Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

DÂN XỨ NẨU




Ca dao Nam Trung bộ có nhiều câu xứng đáng là những viên ngọc  trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam:

-         Ai về nhắn với nậu nguồn
 Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên

-         Thuốc ngon chợ huyện
Giấy quyến Sa Huỳnh
Nẩu xa, mược nẩu, hai đứa mình đửng xa

Một trong những dấu hiệu xác định nguồn gốc Nam trung bộ của mấy câu ca dao trên đây là các từ nậu, nẩu, đửng, mược.
Hoàn cảnh chính trị xã hội cũng như một vài sắc thái riêng trong cách phát âm của người Nam Trung bộ đã dẫn đến sự xuất hiện của những từ này.
Số là, suốt mấy thế kỷ từ sau khi Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) vượt Hoành Sơn vào trấn thủ Thuận Hoá (1558) tìm đất “vạn đại dung thân”, vùng đất Nam – Ngãi – Bình – Phú đóng vai trò một hành lang chiến lược để thực hiện công cuộc Nam tiến, đồng thời là một hậu cứ quan trọng để gây dựng thanh thế, đối đầu với tập đoàn Lê Trịnh ở Đàng ngoài.
Mặt khác, do vị trí của dải đất này tương đối xa cách dinh Phú Xuân – nơi đóng đại bản doanh của các chúa Nguyễn, lại tiếp giáp với vùng cao nguyên rộng lớn và hiểm yếu ở phía tây nên thường có những cuộc nổi dậy của người miền Thượng và những vụ bạo loạn nhằm tranh đoạt quyền lực của các thế lực phong kiến các cứ, mà điển hình là vụ Vân Phong (1629) và vụ Tống Phước Thiện (1707) ở dinh Trấn Biên (Phú Yên ngày nay).
Trước tình thế như vậy, các chúa Nguyễn không còn cách nào khác là phải tăng cường quyền lực của chính quyền Phú Xuân, dẹp yên bạo loạn, nắm chắc các làng ấp ở vùng đất đang cần sự ổn định để tiếp tục đi xa hơn vào phía Nam.
Năm 1720, theo lệnh Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725), Diên Tường Nam Nguyễn Khoa Đăng tiến hành chia lập các đơn vị hành chính từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, đặt ra các đơn vị hành chính gọi là Thuộc, dưới thuộc là các đơn vị Thôn, Phường, Nậu, Man. Đến năm 1726, Nguyễn Phúc Chu (1697 – 1738) lại cử Đại Ký lục chính dinh Nguyễn Đăng Đệ vào định rõ chức vụ cho các đơn vị ấy. Theo đó, Nậu là tổ chức quản lý một nhóm người cùng làm một nghề, đứng đầu là người có chức danh đầu nậu, như nậu rớ  (nhóm người đánh cá bằng rớ ở vùng nước lợ), nậu rỗi (buôn bán cá), nậu nại (làm muối),  nậu nguồn (buôn bán, đổi hàng ở miền Thượng), ...
Có câu hát tự hào của người làm muối vùng Diên Điền, phía đông huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi:

  Nậu nại tui dại như trâu
  Trưa tròn con bóng vác đầu ra phơi.

