Zhang Chi 1 & Hsiao-chun Hung 2
SỰ XUẤT HIỆN CỦA NÔNG NGHIỆP TẠI MIỀN NAM TRUNG HOA
Ngô Bắc dịch
Lâm Thị Mỹ Dung chỉnh sửa một số thuật ngữ khảo cổ
Lời Người Dịch:
Có ít điều cần ghi nhớ trong đầu khi đọc bài dịch dưới đây:
1. Miền Nam Trung Hoa được nói tới trong bài không phải là lãnh thổ thuộc Trung Hoa từ nguyên thủy hay trong phần lớn thời tiền sử được khảo sát trong bài viết.
2. Dân cư miền nam Trung Hoa khi đó là các dân tộc phi Hán, chính yếu là các tộc Bách Việt hay tộc Tày Thái, được phát hiện là những người phát minh ra cách thức trồng lúa nước đầu tiên trên thế giới, tại các thung lũng thuộc trung và hạ lưu sông Dương Tử. Các chứng liệu khoa học cho thấy dân cư Trung Hoa ngày nay hợp thành bởi hai luồng di dân, một từ phía bắc đổ xuống, luồng kia từ phía nam đi lên có niên đại xưa hơn các sắc dân miền bắc (Xem Bản Đồ Di Dân &Định Cư Của Người Hiện Đại, Phụ Lục 1 của người dịch).
3. Người Hán thời đó chỉ là một chủng tộc nhỏ, ở phương bắc sông Hoàng Hà, nơi có nhiều đồng cỏ và sa mạc mênh mông, sống theo lối du mục, săn bắn, và chỉ trồng được các loại cây ít cần nước như kê .… Người Hán vì thế không thể nào tự nhận mình là kẻ đã phát minh ra cách thức trồng lúa nước, vốn đòi hỏi một lối sống định cư, với một hệ thống tưới tiêu bằng nguồn nước dồi dào, và một tổ chức kinh tế - xã hội cần nhiều nhân lực cho việc sản xuất và phân phối. Người Hán dĩ nhiên lại càng không phải là các kẻ đã truyền bá sự canh tác lúa nước vào Đông Nam Á trong đó có Việt Nam và Thái Lan.
Các tác giả mang đến cho chúng ta một bản tường trình dựa trên tài liệu mới về sự lan tỏa của nông nghiệp và đặc biệt là canh tác lúa gạo vào miền nam Trung Hoa và xa hơn thế. Từ miền trung và đông Dương Tử, nó được truyền bá trong hai mũi tiến – theo hướng đông vào Quảng Đông, Đài Loan và vùng Đông Nam Á hải đảo và theo hướng nam vào Quảng Tây và Việt Nam.
DẪN NHẬP
Thung lũng sông Dương Tử tại miền trung Trung Hoa được đa số các nhà khảo cổ, cổ thực vật và di truyền thảo mộc xác định là cái nôi canh tác sớm nhất lúa gạo Á Châu (Oryza sativa var. japonica) (Crawford & Chen 1998; Higham & Lu 1998; Zhao 1998; Bellwood 2005: 111; Jiang & Liu 2006; Londo et al. 2006; Fuller et al. 2007, 2009). Trong một bài viết trước (Zhang & Hung 2008a) đã phác thảo chuỗi phát triển văn hóa Thời Đại Đá mới liên quan đến việc hình thành sản xuất lương thực tại Trung và Hạ Lưu Thung Lũng sông Dương Tử từ năm 10000 đến 2000 TCN (14 C-calibrated chronology: niên đại hiệu chỉnh C14). Lần lượt các giai đoạn Pengtoushan-Zaoshi và Shangshan-Kuahuqiao (8000 – 5000 TCN) đã cung cấp bằng chứng về sản xuất lúa gạo trước chăn nuôi gia súc rất sớm, có thể là chăn nuôi heo (lợn) (Yuan và các tác giả khác 2008), và các dọi se chỉ (pottery spindle whorl) ám chỉ sự sử dụng các thớ sợi thảo mộc, một số lượng đáng kể vỏ trấu và hạt gạo cũng đã thu được từ các địa điểm này. Sau năm 5000 TCN, các khu định cư canh tác đi liền với trục các quần thể Daxi, Shinianshan, Beiyinyangin-Xuejiagang, Hemudu, và Majiabang (5000 – 3000 Trước Thiên Chúa) dần dần lan tỏa khắp Trung và Hạ Lưu Thung Lũng sông Dương Tử. Các cánh đồng lúa khép kin được phát lộ tại một số địa điểm ở Majiabang-Songze thuộc Hạ Lưu sông Dương Tử, chẳng hạn như Caoxieshan (Zou và các tác giả khác 2000: 97-113). Về sau này, hai phức hợp tại địa điểm thuộc giai đoạn Longshan được đại diện lần lượt bởi Qugialing – Shijiahe và Liangzhu (3000 – 2300 Trước Thiên Chúa), trong vùng Trung và Hạ Lưu Thung Lũng sông Dương Tử, đã chứng kiến sự hình thành canh tác lúa nước ở quy mô lớn (Fuller và các tác giả khác 2007).
Điều được nêu lên đó là sự tán phát theo hướng nam sự canh tác lúa gạo từ thung lũng sông Dương Tử có lẽ liên hệ đến sự lan tỏa của các dân tộc thuộc ngữ hệ Austroasiatic (Nam Á) và Austronesian (Nam Đảo) lần lượt vào vùng Đông Nam Á Lục Địa và Đông Nam Á Hải Đảo (thí dụ, Higham & Lu 1998; Higham 2002; Diamond & Bellwood 2003; Bellwood 2005: 222). Nếu đúng thế, khi đó miền nam Trung Hoa và miền bắc Đông Nam Á Lục Địa hẳn đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phổ biến sự canh tác lúa gạo. Tuy nhiên, do sự khan hiếm các di chỉ lúa gạo được báo cáo và các niên đại theo phân tích C14 đáng tin cậy, vấn đề phát triển nông nghiệp tại miền nam Trung Hoa chính danh, phía nam Lưu Vực sông Dương Tử, hãy còn được hiểu biết sơ sài. Trước đây, chúng tôi đã nêu ý kiến (Zhang & Hung 2008a) rằng tiến trình phổ biến nông nghiệp tại Trung Hoa không phải là một biến cố đơn lẻ, để minh chứng điều này, chúng tôi đặt tiêu hướng nơi đây vào những khám phá gần đây ở các vùng Lĩnh Nam-Phúc Kiến-Đài Loan (Lĩnh Nam bao gồm các tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông) và tây nam Trung Hoa (các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam và Quí Châu).
Duyên Hải Đông Nam Trung Hoa và Đài Loan
Bằng chứng mới về sự canh tác lúa gạo thời cổ được báo cáo từ miền đông nam Trung Hoa với các địa điểm cổ xưa nhất tại Phúc Kiến (Fujian), Đài Loan, và Quảng Đông (Hình 1). Ở đây, di tích lúa gạo có thể được ấn định niên đại một cách chắc chắn là 3000 BC (TCN), trong khi các niên đại của nhiều địa điểm khác quy tụ quanh năm 2500 TCN.
Quảng Đông (Hình 1, các địa điểm 5, 6, 7, và 8)
Trong thập niên 1970, một số lượng lớn các hạt gạo và thân cây lúa từ các địa tầng giữa và dưới tại Shixia, miền bắc Quảng Đông (khoảng 2600 – 2300 TCN) được xác định là thuộc loại gạo trồng (Yang 1978; Zhang et al. 2006), gần đây hơn, có bốn phát hiện mới về các di tích gạo lâu đời hơn ở Quảng Đông. Những phát hiện này thuộc giai đoạn tiền Shixia tại ngay chính Shixia (Yang 1998; Xiang 2005), từ Shaxia tại Hồng Kông, từ Guye ở Gaoming thuộc Lower Xi River [Hạ Lưu Tây Giang?] và từ Xinghuahe tại Upper Xi Revier [Thượng Lưu Tây Giang?].
Có nhiều ý kiến khác nhau về niên đại của các di tích lúa gạo lâu đời nhất tại Shixia, Viện Khảo Cổ Quảng Đông (IA, Guangdong 2000) đưa ra một niên đại tương tương với giai đoạn TangJiagamh – Daxi tại Miền Trung Lưu Sông Dương Tử, khoảng 4800 TCN và với giai đoạn Xiantouling sớm nhất, khoảng 5,000 – 3500/3000 TCN tại Vũng Cửa Sông Châu (Zhu) (Trân Châu: Pearl). Nhưng giai đoạn tiền-Shixia thiếu đồ gốm vẽ tay điển hình của giai đoạn Xiantouling sớm và như thế có thể tương đương với giai đoạn 1 Caotangwan tại Quảng Đông và Tầng F ở Shenwan (Layer F Shenwan) (Sham Wan) trên đảo Lamma tại Hồng Kông (Meacham 1978); Zhuhai Museum et al. 1991; Zhu 2001). Tầng F Shenwan đã được ấn định niên đại bởi Meacham (1978: 126) vào khoảng 3500 đến 2200 TCN. Địa điểm Shaxia tại Hong Kong đã cung cấp một khối lượng gạo và các loai bầu bí hóa thạch thuộc họ Cucurbitacease (Cucurbitacease phytoliths) (Lu et al. 2005) nằm bối cảnh có liên hệ đến giai đoạn Shixia, khoảng 2500 TCN (AMO & 1A 2004). Các di chỉ ở Guye và Xinghuahe cũng được xác định khung niên đại tương tự (Xiang & Yao 2006; Relics from the South 2007).
Hình 1: Vị trí của các địa điểm quan trọng đề cập trong bài: 1) Liangzhu, 2) Qujialing, 3) Sjijiahe, 4) Fanchengdui, 5) Shixia, 6) Shaxia, 7) Guye, 8) Xinghuahe, 9) Tanshishan, 10) Huangguashan, 11) Nanshan, 12) Namguanli & Nanguanlidong (Đài Loan), 13) Dingsishan, 14) Xiaojin, 15) Gantuoyan, 16) Baoduncun, 17) Jigongshan, 18) Haidong, 19) Baiyangcun, 20) Karuo, 21) Phung Nguyên, 22) Non Nok Tha, 23) Ban Chiang, 24) Non Kai Noi, 25) Ban Lum Khao, 26) Andarayan.
Phúc Kiến và Đài Loan (Hình 1, các địa điểm 9, 10, 11 và 12).
Tại Phúc Kiến, các di tích lúa gạo cổ xưa nhất được tìm thấy tại Tanshishan và được xác định niên đại qua phân tích Carbon từ 2870 – 2340 cal [calibrated years: niên đại hiệu chỉnh ] TCN (BC) (Yan 1989; Z. S. Chen, pers. comm..: personal communication: thông tin cá nhân, chú của người dịch). Các di tích khác được báo cáo từ các địa điểm mới hơn như Huangguashan và Nanshan (Chen, Z. S., 2006). Các hạt lúa gạo đã carbon-hóa sớm nhất tại Đài Loan đến từ các địa điểm thuộc giai đoạn muộn hơn ở vùng Dabenkeng (Đại Phần Khanh) tại Nanguanli và Nanguanlidong, tọa lạc tại Công Viên Khoa Học Đài Loan (Taiwan Science Park) miền nam Đài Loan (Tsang et al. 2006). Các di chỉ này có niên đại từ 2700 – 2200 cal BC (niên đại hiệu chỉnh TCN) và được tìm thấy nơi đây cùng với cây kê đuôi chồn (foxtail millet?) và các hạt đậu của chủng loại chưa biết. Hai địa điểm này đại diện cho giai đoạn hậu kỳ của văn hóa Dabenkeng về mặt thể loại chế tác phẩm (Nhớ kỹ [NB: viết tắt của Nota bene trong nguyên bản, chú của người dịch], Dabenkeng là cách phiên đúng của Pinyin, nhưng được biết đến nhiều hơn dưới dạng Tapenkeng (TPK), theo Chang, 1969), và chưa có các di tích lúa gạo được báo cáo từ các sưu tập Đá mới cổ xưa nhất trên hòn đảo này. Sau năm 2200 TCN, gạo carbon-hóa và các dấu in hạt gao trên đồ gốm được báo cáo từ nhiều khu định cư Thời Trung kỳ Đá mới tại Đài Loan, chẳng hạn như Chikan B. trên đảo Bành Hồ (Penghu Island) (Tsang 1999), Kending tại mỏm phía nam của Đài Loan (Li 1985), Youxianfang tại Đài Loan (Tsang et al. 2006), Zhishanyan tại Đài Bắc (Taipei) (Huang 1984) và Changguang tại phía đông Đài Loan (Chao 1994).
Tây Nam Trung Hoa
Quảng Tây (Hình 1, các địa điểm 13, 14, và 15)
Gạo hóa thạch (rice phytoliths) từ giai đoạn 4 Dingsishan (tầng trên cùng tại địa điểm) ở phía nam Quảng Tây, hiện được xem là sớm nhất từ các khung cảnh khảo cổ tại miền này (Zhao et al. 2005). Bất kể sự tuyên xác của Zhao (2006) rằng giai đoạn 4 Dingsishan có niên đại từ 4500 TCN, đồ gốm giai đoạn 4 khác biệt với đồ gốm của các giai đoạn trước tại địa điểm và tương tự như đồ gốm của giai đoạn Longshan tại Wuming (ATGZ et al. 2006), được cho là có niên đại từ 2500 – 2000 TCN (Li & Yang 2006). Chưa có lúa gạo được tìm thấy trong giai đoạn sớm hơn từ 1 đến 3 tại Dingsishan (8000 – 4000/3500 TCN) (Guangxi Team et al. 1998).
Xiaojin, tại miền bắc Quảng Tây cũng tìm thấy các di tích lúa gạo. Địa điểm này có ba giai đoạn văn hóa, không có bằng chứng nông nghiệp từ giai đoạn xưa nhất (giai đoạn 1), nhưng một số lượng lớn các hạt gạo từ giai đoạn 2 (ATGZ & Cultural Committee (Ủy Ban Di Tích Văn Hóa) của Ziyuan 2004). Có một loạt các niên đại 14C lộn xộn: giai đoạn 1, 2900 – 2000, 2500 -1600 và 2900 – 1950 cal BC (niên đại hiệu chỉnh TCN); và giai đoạn 2, 2750 – 1900, 2150- 1400, 2900 – 2200, 5300 – 1400 và 4000 – 2000 cal BC (niên đại hiệu chỉnh TCN). Các niên đại này không phù hợp với kết tầng địa chất nhưng, theo các sự so sánh kiểu thức của chúng tôi về các điểm nhô ra của đá mài (ground stone), các mẫu hình tam giác của giai đoạn 2 Xiaojin được ấn định niên đại sau văn hóa Shijiahe tại Vùng Trung Lưu Thung Lũng Dương Tử và chính vì thế có niên đại trong khoảng 2500 – 2000 TCN.
Gantuoyan, tại miền tây của Quảng Tây, có tìm được các hạt kê và lúa gạo hóa than từ mút cuối của giai đoạn 2 tại một chuỗi địa điểm (ATGZ & Napo Museum 2003). Hai niên đại AMS là 1920 – 1660 cal BC ((niên đại hiệu chỉnh TCN)), và một trên hạt kê là 1510 – 1290 cal BC ((niên đại hiệu chỉnh TCN). Từ những nghiên cứu đối chiếu đồ gốm, các nhà khai quật cho rằng giai đoạn 2 Gantuoyan đồng thời với thời kỳ cuối của nhà Thương.
Tứ Xuyên, Quí Châu và Vân Nam (Hình 1, các địa điểm 16, 17, 18 và 19).
Tại vùng tây nam Trung Hoa, bằng chứng xưa nhất về nông nghiệp đến từ miền tây bắc Tứ Xuyên, đi liền với sự bành trướng văn hóa Yangshao trong các giai đoạn Miaodigou và Majiayao, khoảng 3000 TCN (Chen, J. 2007). Có thể là sự canh tác kê trên đất khô đã được du nhập vào Tứ Xuyên bởi các nhóm Yangshao này, và các hạt kê hóa than Setaria italic (L.) P. Beauv. Từ Karuo tại Quận Changdu, Tibet (Hình 1, địa điểm 20), được ấn định niên đại bởi sự xác định nhiều lần niên đại C14 trong khoảng 3500 đến 2500 BC (Committee of Relics in the Tibet Autonomous Region et al. 1985: 168). Các di tích lúa gạo cũng được tìm thấy tại văn cảnh Yangshao ở miền đông Cam Túc (Gansu) (Zhang & Wang 2000; Liu 2007) và Sơn Tây (Shanxi) (Wang 2003), cả hai ở phía bắc Tứ Xuyên. Đến mức liên quan với Thung Lũng Trung Lưu Dương Tử tại Tứ Xuyên, bằng chứng cổ xưa nhất về sự canh tác lúa gạo đến từ Đồng bằng Chengdu (Thành Đô) trong giai đoạn Baoduncun (2500 – 2000 TCN).
Tại Quý Châu, bằng chứng khai quật xưa nhất cho sự hiện diện của lúa gạo phát sinh từ Jigongshan tại Huyện Weining, đồng thời với cuối nhà Thương (IA, Guizhou et al. 2006). Tại Vân Nam, di tích lúa gạo xưa nhất thuộc giai đoạn Đá mới Shizhaishan tại vùng Lake Dian (Điền Trì), có niên đại từ 3100 – 2450 cal BC ((niên đại hiệu chỉnh TCN) tại Haidong (Xiao 2001). Các di tích lúa gạo từ Baiyangcun tại Binchúan có niên đại khoảng từ 2500 – 2000 TCN (Yunnan Museum 1981; IA. CASS 1991: 234-6), nhưng lúa gạo từ Dadunzi thuộc Huyện Yuanmou có niên đại muộn hơn (Bảng 1). Vì thế, sự xuất hiện của việc canh tác lúa gạo tại Quảng Tây, Vân Nam và Quí Châu rõ ràng có nhật kỳ sau năm 2500 TCN.
CÁC QUAN HỆ VĂN HÓA GIỮA MIỀN NAM TRUNG HOA VÀ THUNG LŨNG SÔNG DƯƠNG TỬ (Hình 2)
Bảng 1: Di chỉ lúa gạo và kê sớm từ miền nam Trung Hoa và Đài Loan
[Các từ ngữ được dùng trong Bảng: Sites: Địa Điểm; Specimens recovered: Mẫu thu được; Cultural phases & suggested dates: Các giai đoạn văn hóa & niên đại ước tính; Uncalibrated 14 C determinations: Niên đại C14 chưa hiệu chỉnh; Oscal, 2 sigma dates: Thời khoảng chưa được định chuẩn, nằm giữa niên đại sớm nhất và gần nhất; References: Tham chiếu]
Hình 2: Sự bành trướng việc canh tác lúa gạo từ Thung Lũng sông Dương Tử vào miền nam Trung Hoa và Đông Nam Á, khoảng 3000 – 2000 TCN. Các khu A, B, và C là các xã hội nông nghiệp chính yếu tại Trung và Hạ Lưu Thung Lũng sông Dương Tử ,đã mở rộng xuống hướng nam sự canh tác lúa gạo vào Phúc Kiến và Quảng Đông (H), Đài Loan (I) và Phi Luật Tân (J). Khu E đại biểu cho xã hội nông nghiệp sớm của Đồng Bằng Chengdu (Thành Đô), có lẽ ảnh hưởng bởi khu C cũng như bởi xã hội nông nghiệp hạt kê và lúa gạo của khu D tại miền bắc Tứ Xuyên. Sự xuất hiện của việc canh tác lúa gạo vào vùng Quảng Tây đến từ khu C thuộc Trung Lưu Thung Lũng Sông Dương Tử và có thể từ khu E tại Đồng Bằng Thành Đô, sau đó lan truyền vào vùng Đông Nam Á Lục Địa. A) Liangzhu, 3500 – 2500 Trước Công Nguyên; B) Fanchengdui 2600 – 2000 Trước Công Nguyên; C) Qujialing – Shijiahe, 3500 – 2500 Trước Công Nguyên; D) Miaodigou & Majiayao, được giả định với hạt kê và lúa gạo, khoảng 3000 Trước Công Nguyên; E) Baoduncun, 2500 – 2000 BC; F) Dingsishan giai đoạn 4 và Xiaojin giai đoạn 2, sau năm 2500 Trước Công Nguyên, G) Phùng Nguyên (Việt Nam) và các cộng đồng nông nghiệp ở Thái Lan, sau 2300 – 2000 Trước Công Nguyên, H) Shixia & Tanshishan, 3000 Trước Công Nguyên; I) Hậu Kỳ Dapenkeng, 2800 Trước Công Nguyên; J) Sơ kỳ đá mới miền bắc Phi Luật Tân, 2000 Trước Công Nguyên.
Trải khắp một vùng rộng lớn như thế, sự xuất hiện của việc canh tác lúa gao có lẽ không phải là một biến cố riêng lẻ. Các niên đại từ Phúc Kiến và Quảng Đông (Hình 2, khu H) kéo lùi về năm 3000 TCN, đồng thời với các giai đoạn Qujialing – Sơ Kỳ Shijiahe tại Trung Lưu sông Dương Tử, và Sơ – Trung Kỳ Liangzhu tại Hạ Lưu sông Dương Tử (các khu C và A). Nhưng bằng chứng tại Quảng Tây, Vân Nam và Quí Châu (khu F) thì muộn hơn đôi chút, sau 2500 TCN, và đồng thời với Trung Kỳ Shijiahe tại Trung Lưu Dương Tử và Chung Kỳ Liangzhu tại Hạ Lưu sông Dương Tử. Để khảo sát hơn nữa sự khác biệt thời gian tiềm ẩn này chúng ta giờ đây tái duyệt các phân cảnh văn hóa và các bối cảnh môi sinh liên quan.
Từ sơ kỳ Đá mới trở về sau, các nhà khảo cổ Trung Hoa phân chia quá trình phát triển văn hóa tại miền nam Trung Hoa thành hai truyền thống địa phương – Phúc Kiến với Quảng Đông (kể cả các hòn đảo ngoài khơi phía nam) (khu H) và Quảng Tây với miền bắc Việt Nam (Zhang & Hung 2008b) (khu F). Trong sơ kỳ và trung kỳ Đá mới, Quảng Tây được cư trú bởi những những cư dân săn bắn – thu lượm (trong sự vắng bóng bất kỳ bằng chứng nào về sự sản xuất thực phẩm) của văn hóa Dingsishan (các giai đoạn 1 và 3), với đồ gốm và kỹ thuật đá mài mà ở nơi khác sẽ được gọi là thuộc thời đại “Đá Mới”. Các nhà khảo cổ Trung Hoa giả định rằng nền văn hóa này có tính chất bản địa trong vùng và dựa vào việc thu lượm, đánh cá nước ngọt và săn bắn. Phần lớn các địa điểm văn hóa Dingsishan là các gò vỏ sò với các đồ gốm văn in đập và văn thừng đơn giản và các khí cụ bằng đá được mài nhẵn (Guangxi Team et al. 1998).
Các địa điểm liên quan đến các giai đoạn 1 đến 3 văn hóa Dingsishan phân bố chung quanh Nanning (Nam Ninh) tại miền nam Quảng Tây, phần lớn dọc theo các con sông Zuo, You, và Yong. Các địa điểm khai quật gồm ngay chính Dingsishan (Guangxi Team et al. 1998), Changtang, Baoxitou (Guangxi Team et al. 2003), Jiangxian và Ganzao (ATTGZ 1975). Trong các giai đoạn 2 và 3 văn hóa Dingsishan các nhóm này hiện diện khắp miền trung và miền đông Quảng Tây và miền tây Quảng Đông, đặc biệt dọc theo các con sông Yu, Xun, Qian, và Xi. Các địa điểm khai quật gồm Xijin (ATTGZ 1975), Qiujiang (ATGZ & Hengxian Museum 2006), Jiangkou (ATGZ 2000) và Nanshanwan tại Quảng Tây (ATGZ 2004), và Lezhukou tại Quảng Đông (IA & Fengkai Museum 1998). Tại miền bắc Việt Nam, các khai quật những dấu vết tương tự ở tỉnh Thanh Hóa, thuộc văn hóa Đa Bút theo xác định của giới khảo cổ học Việt Nam (Nguyên 2006). Tục mai táng người chết thời kỳ này ở cả Quảng Tây lẫn miền bắc Việt Nam kiểu ngồi bó gối. Tác giả Higham (1996: 78) ghi nhận rằng các địa điểm Đa Bút không có các dấu vết chắc chắn của nông nghiệp.
Bốn niên đại xét nghiệm 14C từ giai đoạn 1 Nanshanwan được xem là đại diện cho giới hạn trước niên đại [the terminus ante quem, tiêng La Tinh trong nguyên bản chú của người dịch] của văn hóa Dingsishan (các giai đoạn từ 1 đến 3). Các niên đại này là 4800 – 3600, 5350 – 4650 và 5800 – 5200 cal BC (niên đại hiệu chỉnh TCN) trên xương súc vật và 8250 – 7550 cal BC (niên đại hiệu chỉnh TCN) trên vỏ sò ốc nước ngọt (ATGZ 2004), làm liên tưởng đến một sự kết thúc của văn hóa Dingsishan vào khoảng 4000 – 3500 BC. Mặc dù nhiều địa điểm Dingsishan tọa lạc tại các khu vực thuận lợi cho việc canh tác lúa gạo, chẳng hạn như thung lũng sông Xi (Tây Giang) nhưng không thấy bất cứ thông báo nào về dấu tích lúa.
Tại Quảng Đông và Phúc Kiến, không giống như ở Quảng Tây, không có văn hóa thời tiền canh tác bản địa (indigenous) có thể xác minh được cho đên nay liên hệ với các giai đoạn 1 đến 3 của văn hóa Dingsishan. Sưu tập chứa đựng đồ gốm sớm nhất tại Quảng Đông là văn hóa xâm nhập Xiantouling (khu H), có niên đại trong khoảng 5000 / 3000 BC (Hung 2008: 42), gồm nhiều đồ đá và thể loại đồ gốm phức tạp hơn các giai đoạn từ 1 đến 3 của Dingsishan. Mặc dù khuôn mẫu sinh tồn của Xiantouling không chắc chắn, phần lớn các địa điểm tọa lạc tại các đụn cát dọc theo các bờ của Cửa Vịnh Zhu. Sự kiện này làm liên tưởng đến một nhóm lục lạo đường biển đông đảo hơn về mặt chiến lược kinh tế (Higham 1996: 79). Bởi vì sưu tập Xiantouling rất giống sưu tập của Tangjiagang – Daxi tại Hồ Nam đến nỗi nhiều nhà khảo cổ Trung Hoa nhìn Xianyouling như một diện mạo (facies) Lingnan (Lĩnh Nam) của văn hóa Daxi. Tuy nhiên Xiantouling không phải là hậu duệ trực tiếp của văn hóa Daxi hạt nhân trồng lúa gạo tọa lạc tại miền Lưỡng Hồ (Two Lakes) của Lưu Vực Trung Lưu sông Dương Tử (Bu 1999; Pei 1999), mà đúng hơn mang thể diện Gaomiao – Songxikou – Daxi của Rặng Núi Lĩnh Nam ở miền nam Hồ Nam, phần kể tên sau không có bằng chứng cho sự canh tác lúa gạo. Ngoài ra, các địa điểm văn hóa Xiantouling tại Quảng Đông và Hồng Kông có một truyền thống cơ cấu nhấn mạnh đến sự sử dụng vải bằng vỏ cây, được đập mỏng bằng các bàn đập có rãnh đặc thù, hơn là bằng các thớ sợi dệt như được xe bằng các con lăn cọc sợi (spindle whorls) bởi các xã hội trồng lúa gạo của miền Trung Lưu sông Dương Tử (Bellwood 2005: 126).
Cho tới gần đây, khoảng 4000 BC, không có các gò, đụn vỏ sò ốc nào dọc theo các bờ biển của Quảng Đông và Quảng Tây, chẳng hạn như Fangcheng, Qinzhou, và Chaoan, có chứa bất kỳ di tích nào của các cây trồng. Cũng không có, cho đến nay, các sưu tập Đá mới xưa nhất dọc theo các bờ biển của Phúc Kiến và Đài Loan, tức lần lượt là các văn minh Keqiutou và Dabenkeng sơ kỳ (thời tiền Nanguanli). Các sưu tập Keqiutou và Dabenkeng có nhiều tương đồng với Xiantouling tại Quảng Đông (Tsang 2007; Hung 2008), và mặc dù cả hai đều bị ảnh hưởng bởi văn hóa Hemudu tại Chiết Giang (Zhejiang) (Liu & Guo 2005), không nơi nào có vẻ là các hậu duệ trực tiếp của nó. Để hiểu được các nguồn gốc của Keqiutou và Dabenkeng, chúng ta phải chờ đợi các sự khám phá tương lai tại miền nam Chiết Giang và miền bắc Phúc Kiến.
Tóm lại, đồ thời đại Đá mới sớm nhất tại Quảng Đông và Phúc Kiến (khu H) có thể bắt nguồn từ miền nằm giữa Dẫy Núi Lĩnh Nam và sông Dương Tử, đặc biệt vùng Gaomiao – Songxikou – Daxi và các ngoại diện phi nông nghiệp của Daxi (Exi facies) của miền Trung Lưu sông Dương Tử. Các diện mạo Gaomiao – Songxikou – Daxi và Exi đã phát triển từ các xã hội nông nghiệp khởi thủy tại các miền này, chẳng hạn như Pengtoushan – Zaoshi và Chengbeixi. Có lẽ nhờ ở các tài nguyên thiên nhiên phong phú và sự khan hiếm đất trồng trọt thực phẩm tại Dẫy Núi Lĩnh nam, việc săn bắn – thu hái đã trở thành cách sinh nhai quan trọng cho nhóm Gaomiao và việc canh tác tạm thời bị tối thiểu hóa (5000 – 3500 BC). Các cây lúa gạo hóa thạch không được xác định tại Gaomiao (He & Chen 2007) cho tới giai đoạn Qujialing, sau năm 3500 BC.
Vì thế, di vật Đá mới sớm nhất tại Quảng Đông và Phúc Kiến (khu H) có tính chất “ngoại lai” (exotic) nhưng ngược lại các di vật Đá mới sớm nhất tại Quảng Tây (khu F) xem ra có tính chất “bản địa” (indigenous), được phát triển trực tiếp từ các phức hợp khí cụ hình phiến và đá sỏi thuộc sơ kỳ Holocene tại địa phương Zengpiyan và Dayan. Sinh nhai bằng săn bắn và thu hái tiếp tục tại Phúc Kiến – Quảng Đông cho tới 3500 – 3000 BC, và tại Quảng Tây cho tới 4000 – 3500 BC. Cũng có ảnh hưởng quan trọng là sự suy giảm kế đó tại miền nam Trung Hoa thời đại Đá mới của cách sinh nhai bằng săn bắn – thu hái, về mặt các tần số sút giảm của các xương súc vật và vỏ sò, ốc. Tại Phúc Kiến, sự sút giảm này tiếp theo sau giai đoạn Keqiutou. Một sự sụt giảm tương tự xảy ra tại duyên hải Quảng Đông (Nishitani 1997) và cũng ở các vùng của các con sông Yuan River và Xia-Jiang dọc sông Dương Tử. Một khả tính là sự sụt giảm này đã phản ảnh một sự biến thiên về khí hậu (Zheng et al. 2004), nhưng chúng ta không thể quả quyết bởi điều này cũng có thể phản ảnh sự sử dụng gia tăng các tài nguyên nuôi trồng thuần hóa để sinh tồn.
Sau năm 8000 BC, một số lượng đáng kể dấu tích lúa gạo đã hiện diện tại nhiều khu định cư tại Thung Lũng Trung và Hạ Lưu sông Dương Tử (Zhang & Hung 2008a). Tại sao việc canh tác lúa gạo không vươn tới vùng Lĩnh Nam – Phúc Kiến mãi cho đến năm 3000 BC? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải cứu xét sự phát triển nông nghiệp tại ngay chính Lưu Vực sông Dương Tử, và tái duyệt bối cảnh văn hóa địa phương tại miền nam Trung Hoa. Trong các giai đoạn sớm hơn của nông nghiệp tại vùng Trung và Hạ Lưu sông Dương Tử, lúa gạo không chiếm một tỷ lệ cao trong sản lượng, và việc nuôi trồng đầy đủ hình thức chưa xảy ra cho mãi đến sau năm 5000 BC (Fuller et al. 2007). Trong một số trường hợp, chẳng hạn như Gaomiao, còn xuất hiện cả một sự biến thiên giữa săn bắn – thu hái và canh nông. Như chúng tôi đã trình bày trước đây (Zhang & Hung 2008a), các nông dân dần dần mở rộng các khu định cư của họ vào các khu vực chưa canh tác dọc theo các phụ lưu của sông Dương Tử. Nhưng vào khoảng 3000 BC, sự canh tác giống lúa gạo thuần hóa đã trở nên một hoạt động sinh nhai quan trọng, và sự canh tác trên đất cầy đã xuất hiện tại các địa điểm Liangzhu (khu A). Mật độ dân cư đã gia tăng trong các giai đoạn Trung và Hậu Kỳ Liangzhu và Sơ và Trung Kỳ Shijiahe. Cùng lúc, các văn hóa Zhangsidun và Fanchengdui (khu B) nằm giữa Trung và Hạ Lưu sông Dương Tử đã bắt đầu bành trướng về hướng nam. Cả hai văn hóa Tanshishan tại Phúc Kiến và Shixia tại Quảng Đông (khu H) đều chứa đựng nhiều đường nét văn hóa Liangzhu và Fanchengdui, chẳng hạn như đồ gốm ding [? phiên âm tiếng Hán trong nguyên bản, không rõ nghĩa, chú của người dịch] (có lẽ là cái Đỉnh) có hình bàn chân trông như vi cá, hu [phiên âm tiếng Hán trong nguyên bản, không rõ nghĩa, chú của người dịch] (có lẽ là một loại bình Hồ), và cong và yue [? phiên âm tiếng Hán trong nguyên bản, không rõ nghĩa, chú của người dịch] bằng ngọc thạch, đây là giai đoạn sớm nhất của văn hóa lúa gạo tại Phúc Kiến và Quảng Đông.
Sự xuất hiện của văn hóa lúa gạo tại Quảng Tây đưa đến một sự phát tán vế hướng nam sâu hơn vào nội địa và cách biệt từ văn hóa Quijialing (khu C) tại Thung Lũng Trung Lưu sông Dương Tử, xuyên qua trung lưu sông Yuan và các vùng Xiajiang với các nhóm người đi tiên phong. sự canh tác lúa gạo chính vì thế đã được truyền bá từ Quijialing vào Quảng Tây và Tứ Xuyên không mấy lâu trong thời gian sau khi vào vùng Phúc Kiến – Quảng Đông.
Từ Miền Nam Trung Hoa vào Đông Nam Á
Nông nghiệp thời đại Đá mới tại miền nam Trung Hoa lệ thuộc vào nhiều thứ hơn là chỉ vào việc canh tác lúa gạo. Các loại cây có củ (tubers) có thể cùng có tầm quan trọng (Tong 2004: 88-107). Không may, bằng chứng cung cấp duy nhất cho một sự hiện diện là các củ hóa than chưa được xác minh (có thể thuộc loại Dioscorea sp. và Colocasia sp.) đến từ Zengpiyanb tại Quảng Tây (IA. CASS et al. 2003: 343). Gần đây, lúa kê giai đoạn Daxi được tìm thấy tại Chengtoushan tại Thung Lũng Trung Lưu sông Dương Tử (Nasu et al. 2007a & b), nhưng trạng thái thuần hóa của sự khám phá này thì không chắc chắn. Như đã đề cập, các nông dân Yangshao (khu D) đã giới thiệu sự trồng trọt lúa kê vào miền bắc Tứ Xuyên khoảng 3000 BC (Chen. J. 2007) và sự trồng trọt lúa kê tại miền đông Tây Tạng có thể được truy tìm ngược về tới khoảng 2500 BC, nhưng cây kê đuôi chồn tại miền nam Trung Hoa cho đến nay chỉ thấy được báo cáo từ Gantuoyan tại miền tây Quảng Tây (ATGZ & Napo Museum 2003), và từ Nangualidong và Youxianfang tại miền nam Đài Loan (Tsang et al. 2006). Tuy nhiên, các sự khám phá này đã đủ để cho thấy rằng sự trồng trọt cây kê cũng là một phần của sự bành trướng canh nông vào miền nam Trung Hoa.
Chúng tôi tin rằng nông nghiệp đã đến một cách nhanh chóng vào vùng Lĩnh Nam – Phúc Kiến và tây nam Trung Hoa, đã sẵn được phát triển cao độ với các chủng loại được thuần hóa trọn vẹn có thể được di chuyển một cách thành công vào các môi trường mới và biến đổi. Một khi được du nhập, các sự phát triển văn hóa hơn nữa và sự gia tăng dân số đã diễn ra một cách mau chóng. Sau 2500 BC, văn hóa Huangguashan đã phát triển tại vùng Lĩnh Nam – Phúc Kiến (Lin 2005) và một loạt các văn hóa gốm “văn thừng mịn” (Fine Cord Marked) liên quan ở Đài Loan, văn hóa kể sau có lẽ liên can đến một số ảnh hưởng văn hóa thứ yếu hay sự di dân từ Phúc Kiến áp đặt lên trên sơ kỳ Đá mới Dabenkeng (Chang 1969). Tại Quảng Đông, các văn hóa đồ gốm có in hình kỷ hà được liên kết với một sự gia tăng rõ rệt trong số các địa điểm lớn (Zhao 1999). Các sưu tập Dalongtan (đều được gọi là văn hóa “Xẻng Đá Lớn” (Large Shovel) được phổ biến rộng rãi khắp Quảng Tây, miền tây Quảng Đông và Việt Nam ngày nay (Chen, Y. Z. 2006). So sánh với các sưu tập dân lục soát trước đây, các sự phát triển văn hóa trong giai đoạn này có kích cỡ chưa từng thấy.
Liên quan đến sự tăng trưởng mau chóng của dân số tại vùng Lĩnh Nam – Phúc Kiến và miền tây nam Trung Hoa, sự tăng trưởng nội bộ không thôi phát sinh từ sự du nhập việc canh tác lúa gạo không nhất thiết phải là nguyên do duy nhất. Nhiều bằng chứng khiến nghĩ rằng sư di dân về hướng nam đồng thời xẩy ra từ Trung và Hạ Lưu sông Dương Tử vào miền nam Trung Hoa, chính vì thế làm gia tăng dân số. Trong các giai đoạn Hậu Kỳ Liangzhu và Trung Kỳ Shijiahe, các văn hóa của Thung Lũng Trung và Hạ Lưu sông Dương Tử dần dần suy yếu, và các nhóm xuất hiện đã di chuyển vào các vùng núi nằm giữa sông Dương Tử và miền Lĩnh Nam – Phúc Kiến. Chính vì thế, văn hóa Shixia đã xuất hiện vào khoảng 2600 BC tại vùng núi phía bắc của Quảng Đông và vùng Wusaoling tại thung lũng sông Xi thuộc miền tây Quảng Đông và miền đông Quảng Tây. Các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy rằng văn hóa Shixia đã phát triển từ văn hóa Fanchengdui tại miền Trung Lưu sông Dương Tử - Gan-Bo, và Wusaoling từ sưu tập Daiziping tại Lưu Vực sông Xiang [Tương?] (He 1997). Ngoài ra, văn hóa Doupengpo đã xuất hiện tại thượng lưu cả hai sông Yuan và Zi thuộc miền bắc Quảng Đông (He 1997). Các văn hóa Đá mới này tại miền nam Trung Hoa chính vì thế đã tương liên trong vô số phương cách với các văn hóa của Thung Lũng sông Dương Tử.
Với dân số gia tăng tại Lĩnh Nam – Phúc Kiến và tây nam Trung Hoa, được hỗ trợ bởi việc canh tác hỗn hợp phát triển tốt đẹp và hoạt động săn bắn – thu hái liên tục, sự phát tán việc canh tác lúa gạo khởi sự từ miền nam Trung Hoa vào Đông Nam Á. Bằng chứng sớm nhất về lúa gạo tại Phi Luật Tân đến từ vùng Andarayan tại miền bắc Luzon, đựoc ấn định niên đại trực tiếp bởi AMS khoảng 2050 – 1400 cal BC (niên đại hiệu chỉnh TCN) (Snow et al. 1986). Nghiên cứu bởi tác giả Hung cho thấy rằng các khu định cư sớm nhất thời đại Đá mới tại miền bắc Luzon có thể truy tìm ngược đến Trung Kỳ Đá mới của miền đông Đài Loan, khoảng 2000 BC. Đồ gốm theo kiểu Đài Loan, đá nephrite [một loại ngọc thạch, chú của người dịch] Đài Loan, xương của các con lợn (heo) nhà, và các di tích lúa gạo được tìm thấy thuộc sơ kỳ Đá mới của miền bắc Luzon (Hung 2005, 2008; Bellwood & Dizon 2008; Piper et al. 2009). Chúng tôi tin rằng điều này đại diện cho sự khởi đầu của cuộc di dân của người nói tiếng Austronesian (Nam Đảo) từ Đài Loan vào vùng Đông Nam Á Hải Đảo. Tại Đông Nam Á Lục Địa, nền nông nghiệp sớm nhất, được ấn định niên đại khoảng 2500 – 2000 BC (Higham 2002). Tại miền bắc Việt Nam, khoảng 2000 BC, một số địa điểm của văn hóa Phùng Nguyên có gồm chứa lúa gạo liên kết với các ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ của miền nam Trung Hoa, chẳng hạn như đồ gốm với các dải khắc sâu được phủ đầy với các dấu in tinh xảo (Rispoli 2007), các rìu lưỡi vòm vai xuôi (shouldered adzes), các mũi tên bằng đá, các vòng đeo tay và hoa tai bằng ngọc thạch, và các đĩa lăn có con suốt làm đồ gốm(?) (Bellwood 2005: 131-2). Lúa gạo sớm nhất của Thái Lan có niên đại sau 2300 BC (Glover & Higham 1996). Phần lớn các khu định cư nông nghiệp tại Thái Lan có niên đại sau năm 2000 BC, chẳng hạn như Non Nok Tha, Ban Chiang, Non Kao Noi, Ban Non Wat và Ban Lum Khao (Higham 2004; Higham & Higham 2009).
Kết Luận
Việc canh tác lúa gạo đã được du nhập vào miền nam Trung Hoa khoảng 5000 – 2500 BC từ Thung Lũng Trung và Hạ lưu sông Dương Tử, có thể sớm hơn tại các vùng duyên hải. Các con đường trong nội địa và duyên hải cách biệt của sự bành trướng được nghĩ tiến lần lượt vào vùng Phúc Kiến – Quảng Đông và Quảng Tây và nhiều phần là mỗi vùng đã trải qua một tiến trình du nhập riêng biệt. Tại miền tây nam Trung Hoa, nông nghiệp diễn ra tại Tứ Xuyên, vào khoảng 3000 TCN và sau đó lan truyền sang Quí Châu và Vân Nam khoảng 2300 TCN. Sự lan truyền của nông nghiệp lúa gạo chính vì thế không phải là một biến cố đơn lẻ. Trong giai đoạn ban sơ, trước 3000 TCN, sự lan truyền diễn ra chậm chạp, gồm cả các sự quay trở về định kỳ cách sinh nhai phi nông nghiệp với một sự nhấn mạnh đến việc câu cá và săn bắn tại các khu vực ven biên với Lưu Vực chính của sông Dương Tử, chẳng hạn như các miền Trung Lưu sông Yuan và sông Xia-Jiang. Nhưng một khi các hệ thống nông nghiệp sông Dương Tử đã trở nên phát triển cao độ với các số ngũ cốc thu hoạch và súc vật nuôi trồng thuần hóa và có thể chuyển vận được, việc canh tác lúa gạo đã lan truyền rất mau chóng. Tiến trình lan truyền xuống hướng nam đã mang theo không chỉ kiến thức và kỹ thuật canh tác lúa gạo, mà còn cả khối dân số đáng kể. Bởi sự tăng trưởng phát sinh trong dân số canh tác tại miền nam Trung Hoa sau năm 2500 TCN, các văn hóa thời đại Đá mới của vùng Lĩnh Nam – Phúc Kiến và tây nam Trung Hoa đã lan truyền một cách mau chóng vào vùng Đông Nam Á./-
_____
Cảm Tạ
Chúng tôi cảm tạ các Giáo Sư Peter Bellwood và Martin Carver và hai vị thẩm duyệt ẩn danh về việc đã cho chúng tôi các sự bình luận vô giá trên bản thảo này. Chúng tôi cũng xin cảm tạ Tiến Sĩ Qin Ling về việc cung cấp một sự tham chiếu. Tác giả Zhang Chi muốn bày tỏ sự cám ơn đến dự án Khảo Cứu Nhân văn và Khoa Học Xã Hội (2009 – 2018) của Đại Học Peking về việc hỗ trợ cho cuộc nghiên cứu này. Tác giả Hsiao-chun Hung cảm tạ Đại Học Quốc Gia Úc Đại Lợi (Australian National University) về việc tài trợ cho cuộc nghiên cứu của bà tại Đông Á và Đông Nam Á.
Abbreviations: Các Chữ Viết Tắt
IA: Institute of Archaeology: Viện Khảo Cổ
ATGZ: Archaeological Team of the Guangxi Zhuang Autonomous Region: Toán Khảo Cổ Vùng Tự Trị Người Choang tỉnh Quảng Tây.
ATTGZ: Archaeological Training Team of the Guangxi Zhuang Municipality: Toán Huấn Luyện Khảo Cổ Của Thị Trấn Choang tỉnh Quảng Tây.
CASS: Chinese Academy of Social Science: Hàn Lâm Viện Trung Hoa về Khoa Học Xã Hội.
Kaogu: Kaogu (Archaeology): Khảo Cổ
Wenwu: Wenwu (Culture Relic): Di Tích Văn Hóa
Nanfang Wenwu: Nanfang Wenwu (Relics from South): Di Tích Từ Phương Nam.
AMO, Hong Kong: Antiquities and Monuments Office, Leisure and Cultural Services Department of Hong Kong: Văn Phòng Đồ Cổ và Đền Đài Kỷ Niệm, Ban Các Công Tác Văn Hóa và Giải Trí, Hồng Kông.
[Received: 27 February 2009; Accepted: 5 May 2009; Revised: 28 May 2009]
***
References: Tài Liệu Tham Khảo:
AMO, Hong Kong & IA, Henan 2004. Excavations at zone C02 and DII02 in Shaxia, Hong Kong. Huaxia Kaogu [Ancient Chinese Archaeology] 4:3-47 (bằng Hán tự).
ATGZ. 2000. Excavations at Jiangkou in Hengxian, Guangxi. Kaogu 1:12-21 (bằng Hán tự).
-- 2004. Excavations at Nanshawan in Xiangzhou, 1999-2000, in ATGZ (ed.) Guangxi Kaogu Wenji [Essays on Guangxi archaeology] 1:176-91. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
ATGZ & Cultural Relics Committee of Ziyuan. 2004. Excavations at Xiaojin in Ziyuan, Gangxi. Kaogu 3: 7-30 (bằng Hán tự).
ATGZ & Hengxian Museum. 2006. Excavations at Qiujiang in Hengxian, Guangxi, in ATGZ (ed.) Guangxi Kaogu Wenji [Essays on Guangxi archaeology] 2: 144-87. Beijing: Science (bằng Hán tự).
ATGZ & Napo Musuem. 2003. Excavations at Gantuoyan in Napo, Guangxi. Kaogu 10:35-56 (bằng Hán tự).
ATGZ, Nanning Museum & Wuming Institute of Culture and Relics. 2006. Cave burials at Bawang & Nongshan in Wuming, Guangxi, in ATGZ (ed.) Guangxi Kaogu Wenji [Essays on Guangxi archaeology] 2: 206-37. Beijing: Science (bằng Hán tự).
ATTGZ. 1975. Neolithic shell middens in Nanning, Guangxi. Kaogu 5:295-301 (bằng Hán tự).
BELLWOOD, P. 2005. First farmers. Oxford: Blackwell.
BELLWOOD, P. & E. DIZON. 2008 Austronesian cultural origins, in A. Sanchez-Mazas, R. Blench, M.D. Ross, I. Peiros & M. Lin (ed.) Past human migrations in East Asia: 23-39. London: Routledge.
Bu, G. 1999. Chronologies and genealogies of the Late Neolithic at the mouth of the Pearl River. Wenwu 11:48-56 (bằng Hán tự).
CHANG, K.C. 1969. Fengpitou, Tapenkeng and the prehistory of Taiwan. New Haven (CT): Yale University Press.
CHAO, C.Y. 1994. Excavations at Changguang in Taidon. Unpublished MA dissertation, National Taiwan University (bằng Hán tự).
CHEN, J. 2007. Boxi, Yingpanshan and Shawudu--the cultural development of Neolithic cultures in the Upper Min River. Kaogu Yu Wenwu [Archaeology and Cultural Relics] 5:65-70 (bằng Hán tự).
CHEN, Y.Z. 2006. Dalongtan assemblages in southern Guangxi, in IA, CASS (ed.) Prehistoric archaeology of South China and Southeast Asia: 409-20. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
CHEN, Z.S. 2006. Ten years of discoveries from prehistoric Fujian, 1996-2005. Journal of the Zhejiang Institute of Archaeology 8:275-83 (bằng Hán tự).
Committee of Relics in the Tibet Autonomous Region & Department of History, Sichúan University. 1985. Karuo in Changdu. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
CRAWFORD, G.W. & S. CHEN. 1998. The origins of rice agriculture: recent progress in East Asia. Antiquity 73: 858-66.
DIAMOND, J. & P. BELLWOOD. 2003. Farmers and their languages: the first expansions. Science 300: 597-603.
FULLER, D., E. HARVEY & L. QIN. 2007. Presumed domestication? Evidence for wild rice cultivation and domestication in the fifth millennium BC of the lower Yangtze region. Antiquity 81 : 316-31.
FULLER, D., L. QIN, Y. ZHENG, Z. ZHAO, X. CHEN, L.A. HOSOYA & G.P. SUN. 2009. The domestication process and domestication rate in rice: spikelet bases from the Lower Yangtze. Science 323: 1607-10.
GLOVER, I. & C. HIGHAM. 1996. New evidence for early rice cultivation, in D. Harris (ed.) The origins and spread of agriculture and pastoralism in Eurasia: 412-41. London: UCL Press.
Guangxi Team, IA, CASS, ATGZ & Nanning Museum. 1998. Excavations at Dingsishan in Yongning, Guangxi. Kaogu 11:11-33 (bằng Hán tự).
Guangxi Team, IA, CASS & ATGZ. 2003. Excavations at Baozitou in Nanning, Guangxi. Kaogu 10:22-34 (bằng Hán tự).
HE, G. 1997. Cultural relations of the middle-late Neolithic between the northern and southern Nanling Mountains, in the Association of Chinese Archaeology (ed.) The Ninth Annual Conference of Chinese Archaeology Association: 175-94. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
HE, G. & L.W. CHEN. 2007. Gaomiao and its influence and dispersal to other regions. Nanfang Wenwu 2: 51-60 (bằng Hán tự).
HIGHAM, C. 1996. The Bronze Age of Southeast Asia. Cambridge: Cambridge University Press.
-- 2002. Language and farming dispersals: Austroasiatic language and rice cultivation, in E Bellwood & C. Renfrew (ed.) Examining the farming/language dispersal hypothesis: 223-232. Cambridge: Cambridge University Press.
-- 2004. Mainland Southeast Asia from the Neolithic to the Iron Age, in I. Glover & P. Bellwood (ed.) Southeast Asia: from prehistory to history: 41-67. London: Routledge.
HIGHAM, C. & T. HIGHAM. 2009. A new chronological framework for prehistoric Southeast Asia, based on a Bayesian model from Ban Non Wat. Antiquity 83: 125-44.
HIGHAM, C. & T.L.D. LU. 1998. The origin and dispersal of rice cultivation. Antiquity 72: 867-77.
HUANG, S.C. 1984. Excavations at Zhishanyan. Taipei: Taipei Committee of Documents (bằng Hán tự).
HUNG, H.C. 2005. Neolithic interaction between Taiwan and northern Luzon. Journal of Austronesian Studies 1(1): 109-33.
-- 2008. Migration and cultural interaction in southern coastal China, Taiwan and the northern Philippines, 3000 BC to AD 100: the early history of the Austronesian-speaking populations. Unpublished PhD dissertation, Australian National University.
IA of CASS (ed.). 1991. 14C dates from Chinese archaeology, 1965-1991. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
IA of CASS, ATGZ, Zengpiyan Museum in Guilin, Archaeological Team of Guilin. 2003. Zengpiyan. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
IA, Guangdong. 2000. A century of Gangdong archaeology. Kaogu 6:1-10 (bằng Hán tự).
IA, Guangdong & Fengkai Museum. 1998. Excavations at Leizhukao, Fengkai in Guangdong. Wenwu 7: 38-41 (bằng Hán tự).
IA, Guizhou, Department of History, Sichúan University & Institute of Relic Preservation and Management, Weining. 2006. Excavations at Jigongshan, Weining, Guizhou in 2004. Kaogu 8: 11-27 (bằng Hán tự).
JIANG, L. & L. LIU. 2006. New evidence for the origins of sedentism and rice domestication in the Lower Yangtzi River, China. Antiquity 80: 355-61.
LI, K.C. 1985. Archaeological investigations in Kenting National Park at the southern tip of Taiwan. Taipei: National Taiwan University (bằng Hán tự).
LI, X.Q., X.Y. ZHOU, H.B. ZHANG, J. ZHOU, X. SHANG & J. DODSON. 2007. 5000 BP rice remains in northwest China. Chinese Science Bulletin 52(6): 673-8 (bằng Hán tự).
LI, Z. & K. YANG. 2006. Cave burials at Longshan and Bawang in Wuming, Guangxi and related problems, in IA of CASS (ed.) Prehistoric archaeology of south China and Southeast Asia: 421-34. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
LIN, G.W. 2005. The Neolithic in coastal Fujian. Fujian Wenbo 4: 41-50 (in Chinese).
LIU, Y.C. & S.Q. Guo. 2005. The significance of Fukuodun in Jinmen, in J.C.Y. Chen & J.G. Pan (ed.) The archaeology of the southeast coastal islands of China conference: 135-95. Mazu: County Government (bằng Hán tự).
LONDO, J.P., Y.C. CHIANG, K.H. HUNG, T.Y. CHIANG & B.A. SCHAAL. 2006. Phylogeography of Asian wild rice, Oryza rufipogon, reveals multiple independent domestications of cultivated rice, Oryza sativa. Proceedings of the National Academy of Sciences (USA) 103: 9578-83.
LU, L.D., Z.J. ZHAO & Z. ZHENG. 2005. The prehistoric and historic environments, vegetations and subsistence strategies at Sha Ha, Sai Kung, in AMO, Hong Kong (ed.) The ancient culture of Hong Kong: archaeological discoveries in Sha Ha, Sai Kung: 57-64. Hong Kong: AMO of Hong Kong.
MEACHAM, W. 1978. Shenwan, Lamma Island. Journal of the Hong Kong Archaeological Society 3: 1-293.
