy chủ yếu là bát, đĩa tráng men, có hoa văn trang trí trên thân. Niên đại chủ yếu từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18. Căn cứ vào hiện vật gốm có niên đại cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 phát hiện tại chân móng của di tích đồn/bảo Đèo Chim Hút, có thể nhận định đồn/bảo nầy có niên đại sớm hơn niên đại xây luỹ theo Sử Biên Niên năm 1919. Cho đến nay, nhận định đã có một số đồn bảo được xây dựng trước, vào khoảng cuối thế kỷ 17 là có cơ sở tin cậy. Những đồ gốm thương mại này cũng cho thấy sự buôn bán khá tấp nập của 2 vùng cao và đồng bằng trên địa bàn Quảng Ngãi trong những thế kỷ 17 – 18.
      Ngoài những đồ gốm, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy trong hố khai quật di tích Thiên Xuân những mảnh vòng trang sức bằng đồng và hạt chuỗi thuỷ tinh của đồng bào H’re xưa. Tư liệu nầy phối hợp với những nghiên cứu về kỹ thuật xếp đá hiện nay của người H’re cho thấy: Việc cộng đồng H’re cùng người Việt tham gia vào việc xây cất các đồn/bảo và luỹ là rất đáng tin cậy.
      Có thể nói rằng mặc dù hiện vật khai quật không nhiều về số lượng chỉ vài chục ngàn mảnh gốm các loại và 2 mảnh vòng, một viên cườm hạt chuỗi nhưng giá trị và thông tin khoa học của chúng lại rất lớn và bổ ích. Chúng giải toả được nhiều mắc mớ trong nghiên cứu cũng như trả lời những câu hỏi khó về niên đại và chủ nhân của di tích.” (7)
      Không cùng hướng suy luận như trên, chúng tôi xin trình bày cách “đọc” các hiện vật mà nhóm EFEO khai quật theo cách của riêng mình và chân thành xin ý kiến của bạn đọc, các nhà nghiên cứu, đặc biệt là của chính những người bạn trong nhóm EFEO.
1) Cần phải tách, ít nhất là di tích đồn/bảo Thiên Xuân (xóm Đá) ra khỏi 2 di tích đã khai quật còn lại, vì ở đây, sau khi vai trò đồn trú và phòng thủ không còn nữa, bảo/đồn Thiên Xuân trở thành một làng/xóm/khu dân cư của người Việt, cho đến năm 1946, khi người dân phải di chuyển đến một nơi cư trú khác, thấp hơn, có địa danh là xóm Vườn. (8) Như vậy, với Thiên Xuân, nhận định:“Kết quả cho thấy: Trong các đồn /bảo có khá nhiều hiện vật gốm không men hay đất nung vỡ ra từ các loại hình như vò, nồi, choé, vại… Đây là những vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày của những binh lính đồn trú” là chưa đủ, vì những vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày tìm thấy còn gồm cả của người dân, thậm chí, rất có thể, còn nhiều hơn của binh lính.
2) Trong báo cáo của EFEO có đoạn: “Căn cứ vào hiện vật gốm có niên đại cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 phát hiện tại chân móng của di tích đồn/bảo Đèo Chim Hút, có thể nhận định đồn/bảo nầy có niên đại sớm hơn niên đại xây luỹ theo Sử Biên Niên năm 1819. Cho đến nay, nhận định đã có một số đồn bảo được xây dựng trước, vào khoảng cuối thế kỷ 17 là có cơ sở tin cậy.” (9) .Chúng tôi cho rằng, cách viết nầy dễ gây ngộ nhận, vì rằng chuyện một số đồn/bảo (trong hệ thống Trường Luỹ) xây dựng trước thời điểm 1819 là chuyện sờ sờ trong biên niên sử nhà Nguyễn, chưa cần đến việc khai quật, hiện vật, nghiên cứu gì thêm. Đây không phải là “nhận định” của ai, vì sử đã viết rõ rồi. Xin nói thêm, sử nhà Nguyễn còn thông tin: nhiều đồn/bảo “đoạn Trường Luỹ” được xây dựng từ thời Bùi Tá Hán trấn nhậm vùng đất nay là Quảng Ngãi, nghĩa là từ thế kỷ XVI.
3) Tìm thấy “2 mảnh vòng, một viên cườm hạt chuỗi” (của người H’re, nhưng tài liệu không nói rõ tìm thấy ở di tích nào trong số 3 di tích đã khai quật), liệu có “phối hợp với những nghiên cứu về kỹ thuật xếp đá hiện nay của người H’re cho thấy: Việc cộng đồng H’re cùng người Việt tham gia vào việc xây cất các đồn/bảo và luỹ là rất đáng tin cậy.”? Chúng tôi cho rằng đây là một nhận định chưa đủ sức thuyết phục. Hai mảnh vòng và một viên cườm hạt chuỗi kia có thể là “chiến lợi phẩm” của binh lính Việt, cũng có thể là của một vài “tù binh” H’re nào đó, thậm chí có thể của Người Việt, mà không hẳn là của những người H’re “cùng người Việt tham gia vào việc xây cất các đồn/bảo và luỹ”. Nói rằng “thậm chí của người Việt” vì cho đến gần đây, ở một số vùng nông thôn người Việt, người ta có tục mua hoặc đổi lấy các vòng đồng, vòng bạc của đồng bào H’re về đeo cho con trẻ để “trừ tà”. Còn về kỹ thuật xếp đá của người H’re và người Việt chúng tôi đã trình bày ở kỳ trước, lần nầy chỉ xin nói thêm: Có quá nhiều công trình có “xếp đá” của người Việt đã được tạo lập trước thời điểm xây dựng Trường Luỹ, nhưng ít nhất, cho đến nay, chúng ta không hề tìm thấy một công trình nào của người H’re xây dựng vào thời gian tương ứng.
4) Viết: “Có thể nói rằng mặc dù hiện vật khai quật không nhiều về số lượng chỉ vài chục ngàn mảnh gốm các loại và 2 mảnh vòng, một viên cườm hạt chuỗi nhưng giá trị và thông tin khoa học của chúng lại rất lớn và bổ ích. Chúng giải toả được nhiều mắc mớ trong nghiên cứu cũng như trả lời những câu hỏi khó về niên đại và chủ nhân của di tích.”, theo chúng tôi là có phần tư biện và làm rối rắm những điều vốn không hề rối rắm. Niên đại xây dựng Trường Luỹ, chỉ cần đọc sử Việt Nam là người ta đã rõ, hơn cả những gì mà nhóm EFEO đi tìm mấy năm qua, vậy khó chỗ nào vậy? Chủ nhân của Trường Luỹ ư? Người Việt chứ còn ai vào. Luỹ dài nầy được đắp trong cuộc qua phân Việt - H’re, không chỉ được chép rành rành trong chính sử, mà còn hiện diện trong thơ, văn của các tác gia đương thời. Khi chưa có nghiên cứu của nhóm EFEO người ta cũng đã biết như vậy rồi. “2 mảnh vòng và một viên hạt cườm hạt chuỗi” ấy giá trị có thể rất lớn, thậm chí vô cùng lớn, trong trường hợp khác, vì chuyện khác, chứ quyết không phải trong câu chuyện về lịch sử và chủ nhân Trường luỹ mà chúng ta đang bàn!