Nậu, nguyên nghĩa là làm cỏ ruộng, rồi chỉ làng xóm và sau nữa thành tên của một đơn vị hành chính. Cách nay không lâu, người làm ruộng ở vùng Nam Trung bộ thường sử dụng một dụng cụ gọi là nạo để làm cỏ lúa. Nậu là do nạo mà ra chăng?
Do những biến đổi chính trị - xã hội, đơn vị hành chính nậu bị xoá bỏ, cơ sở hiện thực của khái niệm “nậu” không còn nữa. Song, khái niệm này lại được “mượn” để biểu đạt một thực thể tương ứng: một nhóm người, ở đâu đó hoặc làm một việc gì đó. Kết quả, là bên cạnh nậu nguồn, nậu rỗi... lại có thêm nậu xóm trên, nậu hàng xén... và nếu như nguồn, rỗi... đã kết hợp với nậu để trở thành các danh từ ghép (kết hợp bền vững) thì hàng xén, xóm trên... chỉ là những định ngữ tuy vẫn chứa đựng khả năng kết hợp với nậu để trở thành danh từ ghép.
Nói khác đi, sự biến mất của cơ sở hiện thực (đơn vị hành chính bị xoá bỏ), đã khiến cho nội hàm của khái niệm nậu bị thu hẹp, gây ra trống nghĩa và có khả năng làm cho nậu bị khai tử trong hoạt động  ngôn ngữ, như trường hợp từ thuộc (chỉ một đơn vị hành chính lớn hơn) ra đời cùng lúc với nó. Nhưng nậu đã còn lại vì được mở rộng ngoại diên bằng cách kết hợp với các định ngữ như đã nói trên. Điều này cũng cho thấy vì sao trong phương ngữ Nam Trung bộ hiện nay, nậu không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ:

- Mất chồng như nậu mất trâu
Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm

- Tiếc công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu...

Trong phương ngữ Nam Trung bộ, có kiểu hình thành từ mới bằng cách biến thanh, cụ thể là thay các thanh khác của gốc bằng thanh hỏi (?), ví dụ: chị -> chỉ (chị ấy); anh -> ảnh (anh ấy), đừng -> đửng (đừng có); ... Theo cách này, nậu đã có một biến thể là nẩu (nậu ấy), nghĩa tương đương trong tiếng Việt phổ thông là: ai đó, những ai đó, họ, thiên hạ, người ta... (Đại từ nhân xưng, ngôi thứ 3, số nhiều).

Thương chi cho uổng tấm tình
Nẩu về xứ nẩu bỏ mình bơ vơ
Về ký tự, một số cách xuất bản gần đây ghi là nẫu (thanh ngã). Thực ra, người Nam trung bộ nói riêng, người miền Nam (phía nam đèo Hải Vân trở vào) nói chung, khi phát âm không phân biệt  thanh hỏi (?) và thanh ngã (~). Nói chính xác, ngữ âm miền Nam không xuất hiện thanh ngã (~), tất cả các từ có thanh ngã trong tiếng Việt phổ thông đều được chuyển sang thanh hỏi (?) khi phát âm. Tiếng Việt phổ thông lại đã có từ nẫu (trái cây chín nẫu, buồn đến nẫu ruột). Vì vậy chúng tôi ghi từ nẩu của phương ngữ Nam Trung bộ bằng thanh hỏi để thể hiện sắc thái ngữ âm đúng với thực tế hoạt động ngôn ngữ đồng thời khu biệt với từ nẫu (thanh ngã) trong tiếng Việt phổ thông.
Thời kỳ, “hội chứng nhập” lan tràn cả nước (nhập tỉnh, nhập huyện, nhập xã), các đơn vị hành chính – lãnh thổ trở nên quá rộng, quá to, vượt khỏi khả năng và điều kiện quản lý, khiến nảy sinh tư tưởng cục bộ, địa phương. Lúc bấy giờ có câu ca dân gian khá phổ biến, vừa phê phán tư tưởng thiển cận, hẹp hòi này, vừa gián tiếp chỉ ra sự “bất cập” của việc sáp nhập tùm lum:

Tỉnh dài, huyện rộng, xã to
               Nẩu lo phần nẩu, mình lo phần mình

Câu ca hẳn xuất hiện ở 2 tỉnh Nghĩa Bình và Phú Khánh (cũ) vì 2 tỉnh này vừa “dài dằng dặc” như các tỉnh ven biển miền Trung khác, vừa là vùng mà nẩu đã trở thành một thứ của riêng, riêng đến nổi thiên hạ gọi đùa là “dân xứ nẩu”!

                                                              Lê Hồng Khánh
Cám ơn tác giả đã gửi bài 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét