Michael
Vickery
Người dịch: Hà Hữu Nga
Phù
Nam – Tên gọi và Kinh đô
Quan điểm truyền thống và không bị thách thức
nghiêm trọng cho rằng fu nan/*b'ḽu-nậm là một cố gắng của người Trung Quốc trong việc
ghi âm từ “núi” vnaṃ/bnaṃ trong ngôn
ngữ Khmer cổ. Cách lý giải này đã ảnh hưởng đến việc tìm kiếm, thảo luận về vị
trí của kinh đô, các tước vị của nhà vua (vua núi), và đã dẫn đến việc tiếng Khmer hiện
đại sáng tạo ra cái tên ānācakr
bhnam, “vương quốc núi”, một cái tên hàm ý một vùng rộng lớn hơn, mà hầu hết
các sử gia Cambodia có thể chấp nhận.
Một vấn đề trong việc khôi phục lại một cái
tên Khmer là ở chỗ hầu hết những cái tên có chữ nan/nam trong các văn bản Trung Quốc cổ về Đông Nam Á mà chữ này được
hiểu theo nghĩa đen là “phương nam” và những cái tên đều mang đặc điểm địa lý. Các
ví dụ tiêu biểu là 南越 Nam Việt, 南海 Nam
Hải, 安南 An Nam, 日南 Nhật
Nam. Vậy thì tại sao lại không giải thích 扶南 Phù Nam tương tự là 扶 phù + 南 nam? Aymonier
đã làm như vậy và gợi ý là “phương nam được bảo hộ”. Pelliot đồng ý có thể là
như vậy, nhưng có ý coi 扶南 Phù
Nam là hai từ phiên âm, vì trong một số văn bản chữ Hán nó được viết vần bằng
hai chữ khác nhau cho âm tiết thứ nhất, một là chữ fu và chữ khác là pa.
[108]
Như đã lưu ý ở trên, trong giới học thuật nghiêm
túc, có hai giả thuyết đề cập đến vị trí của kinh đô Phù Nam, giả thuyết đầu
tiên là Angkor Borei của Aymonier và Pelliot, còn giả thuyết thứ hai là Ba
Phnom của Coedès, mà mãi gần đây khi có các công trình khai quật Angkor Borei
nhưng không hề phát hiện được các di tích nào như thế thì giả thuyết này mới
buộc phải thay đổi.
Vấn đề là ở chỗ, việc xem xét loại toàn bộ các
quan điểm trong một số công trình của Coedès và những người khác mà chỉ có các
chuyên gia mới thực hiện được sẽ là một công việc rất hữu ích. Sự đồng thuận của
Aymonier-Pelliot về Angkor Borei với tư cách là di chỉ kinh đô Phù Nam đứng vững
mãi cho đến năm 1928, khi Coedès, thảo luận về các phả hệ của các vua Angkor
nào đó (sau thế kỷ IX), đã cho rằng thủ đô của Phù Nam là ở Ba Phnom, chứ không
phải là Angkor Borei. [109]
Bình luận về kết luận của Aymonier, được
Pelliot ủng hộ, cho rằng một bi ký ở Battambang đã chứng tỏ rằng Vyādhapura [व्याधपुर* Vyādhapura 獵人城 * Liệp
nhân thành, Đô thành thợ săn], tin
là cái tên chữ Phạn của Kinh đô Phù Nam gần với Angkor Borei, Coedès cho rằng
Aymonier, “khi đọc tên của một quan chức cấp tỉnh là Loñ Vrai Krapās Vyādhapura...và từ đó mà kết luận rằng Vyādhapura nằm
ở tỉnh Prei Krebas hiện đại, và ông đã đồng nhất nó với Angkor Borei...là di chỉ
đã sản sinh ra các tác phẩm điêu khắc thuộc một phong cách rất cổ”. [110] Nhưng
theo Coedès, “Trong bi ký Khmer, việc chỉ định cho cùng một vị trí bằng hai cái
tên đặt bên cạnh nhau [có nghĩa là hai địa danh vrai krapās và vyādhapura], thì
không đúng với thông lệ, còn về phần tôi, thì tôi thiên về khả năng dịch nhân vật
có tên là Loň Vrai Krapās Vyādhapura là
'Loñ của xứ Vrai Krapās và của thành Vyādhapura', hoặc thậm chí là 'Loñ của xứ
Vrai Krapās ở (lãnh thổ) Vyādhapura'".
Coedès chắc chắn đã đúng trong việc sửa đổi
cách dịch của Aymonier, cho dù không phải vì lý do là ông đã viện dẫn bằng chứng,
và hai lựa chọn mà ông đưa ra là hợp lý hơn, vì tước vị loñ đứng trước một địa danh đã xác định rõ là vị loñ ấy đã có một chức năng hành chính
nào đó ở khu vực ấy, và tước vị loñ
không đủ cao cho người có tước vị đó có những trách nhiệm cả ở vrai krapās lẫn
vyādhapura nếu đó là hai nơi khác nhau. [111] Tuy nhiên Vrai Krapās ở Vyādhapura
không nhất thiết phải chuyển Vyàdhapura khỏi Angkor Borei.
Trong công bố của ông về các bi ký Bantãy Prãv
(К. 220-К. 222), Coedès vẫn kiên định: “Người ta biết rằng đoạn này [chữ
Khmer, dòng 18, tr.62 "loñ vrai krapâs vyādhapura" được dịch là “Loñ
Vrai Krapās ('rừng cây bông'), của Vyādhapura"] khiến cho Aymonier
(Cambodge I, pp. 197, 201) đồng nhất Vyādhapura với Prei Krabas thuộc tỉnh Tà Kèv
hiện đại...Trong bất kỳ một trường hợp nào cũng không thể có mối quan hệ hành
chính hoặc địa lý giữa hai cái tên này, còn Vrai Krapās thì chỉ đơn giản là tên
riêng của vị loñ ở đó là thôi. Ngược
lại với những cái tên theo các tước vị khloň
vala và khloň viṣaya..., những
cái tên theo sau việc chỉ định tước vị loñ
thì là những tên riêng: vậy là trong bi ký có trước (1.11) thì hai vị loñ khác có nguồn gốc Vyādhapura đều có
các tên riêng là Ňaṃ Thmur và Jeṇ Khter”. [112]
“Tấm bi ký có trước” mà Coedès gọi là K. 221,
ibid., pp. 54-61, ở dòng 11 (chữ Khmer, tr.58 viết “Ioñ
ñaṃ thmur nu Ioñ jeṇ khter anak vyādhapura", dịch, tr. 59, là “Loñ
Ňam Thmur và Loñ Jen Khter, các nhân vật của Vyādhapura'). Các khảo sát của Coedès không hoàn toàn
thích hợp. Việc rút ra các kết luận về những cái tên riêng hoặc các tước vị của
một cá nhân [loñ tự thân nó là một tước
vị về cấp bậc hoặc vị thế] trên cơ sở những cái tên về các thực thể địa lý/hành
chính (sruk, srok) không mang tính chính thống tiên thiên. Ở mức độ giải thích
của Coedès cho rằng những cái tên loñ
thường là tên người, thì đó là đúng. Nhưng những cái tên đó gần như luôn luôn
là một từ đơn, có tính dạng thức, so với các ngữ cảnh khác, thì hầu như chắc chắn
đó là một tên người. Chẳng hạn trong bi ký K.222, dòng 10, loñ gno và dòng 19 loñ pvār.
Ví dụ, trong các bi ký Bantãy Prãv, К. 222, dòng 2, "Ioñ ayak nāgapura", trong đó chữ cuối cùng chắc chắn
là tên địa danh, còn Coedès thì dịch ở trang 62 là “Loñ Ayak của Nāgapura”. Tuy nhiên chữ “ayak” không chỉ để thể hiện
tên riêng, không phải là một địa danh, theo các ngữ cảnh khác (chẳng hạn váp ayak [của] chdiṅ jrau, ở dòng 13 của bi ký К. 222, trong
đó chdiṅ jrau, “sông sâu” hiện vẫn là
một địa danh, nhưng ở đoạn sau của chính bi ký đó chúng ta thấy "Ioñ ayak mān saṃvandhi nu kaṃsteṅ",
được Coedès dịch là “Loñ Ayak,
người liên quan đến gia đình Kaṃsteṅ".
Ba cái tên dẫn ra ở trên từ bi ký K. 221 và K.
222 là rất bất bình thường trong văn tập bi ký. Một cái tên tương tự ở bi ký
K.221, dòng 13, là loñ kuti ruṅ, được
Coedès giải thích ở tr. 60 là "Loñ
Kuti của Ruṅ", có nghĩa là Loñ (tước vị), tên riêng Kuti, của Ruṅ (địa danh). Nhưng trong trường hợp này có một bằng chứng khác trong
một bi ký khác ở miền bắc, K.380/1037 (Preah
Vihear) có tên là sruk kuti ruṅ, trong
đó kuti ruṅ không phải là một tên người,
mà bản thân nó là một địa danh, tên của một srok [làng].
Ví dụ này ủng hộ cho cách giải thích của Aymonier về vị loñ ở Vyādhapura. Một
ví dụ tương tự khác của bi ký Bantãy Prãv
là loñ stuk antek, “vị loñ ao [stuk] rùa [antek]
[113].
Các ngữ cảnh đầy đủ trong hầu hết các trường hợp,
cho phép ta phân biệt giữa các tên riêng và tên hành chính/địa danh, và sẽ an
toàn khi nói rằng vrai krapās có thể
không phải là tên riêng của một vị loñ. Còn về ñam thmur và jeṇ khter,
thì cái tên thứ hai, tùy thuộc vào cách hiểu chữ khter, vẫn chưa được biết, có lẽ cần được giải thích như là một địa
danh ở Vyādhapura, còn cái tên đầu tiên lại tùy thuộc vào cách hiểu thực sự về ñam [thmur
là một giống bò], cũng là một địa phương hoặc một chức năng của loñ.
Vậy là chỉ riêng cách dịch mới của Coedès thì
vẫn không đủ để loại bỏ Vyādhapura khỏi Angkor Borei, vì Vyādhapura thời đó có
thể vẫn còn là một thực thể rộng lớn hơn với trung tâm của nó là Angkor Borei,
và bao gồm cả Vrai Krapās. Như Coedès đã lưu ý “Việc đồng nhất Vyādhapura với một
địa phương nhất định ... cần phải dựa vào một văn bản có nguồn gốc từ địa
phương đó và chỉ định rõ cái tên Vyādhapura”. Và ông thêm “Có văn bản ấy: đó
chính là một bi ký ở Vat Cakret, tỉnh Bà Phnoṃ, được viết vào thế kỷ X” [114].
Đồ cung tiến hoàng gia được khắc trên bi ký bằng chữ Phạn này là
thuộc về [अद्रिव्याधपुरईश*] adrivyādhapureṡa, "thần
Çiva [Īṡa] trên núi [adri] của Vyādhapura", đó chắc chắn phải là núi Ba
Phnom. Vậy là vị trí Vyādhapura phải được tìm kiếm ở chân núi này. Tuy nhiên, Coedès
tỏ ra rất thận trọng khi nói rằng cần phải đợi đến khi phát hiện ra các từ
Khmer hoặc Phạn có nghĩa tương đương với Đặc Mục, kinh đô cổ Phù Nam, và việc đồng
nhất thành Na Phú Na, phía nam Phù Nam, và các vua Phù Nam buộc phải chạy tỵ nạn
về đó trong cuộc xâm lăng của Chân Lạp. Sau đó ông cũng không hề gợi ý rằng đô
thành xa về phương nam ấy có thể không phải là Angkor Borei.
Rất đáng chú ý là Coedès thêm rằng “Điều đó
không hề mâu thuẫn với bi ký Bantãy Prãv.
Nếu Vrai Krapās thực sự tương hợp với Prei Krebās, còn Ba Phnom thì chỉ bị ngăn cách
Prei Krebās bởi con sông Mê Kông, và rất có thể trong số các địa phương thuộc vùng đó còn
bao gồm cả Angkor Borei”. Điều đó còn đúng chừng nào chúng ta chưa biết gì
thêm, nhưng không được quên rằng tấm bi ký đang được nói đến có niên đại thế kỷ
5-6 sau thời kỳ hưng thịnh nhất của Phù Nam, khi các địa phương và quy mô của
các đơn vị hành chính có thể đã thay đổi. [115]
Sau đó Coedès, để nỗ lực củng cố quan điểm của
ông, lại đã thực sự làm cho nó suy yếu đi. Ông viết “tên núi Ba Phnom là một
tên cổ, và đã được làm chứng trong thế kỷ X dưới dạng Vraḥ Vnaṃ trong một bi ký phát hiện được tại Phum Mien, cách đó khoảng
50 km về phía bắc...Chắc chắn là ngọn “núi thiêng” này là nơi mà bi ký Vat Cakret
xác định bằng cái tên adri...”. Liên
quan đến vấn đề này, sẽ là khá liều lĩnh khi khăng khăng rằng một tấm bi ký phải
thuộc về một vị trí cách xa 50 km; và sau này khi Coedès nghiên cứu về tấm bi
ký đang được đề cập đến ông đã phát hiện ra rằng cụm từ vraḥ vnaṃ không hề là một ngọn núi, mà là một dinh thự, “một ngọn
tháp [vraḥ vnaṃ] bằng đá ong. [116]
Việc xem xét lại của Coedès về sự đồng thuận tồn
tại cho đến tận lúc đó đã dẫn đến một quan niệm đặc biệt nào đó của những người
khác. Vì vậy Mauger, người hướng dẫn việc phục dựng Asram Moha Rosei, một ngôi
đền nhỏ có lẽ thuộc giai đoạn Phù Nam trên sườn đồi Phnom Da, một ngọn đồi gần Angkor
Borei, đã cho rằng Angkor Borei là “một ngôi thành vững chắc đã từng được coi
là đồng nhất với Vyādhapura, cho đến tận công trình nghiên cứu bi ký mới đây của
ông Coedès" trong Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient 1928. [117]
Một năm sau Mauger đã mở rộng vấn đề này bằng cách nói rằng sau khi Mahendravarman
chinh phục Vyādhapura – Ba Phnom, thì thủ đô của Phù Nam đã chuyển về [那弗那城*] Na Phất Na
(“vẫn chưa được xác định”), và [ईशानवर्मन्*] Īṡānavarman đã hoàn thành cuộc chinh phục Phù
Nam năm 627. “Và, trong thời gian đó có một ngôi thành có tường bao lớn...ở
Angkor Borei,...như đã thể hiện trong [bi ký K.600] ...được phát hiện trong năm
vừa qua”. [118]
Cần phải lưu ý rằng cho dù sự tồn tại một
“ngôi thành lớn có tường bao” ở Angkor Borei không có gì phải nghi ngờ, và đã
được thừa nhận từ thời Aymonier và Pelliot, nhưng bi ký K. 600 vẫn không chứng tỏ điều đó. Bi ký cổ nhất
(niên đại 611) bằng tiếng Khmer được phát hiện cho đến ngày nay ấy không hề nói
gì về ngôi thành và cũng không ghi tên của một vị vua nào. Nó ghi lại những
quyên cúng về sức lao động, đất đai, gia súc của hai quan chức vùng, một poñ có tên là Uy, và một mratāñ tên là Antār. Vì vậy mà không có bằng chứng về
vị thế của Angkor Borei trong thời gian đó, cũng không có bằng chứng hỗ trợ hay
phản bác về mức độ bao trùm của quyền lực một vị vua, cũng như không có bằng chứng
ủng hộ hay phản bác về việc vùng này có thuộc về chính thể được coi là “Phù
Nam” hay “Chân Lạp”. Cái mà nó chứng minh, và đó là điều quan trọng, chính là ở
chỗ ngôn ngữ của vùng này chắc chắn là một phần của Phù Nam, vào đầu thế kỷ
VII, trước niên đại mà sử liệu Trung Quốc cung cấp về cuộc chinh phục cuối cùng
của Chân Lạp đối với Phù Nam, chính là tiếng Khmer. Vì vậy, một thành cổ, đã được
thừa nhận dựa vào các hiện vật trên mặt đất, trở thành một điều gây bối rối, được
đồng nhất không phải với thành phố chính của Phù Nam, cũng không phải với thành
phố vẫn được hiểu là các thủ lĩnh Phù Nam lẩn trốn khi bị Chân Lạp tấn công.
Coedès chỉ nắm bắt được vấn đề này vào những
năm 1940. Bắt đầu với “di chỉ Na Phú Na vẫn còn bí ẩn”, ông đã đọc bi ký K.49,
có niên đại 664, trong thời Jayavarman I [जयावर्मन्*], và được phát hiện gần Ba Phnom. Bi ký
nói về một nhóm thành viên hoàng gia đã được đưa đến đó bởi vị sadhu [साधु* bậc thánh, hiền nhân] sống ở Naravaranagara [नरवरनगर* naravaranagara,
優秀人城 Ưu tú nhân thành*], vì đó là cội
nguồn của một nhóm hoàng gia, nên nó phải là kinh đô của Jayavarman I, và cái
tên đó rất khớp, hệt như cái tên navanagara [नवनगर*新城* Tân Thành] không được chứng thực của Pelliot ăn khớp với các chữ phiên âm Na Phất Na [那弗那城*] trong
tiếng Hán vậy. Do đó kinh đô của Jayavarman I “có lẽ ở Angkor Borei, một di chỉ
khảo cổ học rất quan trọng, mà ở gần đó đã phát hiện được vài bi ký [Jayavarman
I]”, và là nơi mà có lẽ ông đã xây dựng kinh đô của mình sau triều đại [ईशानवर्मन्*] Īṡānavarman,
và kinh đô của vị vua này thì ở Sambor Prei Kuk thuộc tỉnh Kompong Thorn ở miền
trung của đất nước [119].
Tuy nhiên Claude Jacques đã nghi ngờ cách dịch
và giải thích của Coedès khi cho rằng Naravaranagara ở gần di chỉ của tấm bi
ký, chỉ khoảng 20 km về phía nam Ba Phnom, khi vẫn không giải thích về Angkor
Borei [120].
Paul Wheatley vẫn tiếp tục lẫn lộn. Không vượt
khỏi bài viết năm 1928 của Coedès, ông vẫn giữ quan niệm sai lầm cho rằng vraḥ vnaṃ thuộc về một ngọn núi thiêng,
và đã dâng hiến một bài viết để thể hiện rằng cái tên của ngọn núi thiêng đó được
ghi bằng các âm tiếng Hán vào thế kỷ V là Mo-tan
[Muâ-tậm cổ, thể hiện cách phát âm
/ma-tam/] là Mahendraparvata trong phiên bản tiếng Tamil là Mayentiram. [121]
Tuy nhiên sau khi giải thích loanh quanh về các nguồn ấy, điều hay nhất mà Wheatley
có thể làm cho tương hợp /ma-tam/ = Mayentiram chính là “cái điều mà hình thái Muâ-tâm
có khuynh hướng chuyển tải không chỉ cái tên Mayentiram, mà còn cả ý nghĩa của
[vị trí mà ở đó] Ma[hesvara] vẫn còn rớt lại”. Nói cách khác, chỉ có âm tiết đầu
tiên của cái tên chữ Hán là tương hợp với âm tiết đầu của cái tên chữ Ấn Độ - vẫn
không đủ sức thuyết phục; và chúng ta có thể gạt bỏ lý thuyết Tamil của Wheatley,
ngay cả khi các vấn đề khác trong lập luận của ông liên quan đến các luận thuyết
Śivaitic, có thể có một số công lao nào đó.
Hơn nữa, Wheatley còn công nhận rằng ngọn núi
thiêng của ông cũng chỉ có thể ăn khớp với địa lý Angkor Borei và Phnom Da là
khu vực địa lý của Ba Phnom. [122] Độ cao tối thiểu của ngọn đồi gần Angkor
Borei là không tương hợp. Như Wheatley đã nhận xét một cách thích đáng khi cho
rằng Ba Phnom là kinh đô của Phù Nam, ở vùng hạ lưu sông Mê Kông thì bất cứ ngọn
đồi nào cũng được gọi là “núi”. Cần lưu ý rằng trên bản đồ tự nhiên của
Cambodia của Boisselier 1966, thì cả ngọn đồi ở Angkor Borei và ngọn đồi ở Ba
Phnom là quá thấp không cần đánh dấu, và hình dạng của nó là đất bằng.
Rốt cuộc thì Coedès tin rằng ông đã thành công
trong việc phát hiện ra những tương đồng giữa chữ Khmer và chữ Phạn của cái tên
Đặc Mục, và vì vậy mà đã giải quyết được vấn đề về kinh đô Phù Nam. Các sử liệu
Trung Quốc không đưa ra được một cái tên cho kinh đô Phù Nam cho đến tận lúc kết
thúc, khi họ nói nó được gọi là T'e-mu/T'ö-mou/*d'ǝk-miuk, [特牧城* T’e-mu Đặc Mục thành], nhưng khoảng cách tính từ biển theo sử liệu
Trung Quốc là 500 lí, nếu hiểu theo nghĩa đen là 200 km, lại không hề ăn khớp với
cả Angkor Borei lẫn Ba Phnom. [123] Coedès kết luận rằng người Trung Quốc đã
phiên âm một từ Khmer dmāk hoặc dalmak/dalmāk thực ra có nghĩa là “thợ
săn”, tương đương với từ Khmer hiện đại /tromeak/ 'mahout', có lẽ là từ Khmer
được dịch từ vyādha trong cái tên chữ
Phạn vyādhapura mà Coedès tin là kinh
đô của Phù Nam và nằm ở Ba Phnom. Cái tên vyādhapura
được phát hiện vài lần trong các bi ký thuộc giai đoạn Angkor là tên của một
trong ba vương quốc cổ mà các vua Angkor đầu tiên khẳng định là hậu duệ, và được
Coedès cho là có nghĩa Phù Nam. Có thể có ích khi tóm tắt lập luận của Coedès
trong đó tối thiểu có ba điểm yếu. [124]
Trước hết, nếu các từ Khmer dmāk hoặc dalmak/dalmāk thực sự có nghĩa là “thợ săn”, thì nghĩa của nó là
“người bắt sống thú bằng dây thòng lọng” hoặc “người bắt sống thú bằng bẫy”, chẳng
hạn như voi, trong khi tiếng Phạn vyādha có
nghĩa là đâm bằng một vật sắc. Thứ hai, cho đến cuối thế kỷ IX, không có bằng
chứng cho các từ dalmak/dalmāk và
trong bi ký thế kỷ XI (K.158) mà Coedès khẳng định, lại không hề có dấu hiệu
nào về nghề đi săn chuyên đến mức có tên gọi riêng; và thứ ba, nơi mà dalmak xuất hiện nhiều lần, trong các bi
ký đã bị bỏ quên lâu ngày của Roluos, bao gồm các nhóm người lớn, đàn ông, phụ
nữ và trẻ em, và điều đó cũng không thể xác định được các chức năng của họ. Tối
thiểu là không hề có bất cứ mối liên hệ rõ ràng nào với việc săn voi. [125]
Ngữ âm cổ của từ *d'ǝk-miuk, mà người Trung Quốc cho là tên gọi của kinh đô Phù Nam
cho thấy rằng âm tiết thứ nhất là từ Mon-Khmer để gọi “nước” /dik, dek, dak/
(Mod. Khmer /tǝk/), một từ thường thấy trong các tên địa danh Cambodia. Tuy
nhiên khó mà đưa ra được một cách giải thích thuyết phục về từ *miuk bằng một cái tên gắn liền với “nước”,
và việc suy diễn thêm về từ *d'ǝk-miuk
có nghĩa gì thì hãy còn hấp tấp [126].
Còn về Vyādhapura thì mặc dù có các bi ký thế
kỷ X, dường như gắn kết nó với cả Angkor Borei và Ba Phnom, thì cái tên đó chỉ
được phát hiện một lần trong bi ký tiền Angkor, K.109 được định niên đại là năm
655, nằm gần Banteay Prei Nokor ở huyện Thbaung Khmum, tỉnh Kompong Cham, về
phía đông của cả Ba Phnom hoặc Angkor Borei. Trong các nghiên cứu trước đây,
tôi đã cho rằng tầm quan trọng của Vyādhapura trong các bi ký Angkor là vì nó
chính là quê hương của Jayavarman II, và nó không có mối quan hệ gì với các di
chỉ tiền Angkor Ba Phnom, Angkor Borei, hoặc Funan. Việc sử dụng Vyādhapura gợi
ý rằng sau này nó đã trở thành một tỉnh rộng lớn bao gồm cả Angkor Borei và Ba
Phnom, có lẽ cũng như địa phương gốc của nó. [127]
Đối với các sử gia, lựa chọn cuối cùng giữa Ba
Phnom và Angkor Borei, hoặc có lẽ rốt cục lại, một vị trí nào đó khác sẽ phải dựa
vào khảo cổ học, và hiện nay các di tích ở Angkor Borei được coi là vị trí ưu
tiên. Tuy nhiên có lẽ chúng ta không bao giờ có thể khẳng định được cái tên cổ
của di chỉ đó cũng như cái tên *d'ǝk-miuk
trong tiếng Hán có nghĩa gì. Hoàn toàn có thể là trong sự tồn tại như người
Trung Quốc đã biết thì trung tâm quyền lực của Phù Nam đã thay đổi, thậm chí
nhiều hơn một lần, như đã được giả thuyết cho vùng biển Đông Nam Á khác, đã được
biết rõ là [श्रीविजय*] Srïvijaya, và giờ đây nói chung đã được các chuyên gia chấp nhận.
[128]
Khi Pelliot thảo luận về vị trí kinh đô ông ước
lượng nó cách cửa sông Mê Kông khoảng 500 dặm hoặc 200km và phát hiện ra đó là
vùng giữa Châu Đốc và Phnom Penh, có nghĩa là xấp xỉ tại Angkor Borei, cũng
tương tự bằng đến Ba Phnom. [129] Tuy niên Pelliot đã viết trước khi các di
tích Oc Eo và các con kênh chạy từ đó đến Angkor Borei được phát hiện, và ông
cho rằng chỉ có các tuyến đường thủy mới thông tới sông Mê Kông hoặc sông
Bassac. Chỉ có cách đó thì khoảng cách giữa cửa sông và Angkor Borei theo đường
thủy quanh co mới có thể được xác định là khoảng 200 km. Cho dù như vậy thì khoảng
cách đó cũng quá lớn, và Pelliot đã tỏ rõ sự lúng túng trong khi ám chỉ đến “một
vùng” “giữa Châu Đốc và Phnom Penh”. Nếu, như ngày nay có vẻ thích hợp hơn, một
tuyến kênh từ vùng ven biển gần Oc Eo được giả định thì khoảng cách 200 km vượt
xa Angkor Borei, vốn chỉ cách biển 90 km, và chúng ta cũng phải giả định rằng
cách ước lượng của người Trung Quốc là nhầm lẫn, hoặc họ đã quy chiếu vào một vị
trí nào đó hoàn toàn khác. Theo đường thẳng 200 km từ Oc Eo có lẽ gần đến
Kongpong Cham. [130]
____________________________________
Còn nữa...
Nguồn: Funan
Reviewed: Deconstructing the Ancients. In: Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 90-91, 2003.
pp. 101-143.
* Ghi
chú của người dịch: Các
từ có đánh dấu sao [*] là do tôi, Hà Hữu Nga, trộm tìm, dịch sang tiếng Phạn,
tiếng Hán và tiếng Việt để tiện cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và
xác định nghĩa của từ mà thôi.
Ghi
chú
108. Pelliot 1903, p. 279, có dẫn Aymonier
1903, tr. 109. Còn Porée-Maspero [1962, tr. 171] cũng nghi ngờ cái tên Phù Nam
không phải là “núi”, mà vì một lý do chưa đầy đủ, bà cho rằng đó là “một cái
tên dường như đáng sửng sốt đối với vương quốc của người Naga”, cùng với lý
thuyết của bà, đặc biệt biện hộ cho việc không có gì trong các sử liệu Trung Quốc
viết về Phù Nam hoặc trong các bi ký chứng minh cho cách gọi Phù Nam là một
“vương quốc Naga”.
109. Coedès 1928.
110. Coedès 1928, p. 127.
111 . Về vị thế của loñ vẫn cần phải có thêm nhiều công trình nghiên cứu về các bi ký
giai đoạn tiền Angkor, xem Vickery 1998, pp. 145, 402, 404, 406.
112. Coedès 1951a, pp. 54-64, quotations from
p. 64.
113. Coedès 1954, pp. 261, 267; Coedès 1951a,
p. 61.
114. Coedès 1928, p. 128. Bi ký này sau đó đã
được Coedès công bố là K. 61, "Stèle de Prāh Vihār Kuk" (Coedès
1964b, pp. 20-22), trong đó rất đáng chú ý là ông đã không nói gì về ý nghĩa của
nó đối với việc định vị thủ đô Phù Nam, và dịch adrivyādhapuresa as “Seigneur
de Vyādhapura”. Có lẽ vào năm 1964 Coedès đã thay đổi quan điểm của ông về vai
trò của Vyādhapura, nhưng lại không muốn thay đổi cuộc thảo luận về Phù Nam
trong các ngữ cảnh khác.
115. Một số người đọc có thể vẫn bối rối vì
công trình của Coedès 1952, tr. 16, đã cho rằng bi ký K. 441 là ở Sambor Prei
Kuk, trong đó ông viết rằng cái tên Giriça thời Phù Nam đã đực sử dụng để gọi Ba
Phnom, gần kinh đô Vyādhapura. Tất nhiên không hề các các nguồn tư liệu đương
thời Phù Nam cho cái tên gọi ngọn núi này, và điều này phải được coi là một nhầm
lẫn của Coedès.
116. Tấm bi ký K. 105. Xem Coedès 1954, tr.
183-186, trong đó, tr. 183, chú thích 4, khi cho là thuộc đoạn trích ở đây, Coedès
đã điệu đà nhận xét “Và không phải lãnh thổ của Vraḥ Vnaṃ = Bà Phnom, như Aymonier đã tin tưởng", và như bản
thân Coedès đã tin vào công trình Études cambodgiennes 21 (Coedès 1928) của
chính ông. Trong thực tế, trong tiếng Khmer Cổ, mặc dù vnaṃ là “núi”, vraḥ vnaṃ =
“vnaṃ
thiêng” luôn là việc xây dựng một ngôi đền. Để biết các ví dụ khác về bi ký
Cambodia của Coedès, xem К. 263/A.D. 984; К. 344/A.D. 985; К. 33/A.D. 1017.
117. Mauger 1935, tr. 491, dẫn Coedès 1928. Cho
dù kỳ cục hơn, mặc dù không phù hợp với cuộc thảo luận hiện nay, nhưng Mauger lại
bị quá mê mẩn bởi ý tưởng về các quốc gia hoàn toàn riêng biệt Phù Nam và Chân
Lạp, mà ông tin Asram Moha Rosei, được ông định niên đại đầu thế kỷ VI, nhưng
ông nghĩ phải là một công trình xây dựng của Chân Lạp, phải là công trình đầu
tiên được xây dựng giữa Kompong Cham và Kratie, nơi đã tìm thấy đá basalt được
sử dụng để xây dựng, sau đó đã được tháo dỡ và xây lại gần Angkor Borei sau khi
Chân Lạp đã chinh phục được Phù Nam.
118. Mauger 1936, p. 93.
119. Coedès 1943-46, pp. 1-8.
120. Jacques 1986b, p. 14; Vickery 1998, pp.
352-353.
121. Wheatley 1974, pp. 97-108 and Wheatley
1983, p. 124.
122. Wheatley 1974, p. 108.
123. Pelliot 1903, p. 273, citing the New Tang
History (A.D. 619-906), composed in the 11th century.
124. Coedès 1942, p. 110, n. 5.
125. Vickery 1998, "Appendix", dalmak/dalmāk; Vickery 1999a, trong đó, tr.
74, tôi đã bỏ mất hai ghi chép về dalmak K.
256/A.D. 979, và K. 158/A.D. 1003. Hệt như một gợi ý đầy khám phá, nhưng lại là
một gợi ý mà tôi không ủng hộ, vì vậy có lẽ chúng ta tư biện rằng dalmak là một nhóm nghề nghiệp cha truyền
con nối chuyên về voi. Điều đó giải thích cho việc có cả phụ nữ và trẻ em trong
nhóm này, và giải thích cho việc xuất hiện của dalmak trong các tình huống không liên quan gì đến nghề voi.
126. See the comment on Hoshino's treatment of
this in the Appendix below.
127. Vickery 1998, pp. 395-398; Vickery 2001.
128. Xem Vickery 1998, các tr. 28-29, 36-37, 395-398. Cả Palembang và Jambi đều là kinh đô trong những giai đoạn khác nhau của Srïvijaya. Xem Manguin 1993, tr. 30-31, dẫn Wolters 1966, 1967. Về khảo cổ học Angkor Borei, xem Dowling 1999; Stark 1998; Stark et al. 1999; Sanderson et al. 2003.
128. Xem Vickery 1998, các tr. 28-29, 36-37, 395-398. Cả Palembang và Jambi đều là kinh đô trong những giai đoạn khác nhau của Srïvijaya. Xem Manguin 1993, tr. 30-31, dẫn Wolters 1966, 1967. Về khảo cổ học Angkor Borei, xem Dowling 1999; Stark 1998; Stark et al. 1999; Sanderson et al. 2003.
129. Pelliot 1903, tr. 290. Khoảng cách 500 lý
từ biển vào được ghi trong Lương sử (502-556), biên soạn vào thế kỷ VII
(Pelliot, ibid., pp. 262-263).
130. Coedès 1964a, tr. 75, thậm chí còn thiếu
nghiêm nhặt khi nói rằng “cách biển” 200 km “là khoảng cách tương đối tách Ba
Phnom khỏi di chỉ Oc Eo”; nhưng theo đường thẳng thì chỉ có 120 km, và đi theo
hệ thống kênh cũng không xa hơn nhiều, và sau đó cắt qua các con sông Bassac và
Mê Kông.
Tài
liệu dẫn
Anderson, John 1981, English Intercourse with Siam in the Seventeenth Century, Bangkok,
Chalemmit Bookshop.
Aymonier, Etienne 1903, Le Fou-nan, Journal Asiatique 10/1 (janv.-fév. 1903), pp. 109-150.
Bellwood, Peter 1992, Southeast Asia Before History, The Cambridge History of Southeast
Asia, vol. I, pp. 55-136.
Bergaigne, Abel 1882, Les inscriptions sanscrites du Cambodge, Journal Asiatique, pp.
1-56.
Blust, Robert 1992, The Austronesian Settlement of Mainland Southeast Asia, in Papers
from the Second Annual Meeting of the
Southeast Asian Linguistics Society, edited by Karen L. Adams and Thomas
John Hudak, pp. 25-83. Arizona State University, Program for Southeast Asian Studies, Tempe, Arizona, 1994.
Brown, Robert L. 1996, The Dvaravati Wheels of the Law and the Indianization of South East
Asia, Leiden, Brill.
Boisselier, Jean 1963, La statuaire du Champa, Paris, École française d'Extrême-Orient.
Boisselier, Jean 1965, Nouvelles
données sur l'histoire ancienne de la Thaïlande, Conférence, Alliance
française/Centre culturel [Bangkok]. Seven pages, no pagination, introduction
by Marie-Jean Vinciguerra, Attaché culturel.
Boisselier, Jean 1966, Le Cambodge, 1. 1, in Asie du Sud-Est, première partie, Manuel
d'Archéologie d'Extrême-Orient, Paris, Éditions A. et J. Picard et Cie.
Charnvit Kasetsiri 1976, The Rise of Ayudhya, Kuala Lumpur, Oxford University Press.
Coedès, George 1928 E.C. 21, La tradition généalogique des premiers rois
d'Angkor d'après les inscriptions de Yaçovarman et de Râjendravarman, BEFEO
28, pp. 124-40.
Coedès, George 1931 E.C. 25, Deux inscriptions sanskrites du Fou-Nan,
BEFEO 3 1 , pp. 1 - 1 2.
Coedès, George 1938, Le fondateur de la royauté angkorienne et les récentes découvertes
archéologiques au Phnom Kulên, Cahiers de l'École française d'Extrême-Orient
14, pp. 40-48; republished in George Coedès, Articles sur le pays khmer, Tome
II, pp. 277-284.
Coedès, George 1942, Inscriptions du Cambodge, Vol. 2, Hanoi, EFEO.
Coedès, George 1943-46, Quelques précisions sur la fin du Fou-nan, BEFEO 43, pp. 1-8.
Coedès, George 1948, Les États hindouisés d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de
Boccard.
Coedès, George 1951a, Inscriptions du Cambodge, Vol. 3, Paris, E. de Boccard.
Coedès, George 1951b, Les règles de la succession royale dans l'ancien Cambodge, Bulletin
de la Société des Études Indochinoises, nouvelle série no. 26 (2), pp.l 17-
130.
Coedès, George 1952, Inscriptions du Cambodge, Vol. 4, Paris, E. de Boccard.
Coedès, George 1954, Inscriptions du Cambodge, Vol. 6., Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1962, Les peuples de la Péninsule indochinoise, Paris, Dunod.
Coedès, George
1964a, Les États hindouisés
d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de Boccard.
Coedès, George 1964b, Inscriptions du Cambodge, Vol. 7, Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1966, Liste générale des inscriptions du Cambodge, In Inscriptions du
Cambodge, Vol. 8, pp. 76-225.
Coedès, George 1968, The Indianized States of Southeast Asia, Edited by Walter F. Vella,
Translated by Susan Brown Cowing, Honolulu, University of Hawaii Press.
Dowling, Nancy H. 1999, A New Date for the Phnom Da Images and Its Implications for Early
Cambodia, Asian Perspectives, Volume 38, Number 1, pp. 51-61.
Dupont, Pierre 1941, Variétés archéologiques, BEFEO 41, pp. 233-254.
Dupont, Pierre 1943-46, La dislocation de Tchen-la et la formation du Cambodge angkorien,
BEFEO 43, pp. 17-55.
Dupont, Pierre 1949, Tchen-La et Panduranga", Bulletin de la Société des Études
Indochinoises 24/1, pp. 9-25.
Dupont, Pierre 1952-54, Les débuts de la royauté angkorienne, BEFEO 46, pp. 1 19-76.
Ferlus, Michel 1977, Étude d'une strate de changements phonétiques dans l'ancien Cambodge,
Mon-Khmer Studies 6, pp. 59-67.
Filliozat, Jean 1969, L'inscription dite de Võ-cạnh, BEFEO 55, pp. 107-1 16.
Finot, Louis 1904, Les inscriptions de Mi-son, BEFEO 4, pp. 897-977.
Finot, Louis 1911, Sur quelques traditions indochinoises, In Mélanges d'indianisme
offerts par ses élèves à M. Sylvain Levi, Paris, Ernest Leroux, pp. 193-212.
Finot, Louis 1927, Séance du 14 janvier, Journal Asiatique 210 (janv.-mars), p. 186.
Friedman, Jonathan 1987, Review Essay on Islands of History by Marshall Sahlins, in History
and Theory, Vol. 13, pp. 72-99.
Groslier, Bernard Philippe 1985-86, For a geographic history of Cambodia,
Seksa Khmer 8-9, pp. 3 1 -76.
Hall, D. G. E. 1955, A History of South-East Asia, New York, St. Martin's Press, [reed.
1981].
Hall, Kenneth R. 1985, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia,
Honolulu, University of Hawaii Press.
Higham, Charles and Rachanie Thosarat 1998, Prehistoric Thailand: From Early Settlement
to Sukhothai, Bangkok, River Books.
Hoshino, Tatsuo 1986, Pour une histoire médiévale du moyen Mékong, Bangkok, Editions
Duang Kamol.
Hoshino, Tatsuo 1991, Wen Dan and its Neighbours: The Central Mekong Valley in the Seventh
and Eighth Centuries, typescript, n.p.
Hoshino, Tatsuo 1993, Puram; earliest Chinese sources on Sri Thep and Lopburi, Paper
presented to the Symposium sur les
sources de l'histoire du pays khmer, Paris.
Hoshino, Tatsuo 1995, Reappraisal of the Chinese texts on Shi li Fo Shi: Dvaravati and Sri
Buddha Sei (?), In Southeast Asian Studies, Tokyo University of Foreign
Studies.
Hoshino, Tatsuo 1996a, The
Kingdom of Red Earth (Chitu Guo) in Cambodia and Vietnam from the sixth to the
eighth centuries, Paper presented to the 14th I.A.H.A. conference, Bangkok,
May 1996.
Hoshino, Tatsuo 1996b, Chang Zhou (Elephant/Master Province) and Sakolnakhon site in Northeast
Thailand, Paper presented to the 6th International conference on Thai
Studies, Chiang Mai, October 1996.
Jacques, Claude 1972, La carrière de Jayavarman II, BEFEO 59, pp. 205-20.
Jacques, Claude 1979, Funan, Zhenla. The Reality
Concealed by These Chinese Views of Indochina, In Early South East Asia. Essays in Archaeology, History and
Historical Geography, Ed. By R. B. Smith and W. Watson, New York/Kuala
Lumpur, Oxford University Press, pp. 371-389.
Jacques, Claude 1986a, Le
pays khmer avant Angkor, Journal des Savants, janv.-fév., pp. 59-95.
Jacques, Claude 1986b, Cours
Année 1985-1986, Paris, École pratique des hautes études, IVe section,
typescript.
Jacques, Claude 1987, L'Empire angkorien: mythe ou réalité, typescript, Conférence à
Tokyo, 25 June 1987.
Jacques, Claude 1995a, Funan, Zhenla, Srîvijaya, In Les
apports de l'archéologie à la connaissance des anciens États en Thaïlande,
3e Symposium franco-thaï, 11-13 décembre 1995, Bangkok, Silpakon University,
pp. 14-23.
Jacques, Claude, éd. 1995b, Études épigraphiques sur le pays cham,
[Reprint], Paris, École française d'Extrême-Orient (Réimpressions 7).
Karlgren, Bernhard 1923, Analytical Dictionary of Chinese and Sino-Japanese, Dover/New York,
[Reprint, 1 974].
Karlgren, Bernhard 1957, Grammata Serica Recensa, Museum of Far Eastern Antiquities Bulletin
29, Stockholm.
Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải 1995, Văn hóa Óc Eo, Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
Loofs, H. H. E. 1979, Problems
of Continuity the pre-Buddhist and Buddhist Periods in Central Thailand, with
Special Reference to U-Thong, in R. B. Smith and W. Watson, eds, Early South East Asia: Essays in
Archaeology, History, and Historical Geography, New York, Oxford University Press.
Mabbet, Ian and David Chandler 1995, The Khmers, Oxford (UK) / Cambridge (US
A),Blackwell. Manguin, Pierre- Yves.
Mabbet, Ian and David Chandler 1980, The Southeast Asian Ship: An Historical
Approach, Journal of Southeast Asian Studies 11/2, pp. 266-276.
Mabbet, Ian and David Chandler 1985, Sewn-Plank Craft of South-East Asia, a Preliminary
Survey, in Sewn Plank Boats,
Archaeological and Ethnographic papers based on those presesented to a
conference at Greenwich in November 1984, ed. by Sean McGrail and Eric Kentley,
Greenwich, National Maritime Museum (Archaeological Series No. 10, BAR
International Series 276).
Mabbet, Ian and David Chandler 1991, The Merchant and the King: Political Myths
of Southeast Asian Coastal Polities, Indonesia 52, pp. 41-54.
Mabbet, Ian and David Chandler 1993, Palembang and Sriwijaya: An Early Malay Harbour-City
Rediscovered, Journal of the Malaysian Branch of the Royal Asiatic Society
66/1, pp. 23-46.
Mabbet, Ian and David Chandler 1996, Southeast Asian Shipping in the Indian Ocean
During the First Millenium A.D.", in H. P. Ray & J.-F. Salles
(eds.), Tradition and Archaeology. Early Maritime Contacts in the Indian Ocean,
Lyon/New Delhi, Manohar (Maison de l'Orient méditerranéen/NISTADS),pp. 181-198.
Mabbet, Ian and David Chandler 1999, Srivijaya dans l'oeuvre de George Coedès,
in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, Centre d'Anthropologie
Sirindhorn, 9-10 September.
Mabbet, Ian and David Chandler 2002, From Funan to Srivijaya: Cultural
Continuities and Discontinuities in the Early Historical Maritime States of
Southeast Asia", in 25 Tahun Kerjasama Pusat Penelitian Artkeologi dan
École française d'Extrême-Orient, Makalah Seminar Dimensi Budaya dalam
Membangun Persatuan Bangsa-Bangsa di Asia Tenggara, Palembang, 16-18 July 2001,
Jakarta, 2002, pp. 59-82.
Maspero, Georges 1928, Le royaume de Champa, Paris/Bruxelles, Éditions G. Van Oest,
[reprint. EFEO, 1988].
Mauger, Henri 1935, Angkor Borei, BEFEO 35, p. 491.
Mauger, Henri 1936, Asram Maha Rosei, BEFEO 36, pp. 65-95.
Maurel, Frédéric 1998, The work of George Coedès: views of a young man, Journal of the
Siam Society 86/1-2, pp. 235-238.
Népote, Jacques 1999, Mythes de fondation et fonctionnement de l'ordre social dans la basse
vallée du Mékong accompagnés de considérations sur l'indianisation,
Péninsule 38(1), pp. 33-64.
Paris, Pierre 1952-54, Quelques dates pour une histoire de la jonque chinoise, BEFEO 46,
pp. 267-278.
Pelliot, Paul 1903, Le Fou-Nan, BEFEO 3, pp. 248-303.
Pelliot, Paul 1904, Deux itinéraires de Chine en Inde à la fin du vine siècle, BEFEO 4,
pp. 13 1-385.
Pelliot, Paul 1925, Quelques textes chinois concernant l'Indochine Hindouisée, EFEO
Études Asiatiques II, pp. 243-263.
Porée-Maspero, Éveline 1950, Nouvelle étude sur la Nâgï Somâ, Journal
Asiatique, pp. 237-267.
Porée-Maspero, Éveline 1962-69, Étude sur les rites agraires des Cambodgiens,
3 Vol., Paris/La Haye, Mouton & Co. Pou, Saveros
Porée-Maspero, Éveline 2001, Nouvelles inscriptions du Cambodge, vol.
II & III, Paris, EFEO.
Reid, Anthony 1993, Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680, Vol. 2, Chiang
Mai, Silkworm Books.
Reynolds, Craig J. 1995, A New Look at Old Southeast Asia, Journal of Asian Studies 54/2,
pp. 419-446.
Sanderson, D. С W., et. al. 2003, Luminescence dating of anthropogenically
reset canal sediments from Angkor Borei, Mekong Delta, Cambodia, Quaternary
Science Reviews 22, pp. 1111-1121.
Shorto, H. L. 1963, The 32 myos in the medieval Mon kingdom, Bulletin of the School of
Oriental and African Studies 26/3 (London), pp. 572-591.
Stargardt, Janice 1986, Hydraulic Works and South East Asian Polities, In Southeast Asia in
the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra, Australian National University/ Institute of Southeast Asian
Studies, Singapore, pp. 23-48.
Stark, Miriam T. 1998, The Transition to History in the Mekong Delta: A view from Cambodia,
International Journal of Historic Archaeology 2/3, pp. 175-204.
Stark, Miriam T., et. al. 1999, Results of the 1995-1996 Archaeological
Field Investigations at Angkor Borei, Cambodia", Asian Perspectives
38/1, pp. 7-36.
Stein, R. A. 1947, Le Lin-Yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa,
et ses liens avec la Chine, Han-Hiue Bulletin du Centre d'études
sinologiques de Pékin 2, pp. 1-335.
Stuart-Fox, Martin 1998, The Lao Kingdom of Lan Xâng: Rise and Decline, Bangkok, White Lotus
Press.
Syafei, Soewadji 1977, The Relation Between Cambodia and Indonesia in the 8th to 9th Century"
[sic], Majalah Arkeologi, Indonesia, pp. 14-18.
Thurgood, Graham 1999, From Ancient Cham to Modern Dialects, Two Thousand Years of Language
Contact and Change, Honolulu, University of Hawaii.
Vickery, Michael 1972, The 'Kalpana' documents in a review of three collections of Thai
historical documents, Journal of the Siam Society 60/1, pp. 397-410.
Vickery, Michael 1977, Cambodia after Angkor, the Chronicular Evidence for the Fourteenth to
Sixteenth Centuries, Ph.D. Yale University, dec. 1977 [Ann Arbor:
University of Michigan, University Microfilms].
Vickery, Michael 1979, A New Tâmnàn About Ayudhya, Journal of the Siam Society 67/2, pp. 1
23- 1 86.
Vickery, Michael 1986, Some Remarks on Early State Formation in Cambodia, In Southeast
Asia in the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra/Singapore, Australian National University (Research School of Pacific
Studies) / Institute of Southeast Asian Studies, pp. 95-115.
Vickery, Michael 1987, Review of K. R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early
Southeast Asia, in Journal of Asian Studies 1987, pp. 21 1-213.
Vickery, Michael 1994, Where and What was Chenla?, In Recherches nouvelles sur le
Cambodge, dir. By F. Bizot, Paris, EFEO (Études thématiques I), pp. 197-212.
Vickery, Michael 1998, Society, Economies, and Politics in Pre-Angkor Cambodia: the 7th-8th
Centuries, Tokyo, The Centre for East Asian Cultural Studies for Unesco/The
Toyo Bunko.
Vickery, Michael 1999a, The Khmer Inscriptions of Roluos (Preah Ko and Lolei): Documents from a
Transitional Period in Cambodian History, Seksa Khmer n. s. 1 (jr- 1999),
pp. 47-93.
Vickery, Michael 1999b, Coedès' Histories of Cambodia, in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, CEDREFT, 9-10 September 1999.
Vickery, Michael 2001, Resolving the Chronology and History of 9th-Century Cambodia",
SiksucakrZ (Newsletter of the Center for Khmer Studies, CKS, Siemreap, July
2001), pp. 17-23.
Wang Gungwu 1958, The Nanhai Trade, Journal of the Malaysian Branch Royal Asiatic
Society 3 1/2, pp. 1-135.
Wheatley, Paul 1961, The Golden Khersonese, Kuala Lumpur, University of Malaya Press.
Wheatley, Paul
1974, The Mount of the Immortals: A note on Tamil cultural influence in
fifth-century Indochina, Oriens Extremis, Vol. 21, part 1, pp. 97-108.
Wheatley, Paul 1983, Nagara and Commandery: Origins of the Southeast Asian Urban Traditions,
University of Chicago (Research Paper Nos. 207-208, Department of Geography).
Wheatley, Paul 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In
Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H.
Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Wheatley, Paul 1967, Early Indonesian Commerce, Ithaca, Cornell University Press.
Wolters, O. W. 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In
Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H.
Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Wolters, O. W. 1967, Early Indonesian Commerce, Ithaca, Cornell University Press.
Nguồn: http://kattigara-echo.blogspot.com/2013/01/phu-nam-nhin-lai-giai-co-tac-gia-vi.html
cảm ơn chị đã chia sẻ rất nhiều kiến thức
Trả lờiXóagiá trùn quế
nuôi trùn quế
cách nuôi giun quế