NASU, H., A. MOMOHARA & Y. YASUDA. 2007a. Habitats of rice cultivation from plant macrofossil assemblages at Chengtoushan, in J.J. He & Y. Yasuda (ed.) Chengtoushan in Lixian: 90-97. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
NASU, H., A. MOMOHARA, Y. YASUDA & J. HE. 2007b. The occurrence and identification of Setaria italica (L.) P. Beauv. (foxtail millet) grains from the Chengtoushan site (ca. 5800 cal BP) in central China, with reference to the domestication centre in Asia. Vegetation History and Archaeobotany 16(6): 481-94.
NISHITANI, M. 1997. The Neolithic in coastal southern China. Bulletin of the National Museum of Japanese History 70:1-56 (bằng tiếng Nhật).
NGUYEN, V.T. 2006. Da But in Vietnam, in IA of CASS (ed.) Prehistoric archaeology of South China and Southeast Asia: 341-6. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
PEI, A.P. 1999. Xiantouling assemblage in the Zhu estuary. Dongnan Kaogu Yanjiu [Study of Southeast Archaeology] 2:117-28 (bằng Hán tự).
PIPER, P., H.C. HUNG, F.Z. CAMPOS, P. BELLWOOD & R. SANTIAGO. 2009. A 4000 year-old introduction of domestic pigs into the Philippine archipelago: implications for understanding routes of human migration through Island Southeast Asia and Wallacea. Antiquity 83: 687-95.
Relics from the South. 2007. New discoveries from the south in 2006. Nanfang Wenwu 4:29 (bằng Hán tự).
RISPOLI, F. 2007. The incised and impressed pottery style of Mainland Southeast Asia: following the paths of Neolithization. East and West 57(1-4): 235-304.
SNOW, B.E., R. SHUTLER, D.E. NELSON, J.S. VOGEL & J.R. SOUTHON 1986. Evidence of early rice cultivation in the Philippines. Philippine Quarterly of Culture and Society 14:3-11.
TONG, E.Z. 2004. Nanfang Wenming [Southern civilization]. Chongqing: Chongqing (bằng Hán tự).
TSANG, C.H. 1999. Archaeology of Taiwan. Taipei: Council for Cultural Affairs (bằng Hán tự).
--2007. Recent archaeological discoveries in Taiwan and northern Luzon, in S. Chiu & C. Sand (ed.) From Southeast Asia to the Pacific: 75-103. Taipei: Academia Sinica.
TSANG, C.H., K.T. LI & C.Y. CHU. 2006. Xian Min Lu Ji [Footprints of our ancestors]. Tainan: County Government (bằng Hán tự).
WANG, W.L. 2003. Banpo and the related problems, in Province Administration of Cultural Heritage in Shanxi, IA in Shanxi & Banpo Museum (ed.) Zhongguo Shiqian Kaoguxu Yanjiu [Archaeological Studies of Chinese Prehistory: Papers in Honour of Professor Shi Xing-bang]: 203. Xian: Sanqin (bằng Hán tự).
XIANG, A.Q. 2005. Archaeological research on prehistoric rice farming in Guangdong. Agricultural Archaeology 2005(1): 149-55 (bằng Hán tự).
XIANG, A.Q. & J.H. YAO. 2006. Cultivated rice in Xinghuahe. Nongye Kaogu [Agricultural Archaeology] 1:33-45 (in Chinese).
XIAO, M.H. 2001. A brief report on Yunnan archaeology. Kaogu 12:3-15 (bằng Hán tự).
YAN, W.M. 1989. Rethinking the origins of rice agriculture. Nongye Kaogu [Agricultural Archaeology] 2:72-83 (bằng Hán tự).
YANG, S.T. 1978. Cultivated rice in Shixia. Wenwu 7: 23-8 (bằng Hán tự).
--1998. The Neolithic cultural relation between Guangdong and its surrounding regions, in S.T. Yang (ed.) Lingnan Wenwu Kaogu Lunji [Lingnan Relic Archaeology Papers]: 271-81. Guangzhou: Guangdong Dim (bằng Hán tự).
YUAN, J., R. FLAD & Y.B. LUO. 2008. Meat--acquisition patterns in the Neolithic Yangzi river valley, China. Antiquity 82: 351-66.
Yunnan Museum. 1981. Baiyangcun in Binchúan, Yunnan. Kaogu Xuebao (Acta Archaeological Sinica) 3:365-6 (bằng Hán tự).
ZHANG, C. & H.-C. HUNG. 2008a. The Neolithic of southern China--origin, development and dispersal. Asian Perspectives 47(2): 299-329.
--2008b. The hunter-gatherer groups in southern China and its adjacent regions during the Neolithic. Kaoguxue Yanjiu [Archaeology Studies] 7: 415-34 (bằng Hán tự).
ZHANG, W.X. & H. WANG. 2000. Ancient rice in Qingyang, Gansu. Nongye Kaogu [Agricultural Archaeology] 3: 80-85 (bằng Hán tự).
ZHANG, W.X., A.Q. XIANG, L.C. QIU & S.T. YANG. 2006. Ancient rice from Shixia ruins at Maba of Qujiang in Guangdong Province. Acta Agronomica Sinica 32(11): 1695-8 (bằng Hán tự).
ZHAO, H. 1999. Geometric impressed pottery in the Pearl River delta, in Z.Y. XU & Z.P. Zhang (ed.) Rethinking cross-century archaeology in China 1: 221-50. Hong Kong: The Commercial Press (bằng Hán tự).
ZHAO, Z.J. 1998. The Middle Yangtze region in China is one place where rice was domesticated: phytolith evidence from the Diaotonghuan Cave, Northern Jiangxi. Antiquity 72: 885-97.
--2006. Rethinking the primary agriculture in southern China, in IA, CASS (ed.) Prehistoric archaeology of South China and Southeast Asia: 145-56. Beijing: Wenwu (bằng Hán tự).
ZHAO, Z.J., T.L.D. LU & X.G. FU. 2005. Phytoliths from Dingsishan, Yungning, Guangxi. Kaogu 11: 76-84 (bằng Hán tự).
ZHENG, Z., Y. DENG, H. ZHANG, R. YU & Z. CHEN. 2004. Holocene environmental changes in the tropical and subtropical areas of the southern China and the relation to human activities. Quaternary Sciences 24(4): 387-93 (bằng Hán tự).
ZHU, ES. 2001. The cultural relation between Shixia and the Zhu River delta, in IA, Guangdong (ed.) Essays of the Tenth Anniversary of the Institute of Archaeology, Guangdong: 24-63. Guangzhou: Lingnan Meishu (bằng Hán tự).
Zhuhai Museum, IA in Guangdong & Guangdong Museum. 1991. Excavation at Caotangwan in Sanzaodao, in Zhuhai Museum (ed.) Archaeological discovery and research in Zhuhai: 22-33. Guangzhou: Guangdong Renmin (bằng Hán tự).
ZOU, H.B., J.X. GU, M.C. D, L.H. TANG, J.L. DING & Q.D. YAO. 2000. Findings in the paddies of Majiabang Culture at Caoxieshan, Jiangsu, in W.M. Yan & Y. Yasuda (ed.) The origins of rice agriculture, pottery and cities: 97-114. Beijing: Wenwu Press (bằng Hán tự).
_____
Zhang Chi (1) & Hsiao-chun (2)
(1) School of Archaeology and Museology, Peking University, Beijing 100871, P. R. China
(2) School of Archaeology and Anthropology, A.D. Hope Building 14, The Australian National University, Canberra, ACT 0200, Australia
_____
Nguồn: Zhang Chi & Hsiao-chun Hung, The Emergence of agriculture in southern China, ANTIQUITY 84 (2010): 11-25.
*****
PHỤ LỤC CỦA NGƯỜI DỊCH:
Bản Đồ Di Dân &Định Cư của Người Hiện Đại
Nguồn: Brian M. Fagan (University of California, Santa Barbara), World Prehistory, A Brief Introduction, Fifth Edition, Upper Saddle River, New Jersey: Prentice Hall, 2002, trang 99.