IV. CON ĐƯỜNG CỔ, CON ĐƯỜNG NÀO?
“Bên cạnh đó, Trường Luỹ còn thúc đẩy giao dịch bắc – nam. Chứng cứ khảo cổ, lịch sử và dân tộc học gợi ra khả năng Luỹ được xây dựng dọc theo một con đường cổ (ban đầu là “quan lộ” nối kinh đô và các tỉnh miền Nam): đường cái quan thượng. Ngày nay, cư dân huyện Đức Phổ còn gọi “Trương Luỹ” là “đường cái quan thượng”. Trên thực tế, vết tích con đường cổ hiện vẫn còn ở xã Phổ Châu, huyện Đức Phổ, Ba Động, Ba Thành, Ba Khâm, huyện Ba Tơ. Nghĩa Thắng, huyện Tư Nghĩa, xã Hành Dũng huyện Nghĩa Hành. Và gần như chỗ nào có luỹ chúng tôi đều nhận thấy hiện diện một con đường cổ ngay gần luỹ. Qua một chứng cứ khảo cổ khác, ta lại thấy Trường Luỹ đóng vai trò tuyến đường lớn (chỗ con suối cắt qua thì lát bằng đá. Từ đó, giả thuyết hiện nay cho rằng việc xây dựng Trường Luỹ là nhằm bảo vệ một con đường trước đó. Con đường nầy chính là con đường huyết mạch Bắc – Nam, nó đảm bảo cho việc đi lại, giao thương trên toàn lãnh thổ, nếu bị chia cắt, an ninh quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Qua tài liệu điền dã trong những năm qua, chúng tôi có thể khẳng định một điều: Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, con đường nầy tiếp tục là đường hành quân, vận chuyển lương thực của bộ đội, nó trở thành một phần của con đường Hồ Chí Minh…” (10)
Thực ra, sự hiện diện không phải chỉ một mà nhiều con đường cổ ở miền tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định cũng như nhiều tỉnh duyên hải miền Trung khác là điều không lạ. Sử biên niên nhà cho thấy có không ít cuộc chuyển quân của Tây Sơn và Nguyễn Ánh trong giai đoạn từ 1786 đến cuối cuộc giao tranh của 2 thế lực nầy. Cũng từ các tác phẩm địa chí thời nhà Nguyễn và trước tác của các võ quan đương thời, chúng ta được biết, có chằng chịt những sơn đạo quy mô khác nhau ở miền tây Quảng Ngãi phục vụ cho công cuộc phòng thủ, thu mua sản vật, đi lại giữa các vùng. Quảng Ngãi tỉnh chí (11) giành nhiều trang viết sinh động về các cuộc thao diễn quân sự mỗi năm một lần, vào tháng ba, ở cơ nhất, gồm cả lễ tế cờ, khao quân, dựng lều chợ để người khách trú, người Tam Kỳ (Quảng Nam), Tam Quan (Bình Định) đến mua bán, trao đổi hàng hoá. Tiếp sau kỳ thao diễn là thời gian “đi vãng” của quan Tiểu phủ sứ cùng binh lính, tuỳ tùng kéo dài hàng tháng qua các vùng Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà với cảnh tượng “quân lính kéo đi đầy non, đầy núi”. Dĩ nhiên, không có đường sá thì không thể nào có những hoạt động như vậy.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, thiết lập vương quyền trên phạm vi cả nước, vai trò của những con đường theo tuyến Bắc - Nam ở phía tây Quảng Ngãi đã trở nên khác trước. Tập sách đồ sộ “Hoàng Việt nhất thống địa dư chí” do Thượng thư Bộ Binh Lê Quang Định khởi soạn chỉ 1 năm sau ngày vua Gia Long lên ngôi và kéo dài suốt 3 năm sau đó, mà nội dung chủ yếu được nêu rõ trong Biểu dâng sách là: “Bờ cõi đất đai rộng từ Gia Định mãi đến Lạng Sơn, đường sá gần xa rành mạch từ kinh đô đến nơi biên quận. Chép rõ các hành cung, dịch trạm, gác đền đình tạ, chợ búa bến sông, cầu cống chùa quán, danh thắng xưa nay, vùng dân đông hay ít, hiểm trở của núi khe, nguồn gốc của sông biển, của cải sản vật, phong tục từng nơi, tất cả đều được tóm tắt đầy đủ, không điều gì bừa bộn.” (12) không hề có một dòng nào về cái gọi là con đường “nối kinh đô và các tỉnh miền Nam”.
 Giả thuyết cho rằng “việc xây dựng Trường Luỹ là nhằm bảo vệ một con đường trước đó” là không có hoặc chưa tìm thấy cơ sở khả tín; vì rằng, những người chủ trương xây dựng Đoạn Trường Luỹ và sau đó là Trường Luỹ (nhà Lê Trung hưng, chúa Nguyễn và triều đình Nguyễn) không hề giấu mục đích xây dựng công trình nầy là nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của người H’re từ miền Tây; giữ vững ổn định vùng đất Nam Nghĩa Bình Phú, tạo hành lang vững chắc cho công cuộc Nam tiến (buổi đầu) và tiếp đó là công cuộc kiến thiết một nước Việt nam thống nhất sau một thời gian dài binh hoả triền miên. Thực tế những biến động liên tục gần như cả thế kỷ XIX được ghi lại trong lịch sử, trong sáng tác văn học của các tác gia đương thời (Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Thông…) và cả trong văn học bình dân cho thấy mục đích nầy là không thể bàn cải. Vài câu trích sau đây trong tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh cũng đã hé mở cho chúng ta điều đó:
          “Tây phương không đường tới; Bắc lộ khó nẻo qua;
            Đường Nam phương thấy đó chẳng xa, thì những sợ nhiều quân Đá Vách.”
                                       (Nguyễn Cư Trinh – Truyện Sãi Vãi)
Vậy thì, liệu bên cạnh mục đích công khai, chủ yếu như trên, việc xây dựng Trường Luỹ còn có còn “mục đích ẩn” nào nữa hay không. Phải nói rằng, cho đến khi có việc khảo sát và nghiên cứu của EFEO, chưa có ai và cũng không thấy có bất cứ tài liệu nào nói về vai trò “bảo vệ một con đường trước đó” của Trường Luỹ. Đường sá được xây dựng, mở ra là nhằm phục vụ việc đi lại, giao thông, vận chuyển. Những tác động của đường sá vào phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh cũng từ chức năng giao thông, vận chuyển mà ra. Xây dựng một công trình đồ sộ, tốn nhiều công của, thời gian như Trường Luỹ mà nhằm để bảo vệ một con đường thì chắc chắn con đường đó phải vô cùng quan trọng. Vậy thì, có nghịch lý hay không, khi Trường Luỹ vẫn còn đó, gần như nguyên vẹn, theo cách diễn đạt của EFEO, mà con đường thì chỉ thấy những vết tích mà thôi?
Cũng cần lưu ý rằng, vào thời điểm Trường Luỹ được hình thành, Sơn phòng được thành lập, ở phía đồng bằng, đường thiên lý Bắc Nam đã trở thành con đường bộ huyết mạch, quan trọng bậc nhất của cả nước, với hệ thống trạm quán vận hành khá quy củ. Con đường nầy cũng không hề đối mặt với sự đe doạ nào đáng kể từ phía biển, mãi cho đến nửa sau thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp tìm cách xâm lược đất nước ta.
Chúng tôi cho rằng, mục đích việc xây dựng Trường Luỹ gắn với quan hệ Đông Tây, hơn là quan hệ Bắc Nam như giả thuyết của EFEO. Cũng cần nhớ rằng, Trường Luỹ không phải là ranh giới cuối cùng về phía Tây nằm dưới quyền quản lý thực tế của nhà nước phong kiến Đại Nam. Vượt ra ngoài Trường Luỹ, nhà Nguyễn đã thiết lập được bộ máy quản lý ở những mức độ khác nhau đối với nhiều plây, nóc của các sắc tộc thiểu số, mà rõ nhất là việc xuất hiện các chức vụ “Chánh tổng dịch man”, “Phó tổng dịch man” trong bộ máy quan lại. Theo thời gian, số lượng các làng, tổng ngày càng nhiều hơn, việc trưng dụng nhân lực, thuế khoá cũng ổn định dần, đảm bảo cho sức mạnh của một nhà nước Trung ương tập quyền có lãnh thổ rộng lớn mà ngày nay đại gia đình các dân tộc Việt Nam đang thừa hưởng.

V. TRƯỜNG LUỸ VÀ CÂU CHUYỆN CỦA HÔM NAY:
“Câu chuyện của hôm nay” chính là giá trị của Trường Luỹ, nhìn từ hậu thế. Về điều nầy, các báo cáo của EFEO đã nêu tương đối đầy đủ, cho dù còn có những điểm cần phải bổ sung chứng cứ và lý giải thuyết phục hơn. Cũng là dễ hiểu, vì đối với nhóm EFEO việc nghiên cứu Trường Luỹ đang trong giai đoạn đầu, lại phải chạy đua trước áp lực thời gian, và quan trọng hơn, họ phải xử lý cùng lúc nhiều nan đề khá phức tạp. Từ các nguồn thông tin và nhận định của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, đặc biệt là từ các báo cáo của nhóm EFEO, chúng tôi thử nêu một số giá trị nổi bật của di tích Trường Luỹ như sau:
1) Về quy mô di tích:
 Có thể nhận thấy Trường Luỹ là một di tích có quy mô đáng kể, xét trong không gian lịch sử mà nó được hình thành. Chạy từ biên giới tỉnh Quảng Nam đến phía bắc tỉnh Bình Định, Trường Luỹ quả có một chiều dài đáng kinh ngạc so với các thành luỹ được xây dựng trong lịch sử Việt Nam, kể cả những thành luỹ có ý nghĩa quan trọng về chiến lược như hệ thống Thành Luỹ Tây Đô (do Hồ Quý Ly chỉ huy xây dựng vào thế kỷ XIV), Luỹ Thầy (do Đào Duy Từ chỉ huy xây dựng vào thế kỷ XVII)... Đây cũng là công trình quân sự - phòng thủ có thời gian xây dựng dài nhất Việt Nam, khởi đầu từ thời Bùi Tá Hán trấn nhậm Quảng Ngãi (thế kỷ XVI) cho đến cuối thế kỷ XIX, khi tổ chức Sơn phòng bị triệt bỏ. Nhìn tổng thể, Trường Luỹ là một hệ thống, bao gồm: luỹ (giữ vai trò Trung tâm), các đồn/bảo, sơn đạo, các tụ điểm giao dịch/chợ phiên, các làng người Việt (Kinh), các plây/ tổng của người H’re nằm dọc hai bên luỹ. Quy mô đáng kể của Trường Luỹ còn thể hiện ở độ cao lớn của luỹ (cao nhất đến 4m, đáy chân luỹ rộng nhất đến 6m); sự đa dạng về hình dáng (hình móng ngựa; móng ngựa chồng lên nhau; khối hình thang); tính thích ứng trong sử dụng vật liệu xây dựng và kết cấu công trình, tuỳ thuộc vào địa hình, nguyên vật liệu tại chỗ, yêu cầu phòng thủ…với các kiểu thức: đắp và nện bằng đất (chủ yếu); xếp đá ốp đá bên ngoài cốt đất; xếp toàn bằng đá. Tiện đây chúng tôi xin được lưu ý, “Luỹ” trong “Trường Luỹ”, chữ Hán nghĩa là thành đắp bằng đất (bộ thổ, phồn thể 18 nét, giản thể 9 nét). Khảo sát điền dã cho thấy Tĩnh Man Trường Luỹ chủ yếu được đắp bằng đất, những đoạn ốp đá không nhiều, xếp toàn bằng đá lại càng hãn hữu.
Chúng tôi chỉ sử dụng cụm từ “quy mô đáng kể” mà không phải là “quy mô lớn nhất” như nhiều ý kiến phổ biến hiện nay, bởi vì, một sự xác quyết về quy mô phải đầy đủ các dữ kiện cần thiết để so sánh; hơn nữa, chỉ chủ yếu dựa vào chiều dài mà cho rằng “Trường Luỹ có quy mô lớn nhất Đông Nam Á” là chưa đủ sức thuyết phục. Song, với những gì đang có, Trường Luỹ xứng đáng nhận được sự quan tâm đúng mực của những con người biết quý trọng di sản của tiền nhân, biết lắng nghe câu chuyện thì thầm “sóng lớp phế hưng” trong từng đoạn luỹ lầm lủi gió mưa, từng viên đá trơ gan tuế nguyệt…
2) Về giá trị nghiên cứu:
Ý nghĩa lịch sử của Trường Luỹ là điều rất dễ nhận thấy. Suốt khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX, vùng đất Quảng Ngãi là địa bàn tranh chấp triền miên giữa các thế lực mâu thuẩn nhau về quyền lợi, điều kiện sinh tồn (phong kiến Việt - Chăm, Lê - Mạc, chúa Nguyễn - Tây Sơn, Nguyễn Ánh - Tây Sơn, nhà Nguyễn – các cuộc nổi dậy ở miền Tây). Gắn với các cuộc chiến tranh, các tranh chấp là tên tuổi của nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng (Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Bùi Tá Hán, Nguyễn Cư Trinh, Lê Văn Duyệt, Đỗ Đăng Đệ, Nguyễn Tấn, Nguyễn Thân…) với những hành trạng và vai trò khác nhau trong tiến trình lịch sử dân tộc; đồng thời ít hoặc nhiều có liên quan đến việc hình thành Trường Luỹ. Họ có thể là một bậc minh quân, một khai quốc công thần hay một nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cải, thậm chí là kẻ bị lên án phản đồ, nhưng khi nghiên cứu về quá trình kinh dinh vùng đất Quảng Ngãi hậu thế không thể không nhắc đến họ.
Trong lần điền dã gần đây (tháng 2/2011), chúng tôi đã phát hiện một số di tích tương truyền là mộ và đền thờ Bùi Tá Hán nằm ở khu vực lân cận Trường Luỹ. Đây chắc hẳn là những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu về Trường Luỹ thời kỳ trước nhà Nguyễn.
Về quan hệ giao thương, kinh tế, hẳn chúng ta còn nhớ câu ca dao Nam Trung bộ nổi tiếng: “Ai về nhắn với nậu nguồn/ Mít non gởi xuống,cá chuồn gởi lên”. Vì sao một luỹ dài được xây dựng chạy dọc miền Tây Quảng Ngãi, chia cắt vùng cư trú của người Việt (Kinh) và các dân tộc thiểu số, nhưng quan hệ buôn bán, trao đổi giữa hai vùng vẫn diễn ra thường xuyên, sôi động; thậm chí có thể nói rằng mối quan hệ nầy đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của Đàng Trong và sau đó là vương quốc Đại Nam của nhà Nguyễn? Vì sao những người khai thác tre và dây rừng cung cấp nguyên vật liệu làm guồng xe nước (ở vùng hạ lưu sông Trà Khúc, sông Vệ) hằng năm vẫn đi sâu vào các khu rừng phía tây Trường Luỹ mà không gặp một trở ngại nào từ phía các tộc người bản địa? Các chợ phiên hình thành như thế nào và vai trò của nó ra sao trong quan hệ buôn bán Đông Tây?
Quá trình trao đổi, quan hệ về kinh tế hẳn nhiên dẫn đến sự giao thoa về văn hoá: Cách cày bừa bằng 2 trâu (hoặc bò) của người Việt vùng Nam Trung bộ phải chăng đã học được từ người H’re? Tại sao cây nêu của người H’re lại không giống với cây nêu của các tộc người thiểu số lân cận (Cor, Ka dong) và cả vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, trong khi lại có nhiều nét tương đồng với cây nêu của người Việt? Có hay không mối quan hệ giữa người H’re và người Chăm cổ? Phải chăng tập quán định cư, lập làng quanh các chân đồi thấp, gần các thung lũng có thể trồng lúa nước mà không còn du canh, du cư như hầu hết các tộc người thiểu số miền Tây, sự hình thành tầng lớp “cà rá” giàu có, nhiều quyền lực và uy tín, đã cho thấy xã hội người H’re (trước tháng 8/ 1945) đang trong quá trình tan rã của các công xã thị tộc và bước vào ngưỡng của của xã hội phân chia giai tầng?
Hàng loạt câu hỏi và theo đó là hàng loạt vấn đề đặt ra từ việc tìm hiểu và nghiên cứu Trường Luỹ mà những gì mà nhóm EFEO nêu lên mới chỉ là những gợi ý ban đầu.  
Trường Luỹ ẩn trong nó mang mang chuyện kể, về con người, về núi sông mưa gió, lẫn lộn vui buồn, chập chùng ký ức. Giờ đây, chúng ta lại hy vọng, bằng suy nghĩ và hành động đúng đắn của mình, hậu thế sẽ dựng lên từ Trường Luỹ một huyền thoại mới, rằng những qua phân một thời là câu chuyện mãi mãi lùi vào dĩ vãng...
                                           Bến Đá, tiết Lập Xuân, năm Tân Mão – 2011.
                                                                               LHK
-------------------------------------
(1) Lê Hồng Khánh; Trường Luỹ và việc nghiên cứu Trường Luỹ; tạp chí Sông Trà – tháng 6/2010; trang 117- 118
(2) Nguyễn Tiến Đông và Andrew Hardy; Khảo cổ học Trường Luỹ, 5 năm nghiên cứu; tài liệu tại Hội nghị bàn công tác bảo vệ di tích Trường Luỹ Quảng Ngãi – tháng 1/2011; trang 3.
(3) Lê Hồng Khánh; Trường Luỹ ký; tạp chí Cẩm Thành số 63- 2010; trang 22. Trong bài viết kỳ I chúng tôi đã xếp Quảng Ngãi tỉnh chí vào nhóm tác phẩm chữ Hán, đúng ra tác phảm nầy viết bằng Quốc ngữ, nay xin đính chính và thành thật cáo lỗi cùng bạn đọc.
(4) Hoàng Phê (Chủ Biên); Từ điển tiếng Việt; Nxb KHXH; Hà Nội - 1988, trang 264.
(5) Vĩnh Cao - Nguyễn Phố; Từ lâm Hán Việt từ điển, Nxb Thuận Hóa, Huế. 2001 (tr.1368)
(6) Quốc sử quán triều Nguyễn; Đồng Khánh địa dư chí; Philippe Papin, Phan Văn Các, Lê Việt Nga, Dương Thị The dịch và chú giải; NXB Thế giới HN 2003 tập 1, trang 21.

(7), (9), (10) Nguyễn Tiến Đông và Andrew Hardy; nt ; trang 20 - 21.
(8) Lê Hồng Khánh; Đi tìm xóm Đá; tạp chí Cẩm Thành số 48- 2006; trang 50.
(11) Nguyễn Bá Trác (Chủ trương); Quảng Ngãi tỉnh chí; Nam Phong tạp chí – 1933.
(12) Lê Quang Định; Hoàng Việt nhất thống địa dư chí; Phan Đăng dịch, chú giải và giới thiệu; Nhà XB Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây; 2002; trang 10


Thứ Tư, 3 tháng 7, 2013

LÝ SƠN (CÙ LAO RÉ) THỜI SA HUỲNH VÀ CHAMPA


A. Cụm di tích Sa Huỳnh-Chăm cổ trên đảo Lý Sơn
1. Suối Chình, An Hải, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi. Phân bố dọc theo hai bên bờ suối (Chình), đông nam đảo. Di chỉ rộng khoảng 10.000m2, trên cồn cát rộng. 
Khai quật I năm 2000 (Phạm Thị Ninh, Trịnh Hoàng Hiệp 2000). Phát hiện tầng cư trú cổ và mộ nồi, di tích bếp... di vật có đồ sắt, đồng, gốm , đá, thuỷ tinh, nhuyễn thể. Niên đại trên dưới 2000 năm cách nay. Cư trú xen lẫn mộ táng. Tầng văn hoá có hai lớp. Lớp sớm Sa Huỳnh điển hình, lớp muộn Sa Huỳnh-Chăm. Mộ táng có niên đại Sa Huỳnh điển hình tương đương lớp cư trú sớm (Phạm Thị Ninh, Trịnh Hoàng Hiệp 2000:40).
Khai quật đợt II năm 2005 phát hiện hai lớp văn hoá phát triển liên tục, lớp sớm Sa Huỳnh điển hình và lớp muộn Sa Huỳnh-Chăm. Phát hiện các cụm gốm, mộ đất và mộ nồi.
Do đây là địa điểm được báo cáo có địa tầng chứa hai lớp văn hoá phát triển liên tục từ Sa Huỳnh sang Chăm nên chúng tôi đặc biệt quan tâm khi xem xét tất cả mọi chi tiết liên quan đến di tích và di vật xuất lộ ở đây. Sau khi phân tích những tư liệu khai quật bằng cách so sánh với tư liệu ở những địa điểm Sa Huỳnh và Chăm cổ khác chúng tôi đưa ra một số nhận xét và kết luận sau.
- Vấn đề mộ táng
Mộ khai quật năm 2000
Đáng lưu ý là tất cả 06 cụm mộ nồi ở Suối Chình năm 2000 đều là mộ chôn trẻ em (cải táng), mộ nồi chôn thẳng đứng và úp nhau. Đồ tuỳ táng bằng gốm, trang sức đá và thuỷ tinh (có khuyên tai 3 mấu, nhưng không có khuyên tai hai đầu thú), hiện vật sắt, trang sức bằng vỏ nhuyễn thể và bằng xương cá (hạt chuỗi đốt sống cá này (Phạm Thị Ninh, Trịnh Hoàng Hiệp 2000: hình 35.1-4) rất giống hạt ở Gò Duối và Đình Hoà Diêm (Khánh Hoà). Giữa mộ 4 và 5 có 02 cụm than tro nằm gần sát, có thể là vết tích sưởi ấm. Mộ 2 chôn vào khu vực bếp, mộ 6 chôn trong hố rác bếp..
Tất cả các mộ này đều chôn trong tầng văn hoá II, bên trên không có hiện tượng đào từ lớp văn hoá I xuống. Nhưng trong mộ không có hiện vật công cụ bằng đá và vỏ nhuyễn thể như trong các lớp của tầng văn hoá II. Đồ tuỳ táng chỉ có sắt, thuỷ tinh và gốm. Đồ tuỳ táng trong các mộ nồi này phân bố không đồng đều, mộ 3 không có đồ tuỳ táng, mộ 1 chỉ có 01 nồi gốm nhỏ, mộ 5 và 6 đồ tuỳ táng vừa phải và giàu nhất là mộ 4 có đồ sắt, trang sức bằng nhuyễn thể, đá và thuỷ tinh (Đoàn Ngọc Khôi 2003: bảng 4.1. 117). 

Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao chỉ có mộ trẻ con và tại sao chỉ có ở H.I, có phải do H.I nằm trên đỉnh cồn còn H.II dưới chân cồn nên có sự khác biệt? (hay mộ trẻ con thì mới chôn vào nơi cư trú)? Mộ người lớn ở đâu và niên đại của cư trú và mộ táng ra sao?
Theo những người khai quật mộ táng thuộc giai đoạn sớm của Suối Chình (tức thuộc giai đoạn Sa Huỳnh). Miệng mộ xuất lộ từ lóp II.1 (khoảng -60cm), có mộ ăn vào sinh thổ. So sánh loại hình gốm và một số hiện vật chôn theo, chúng tôi cho rằng những mộ này có niên đại giai đoạn kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh và thuộc vào dạng Nam Sa Huỳnh, truyền thống II.  
Mộ khai quật năm 2005
Mộ đất: Trong các cụm được xác định là mộ như cụm 1 – mộ đất số 1; cụm 5-mộ táng số 3 đều có chung hiện tượng hiện vật phân bố lộn xộn, mảnh gốm, vài hiện vật đá, vỏ nhuyễn thể, ít mảnh xương, rìu đá, mảnh bình hình trứng, gốm Chăm cứng mịn, gốm Hán. Cấu trúc không khác gì so với những cụm gốm còn lại (do vậy chúng tôi băn khoăn không rõ tại sao chúng được những người khai quật xác định là mộ đất). Theo phân tích tư liệu, chúng tôi cho rằng tất cả những cụm 1-11 của hố 1 là hiện tượng vết tích sinh hoạt của người xưa nhưng đã bị phá vỡ làm xáo trộn. Hiện tượng xáo trộn và phá huỷ tầng văn hoá rất nghiêm trọng, trong cụm hiện vật Sa Huỳnh, hiện vật Chăm sớm và thậm chí cả Chăm từ sau thế kỷ 3 nằm chồng chéo lên nhau. Có một khả năng khác đó là: Đây vốn là những ngôi mộ nhưng đã bị phá gần như hoàn toàn. Mộ đất ở đây có nhiều nét giống mộ đất ở Hoà Diêm.
Mộ 1- nằm ở ô a3-4 (cụm gốm 1) có nồi gốm nhỏ (nồi này giống nồi ở khu mộ Hoà Diêm), hiện trạng khi khai quật bị vỡ và bị đất lấp đầy, chúng tôi lưu ý hiện tượng trong báo cáo nồi này ở phía trên có cắm một vài mảnh gốm văn in ô vuông màu vàng xám (Phạm Thị Ninh và nnk 2005: 16). Hiện tượng này cho thấy mộ này đã bị phá vỡ hiện trạng ban đầu và bị đất ở tầng trên lấp vào. Như vậy, niên đại của mộ khó có thể xác định chính xác như người khai quật kết luận “mộ thuộc giai đoạn muộn”, tức lớp văn hoá 1 tức giai đoạn Sa Huỳnh-Chăm. Gốm văn in ô vuông Chăm mô phỏng phong cách Hán găm trong nồi nhỏ kiểu Hoà Diêm là do xáo trộn.
Theo chúng tôi, mộ này có lẽ có niên đại sau công nguyên (khoảng thế kỷ 1 trở đi).
Mộ 3- nằm ở vị trí ô c-d3-4 (cụm gốm 5). Không thấy rõ cấu trúc mộ táng. Báo cáo khai quật mô tả trong mộ có cụm gốm Hán văn in ô vuông bên cạnh gốm Trà Kiệu (không rõ có phải mảnh bình hình trứng không?), được đặt trên 1 vỏ ốc tai tượng khá lớn. Hiện vật khác có cuốc đá, chày nghiền, xương động vật và vỏ ốc. Chúng tôi cho rằng đây không phải là dấu tích mộ táng, đây là vết tích sinh hoạt của cư dân trong nơi cư trú và cũng đã bị phá huỷ, trong báo cáo còn thấy mô tả hiện tượng trũng của một hố đào (Phạm Thị Ninh và nnk 2005: 13).   
Mộ nồi úp nhau: Có 03 cụm mộ nồi
Mộ 2- nằm ở ô d1-2 (cụm gốm 7). Hai đầu mộ có đá kè ở giữa có 01 nồi gốm có nắp đậy, nắp dậy có núm, trong nồi có di cốt trẻ em. Đáng chú ý là nồi táng phong cách Hán trang trí văn in ô vuông màu nhạt ngả xám, độ nung thấp. Theo so sánh, loại gốm này có niên đại xuấtt lộ trong các di tích phải từ cuối thế kỷ 3 trở đi, tức thuộc giai đoạn Chăm cổ. Tục chôn trẻ em trong vò hay nồi phổ biến ở các thời kỳ lịch sử khác nhau. Niên đại của mộ được người khai quật xác định thuộc giai đoạn muộn Sa Huỳnh-Chăm.
Chúng tôi cho rằng nồi dạng này cùng với nắp đậy (Phạm Thị Ninh và nnk 2005:17, ảnh 2) đã hoàn toàn thuộc giai đoạn Chăm cổ, thậm chí không phải giai đoạn sớm mà giai đoạn muộn, tương đương với cuối tầng văn hoá 1 đầu tầng văn hoá 2 của Trà Kiệu, tức khoảng cuối thế kỷ 3,  đầu thế kỷ 4  SCN .
Mộ 4 -nằm gần sát vách Tây, ô a1-2: Hai nồi úp nhau, giống mộ nồi số 2 khai quật Suối Chình năm 2000. Có một số xương răng động vật, đồ cúng tế người chết?  Niên đại giai đoạn sớm – thời kỳ Sa Huỳnh theo người khai quật.
Mộ 5- ô c4. Hai nồi úp nhau, có xương trẻ em bên trong nồi dưới. Niên đại giai đoạn sớm – thời kỳ Sa Huỳnh theo người khai quật.
Theo chúng tôi phần lớn cả mộ đất lẫn mộ nồi có niên đại giai đoạn sớm, tức giai đoạn kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh. Một số ngôi mộ đất không thể xác định rõ ràng về tính chất. Trong số mộ nồi úp nhau cải táng trẻ em có mộ số 2 khai quật năm 2005 đã thuộc giai đoạn Chăm cổ, khoảng từ thế kỷ 3; mộ số 1, mộ đất khai quật năm 2005 có thể có niên đại từ sau Công nguyên. Mộ táng ở đây có một số nét tương đồng với mộ táng Hoà Diêm.
Như vậy, chúng ta cũng không có nhiều tư liệu về sự tiếp nối trong táng thức và táng tục của giai đoạn trước và sau Công nguyên. Mộ táng Suối Chình không phải là mộ Sa Huỳnh điển hình do chỉ là mộ chôn trẻ em. Mộ đất không rõ ràng.
- Vấn đề lớp cư trú
Theo những người khai quật, cư trú có hai giai đoạn phát triển liên tục từ sớm đến muộn, lớp dưới văn hoá Sa Huỳnh điển hình và lớp trên Sa Huỳnh - Chăm cổ.
So sánh Suối Chình với một số địa điểm như Gò Cấm, Trà Kiệu, Hậu Xá I - di chỉ (Quảng Nam), Cổ Luỹ - Phú Thọ (Quảng Ngãi), Suối Mây (Phú Yên) và qua phân tích tình trạng của di tích, loại hình di vật chúng tôi cho rằng ở Suối Chình có thể có hai giai đoạn văn hoá. Đó là
  1. i.                           Giai đoạn sớm (song không sớm quá như nhận định của những người khai quật là thuộc văn hoá Sa Huỳnh cổ điển) khoảng thế kỷ 1 TCN mang đặc trưng Sa Huỳnh địa bàn phía Nam - Truyền thống II và có một số nét tương đồng với cư trú và mộ táng Hoà Diêm và
  2. ii.                         Muộn (từ thế kỷ 1 SCN đến thế kỷ 3,4 CN). Đồ gốm giai đoạn muộn của Suối Chình cư trú có bình hình trứng, gốm Hán điển hình và gốm phong cách Hán, vòi của bình ấm dạng kendi, gạch...
Tuy vậy, xung quanh Suối Chình còn có hai vấn đề chưa rõ ràng, đó là:
i. Vấn đề thứ nhất - Trật tự các lớp và hiện vật. Công cụ đá và đồ đồng, sắt (cả mảnh đồng có hoa văn) đều phân bố ở các lớp từ sớm đến muộn. Ví dụ mảnh đồng có hoa văn (Phạm Thị Ninh và nnk 2005: hình 40.2) tìm thấy tận ở lớp II3. Lục lạc đồng có ở trong mộ và có 01 ở LII2 hố 2. Gạch có lỗ vuông, tròn ở LII.5 trong một cụm số 5 (như vậy niên đại của cụm này ra sao?), 02 bình hình trứng có niên đại phải từ thế kỷ 1 SCN đều được tìm thấy ở HI. LII 3 và 5; 01 mảnh miệng bình hình trứng thấy ở HII, bếp ở ô a1-2, độ sâu 1,3-1,9m so với lớp mặt ( Phạm Thị Ninh, Trịnh Hoàng Hiệp 2000). Như vậy chúng ta cần lưu ý tới khả năng xáo trộn rất lớn và xu thế bảo tồn việc sử dụng công cụ đá (đặc biệt là dụng cụ như hòn kê, bàn mài, chày nghiền) ở di tích này. Do tầng văn hoá bị xáo trộn nghiêm trọng nên kết luận về sự phát triển liên tục về địa tầng và di vật giữa hai giai đoạn Sa Huỳnh và Chăm sớm cần được xem xét lại một cách cẩn trọng hơn và phải so sánh ở bối cảnh rộng hơn.
Vấn đề thứ 2 -  Di vật. Di vật ở nơi cư trú (giai đoạn sớm) có một số nét tương đồng với cư trú Gò Duối - Hoà Diêm, nhưng khi so sánh di vật mộ táng cần lưu ý vì mộ táng Suối Chình rất đặc thù (mộ cải táng trẻ em). Tuy vậy, cũng cần lưu ý về việc xác định những mộ nồi này có phải là mộ cải táng trẻ em hay thực chất là mộ chôn trẻ nhỏ trong vò mà thôi. Nếu cải táng thì khó có tình trạng người khai quật quan sát được tư thế nằm co bó gối như đã miêu tả trong báo cáo.  

          2. Xóm Ốc, An Vĩnh: Thám sát 1996, thám sát 1997, khai quật 1997, thám sát 1999, thám sát 2001. Tổng diện tích 102m2. Di tích phân bố trên diện tích khoảng 10.000m2. Tầng văn hoá dày từ 1.40-1.50cm phát triển liên tục từ sớm đến muộn. Gốm cư trú xen lẫn vỏ nhuyễn thể, có sự đan xen mộ táng nồi, vò và huyệt đất trong cư trú (Đoàn Ngọc Khôi 2003: 32-36).
Vấn đề mộ táng (giai đoạn Sa Huỳnh và Chăm cổ)
Mộ nồi, vò:
Mộ vò số 2 hố thám sát 1 năm 1996: Miệng xuất lộ ở độ sâu 0,75m tính từ miệng hố xuống, (tương đương lớp 4). Vò hình cầu, xương gốm dày, mịn cứng, toàn thân trang trí văn in kỷ hà ô trám. Đồ tuỳ táng có dao sắt, lọ gốm và nồi gốm. Theo người khai quật mộ này có niên đại Sa Huỳnh muộn (Đoàn Ngọc Khôi 2003:53). Tuy nhiên, theo chúng tôi gốm phong cách Hán có niên đại từ sau thế kỷ 2SCN. Mộ này có thể tương đương với mộ nồi số 2 Suối Chình khai quật năm 2005.
Mộ nồi số 5 hố khai quật 1 năm 1997: Miệng xuất lộ ở độ sâu 1m (tương đương lớp 6). Mộ cải táng trẻ em, khả năng từ 3-4 tuổi, đồ tuỳ táng trang sức vỏ nhuyễn thể - ốc tiền và công cụ bằng xương. Theo người khai quật mộ có niên đại văn hoá Sa Huỳnh. Chúng tôi cho rằng, theo độ sâu có lẽ mộ này thuộc giai đoạn kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh.
Như vậy, truyền thống mộ vò, mộ nồi ở đây kéo dài từ giai đoạn Sa Huỳnh sang đến giai đoạn Chăm cổ.
Mộ huyệt đất:
Mộ trong hố thám sát 3, tháng 1 năm 1997. Sâu 1.40m. Hướng bắc chếch đông 200, mặt quay hướng nam. Còn sọ và xương chi. Bên phải hộp sọ có 1 vỏ trai biển, trên ngực trái có vỏ ốc Đụn (Tectus Rochia maximus), cổ đeo chuỗi hạt vỏ ốc tiền, trên bụng có vài nồi gốm nhỏ. Ở vị trí cánh tay phải có 06 viên quặng sắt tròn. Người khai quật xác định đây là người nữ? (Phạm Thị Ninh và Đoàn Ngọc Khôi 1999: 19). Có lẽ do có nhiều đồ trang sức chôn theo, cũng có thể là người nam do có những viên quặng sắt?.
Mộ trong hố khai quật 1997, mộ 7 (97XÔH1M7): Độ sâu từ 100-154cm, hướng bắc-nam lệch tây 30 độ, biên hình chữ nhật. Đáy mộ có lớp cát vàng mỏng và rải gốm, quanh có kè đá, vỏ sò và ốc lớn. Mộ song táng, hai di cốt nằm song song, trên dưới so le nhau gồm người nam (50-60 tuổi), nữ (20-25 tuổi). Xác định nhân chủng Mongoloid. Đồ tuỳ táng có gốm nồi và bát bồng, mũi tên đồng, nhẫn bằng vỏ nhuyễn thể. Những người khai quật cho rằng mộ có niên đại giai đoạn Bình Châu (Tiền Sa Huỳnh) (Phạm Thị Ninh, Đoàn Ngọc Khôi 1999:37). Trong luận án của mình Đoàn Ngọc Khôi lại cho rằng mộ này chôn lan vào sinh thổ, nhưng đồ gốm cho thấy có sự tương đồng với gốm lớp 4,5, biên mộ cũng đã thấy xuất hiện rõ ở lớp 5. Như vậy nếu theo Đoàn Ngọc Khôi, mộ này đã thuộc giai đoạn văn hoá Sa Huỳnh.  Nhìn chung niên đại Xóm Ốc có rất nhiều vấn đề do bị xáo trộn và do cách lý giải theo kiểu tiến hoá đơn tuyến của người khai quật. Có nhiều khả năng mộ đất số 7 này thuộc giai đoạn kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh.
Chúng tôi cho rằng những dấu tích mộ đất của hố khai quật năm 1997 số 1,2,3,4 tương ứng với lớp 3, lớp muộn của Xóm Ốc, từ sau Công nguyên.     
Vấn đề cư trú
Có ba lớp văn hoá diễn biến liên tục theo những người khai quật từ Tiền Sa Huỳnh đến Sa Huỳnh và Sa Huỳnh muộn trong khung niên đại từ khoảng 3000 năm cách ngày nay đến thế kỷ 1 sau Công nguyên ( Phạm Thị Ninh, Đoàn Ngọc Khôi 1999: 38 và Đoàn Ngọc Khôi 2003: 162).
Theo chúng tôi, với sự có mặt của gốm văn in Hán, gốm Chăm kiểu Hán hay phong cách Hán, bình hình trứng, nắp gốm Chăm có núm cầm và kendi gốm Chăm ở các lớp từ độ sâu 60cm trở lên (Phạm Thị Ninh và Đoàn Ngọc Khôi 1999: bảng 1 trang 30), tiền Ngũ Thù Đông Hán thì niên đại kết thúc của Xóm Ốc có thể vào khoảng thế kỷ 3 sau CN. Mộ táng cũng có niên đại kết thúc tương tự. Niên đại này cũng phù hợp với kết quả niên đại C14 của Xóm Ốc.
B. Cơ tầng văn hoá Champa ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
Trong phần phân tích di tích và di vật Xóm Ốc và Suối Chình chúng tôi đã thảo luận về trật tự niên đại của hai địa điểm này, theo đó chúng ta thấy có sự hiện diện của tầng văn hoá Chăm cổ tương đương với lớp dưới cùng và lớp dưới Trà Kiệu. Sự có mặt của loại bình hình trứng ở đây cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa đất liền và hải đảo trong giai đoạn sớm của văn hoá Chăm. Như vậy bình hình trứng với chức năng chuyên biệt của mình dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn (khoảng 1 thế kỷ) nhưng không chỉ khu biệt ở vùng Trà Kiệu mà có không gian phân bố khá rộng.
Dấu tích văn hóa Champa trên đảo Lý Sơn đã được một số nghiên cứu trước đây đề cập qua sự hiện diện của gạch Chăm, tượng bò Nandin, giếng Chăm…
Lớp văn hoá Chăm cổ ở đảo Lý Sơn cho thấy có mối quan hệ nguồn gốc với lớp văn hoá Sa Huỳnh muộn trên đảo. Truyền thống chôn dùng quan tài bằng gốm vẫn được cư dân giai đoạn văn hoá Chăm cổ thực hành (với một số thay đổi). Mộ chum số 1 (ký hiệu 96 X.O. TS1M1) của Xóm Ốc với chum mộ là vò gốm văn in kỷ hà cho thấy sự tiếp biến văn hoá Sa Huỳnh -Hán - Chăm cổ ở những thế kỷ đầu CN. Mộ này cùng với chum quan tài vò gốm hình cầu văn in ô vuông của sưu tập Hậu Xá II (hiện trưng bày ở Bảo tàng Văn hoá Sa Huỳnh Hội An) là những chứng cứ ít ỏi nhưng rất quan trọng về sự tiếp nối văn hoá, đặc biệt trong truyền thống tang lễ giữa Sa Huỳnh và giai đoạn sau Sa Huỳnh. Một điều đáng lưu ý là có thể do tính chất biển đảo nên sự tồn tại lâu hơn của truyền thống mộ chum ở đây là biểu hiện của hiện tượng “đóng băngvăn hoá hay hoá thạch văn hoá”
Bình hình trứng và loại nồi gốm thô thân ngắn phình rộng và cổ thấp cho thấy niên đại giữa hay cuối thế kỷ 1 CN là niên đại khởi đầu cho lớp văn hoá Chăm cổ ở Đảo Lý Sơn. Bình, kendi... giúp định niên đại kết thúc của lớp văn hoá này là vào khoảng thế kỷ 3, 4 CN. Với những thông tin về việc phát hiện những mảnh gốm Đường và gốm Islam ở trên đảo có lẽ ở đây cũng có dạng di tích bến thế kỷ 9-10 như ở Cù Lao Chàm.
Tư liệu đảo Lý Sơn cung cấp nhiều thông tin về sự xuất hiện của loại gốm với những loại hình bình, vò trang trí văn in ô vuông hay ô trám độ nung vừa, vết in nông, chất liệu thường hơi thô đến mịn màu đỏ gạch non, vàng nhạt, ghi xám, đôi khi xương gốm có lõi xám. Trong các báo cáo khai quật và bài nghiên cứu gốm này thường được gọi dưới những cái tên như gốm phong cách Hán, gốm kiểu Hán, gốm à la Han.
Sự xuất hiện và tồn tại của gốm văn in này ở nhiều địa điểm miền Trung Việt Nam thiên niên kỷ I đầu CN chắc chắn là kết quả của sự tiếp biến văn hoá nội, ngoại sinh, giữa nghề gốm bản địa và những kỹ thuật làm gốm từ bên ngoài mà trước hết là kỹ thuật làm gốm thời Hán (Trung Hoa). Đây cũng là xu thế không chỉ riêng ở miền Trung mà cả ở miền Bắc Việt Nam và thậm chí cả ở miền Nam Việt Nam. Trong một số địa điểm văn hoá Óc Eo sớm, vò gốm văn in ô vuông kiểu Hán được tìm thấy bên cạnh gốm thô và gốm Óc Eo.
Ở các địa điểm đã biết như Trà Kiệu, Hậu Xá I-di chỉ, Đồng Nà... gốm văn in kiểu Hán giống loại tìm thấy ở Suối Chình, Xóm Ốc thường được tìm thấy bên cạnh gốm Chăm thô và mịn khác. Tại Trà Kiệu, gốm văn in kiểu Hán chất liệu mịn, độ nung vừa xuất hiện muộn hơn gốm Hán điển hình cứng gần như sành văn in ô trám, trám lồng, ô vuông sắc nét và bình hình trứng, ngói in dấu vải, những loại hình tiêu biểu của lớp văn hoá dưới cùng. Gốm văn in kiểu Hán phổ biến ở lớp văn hoá trên có niên đại từ cuối thế kỷ 2 trở đi. Vò gốm Hán điển hình ở Hậu Xá I - di chỉ và những mảnh vò sành văn in Hán điển hình ở Gò Cấm đều nằm trong lớp văn hoá dưới cùng, sát sinh thổ, niên đại cuối thế kỷ 1 CN[1]. Từ những tư liệu trên, chúng tôi cho rằng việc sản xuất và sử dụng gốm văn in kiểu Hán ở miền Trung Việt Nam là kết quả của việc bản địa hoá gốm Hán văn in điển hình. Gốm văn in kiểu Hán tồn tại đồng thời hay muộn hơn chút ít so với gốm Hán văn in điển hình, chứ khó có thể sớm hơn gốm Hán điển hình như nhận định của Phạm Thị Ninh (Phạm Thị Ninh và Đoàn Ngọc Khôi 1999: 35). 
Như vậy, đáng lưu ý là ở đảo Lý Sơn có giai đoạn văn hoá Sa Huỳnh kết thúc (dạng Nam Sa Huỳnh và thuộc truyền thống II) và giai đoạn tương đương lớp sớm nhất và lớp sớm thuộc tầng văn hoá dưới của Trà Kiệu (tức giai đoạn Chăm sớm và Champa từ thế kỷ 1 đến 4,5). Do tính chất hải đảo, sự diễn tiến văn hoá ở đây bảo lưu nhiều yếu tố văn hoá cổ, điển hình là một số mảnh gốm Tiền Sa Huỳnh (hiện tượng đóng băng  hay hoá thạch văn hoá).
Cơ tầng Chăm cổ và Champa đảo Lý Sơn cùng với những phát hiện trong đất liền minh chứng vai trò quan trọng của sông Trà Khúc, duyên hải và đảo ven bờ Quảng Ngãi trong quá trình hình thành những trung tâm chính trị - kinh tế đầu Công nguyên. Những phát hiện ở đảo Lý Sơn còn cho thấy sự phát triển văn hoá liền mạch từ Sơ sử sang Lịch sử sớm. 

Trích từ ĐTNCKH cấp ĐHQG
 “Nghiên cứu quá trình chuyển biến từ Sơ sử sang lịch sử ở miền Trung Trung bộ và Nam Trung bộ Việt Nam.                                                          Mã số: QGTĐ. 06.07

Chủ trì Lâm Thị Mỹ Dung



[1] Trong tất cả các khu mộ địa văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn cực muộn ở lưu vực sông Thu Bồn và sông Trà Khúc (Quảng Nam và Quảng Ngãi) nhiều mộ có đồ tuỳ táng có nguồn gốc Tây Hán và Đông Hán sơ kỳ như  gương, bát, ấm, đĩa, lục lạc, chuông, tiền ... Nhưng chưa có trường hợp nào tìm thấy  vò gốm Hán văn in  điển hình trong mộ chum hay mộ đất văn hoá Sa Huỳnh. Như vậy kỹ thuật làm gốm Trung Hoa và sản phẩm gốm Trung Hoa chỉ được đưa vào miền Trung Việt Nam từ giai đoạn quận Nhật Nam mà thôi.