Ca dao Nam Trung bộ có nhiều câu xứng đáng là những viên ngọc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam:
-
Ai về
nhắn với nậu nguồn
Mít
non gởi xuống, cá chuồn gởi lên
-
Thuốc
ngon chợ huyện
Giấy quyến Sa Huỳnh
Nẩu xa, mược nẩu, hai đứa mình đửng xa
Một trong những dấu hiệu xác định nguồn gốc Nam
trung bộ của mấy câu ca dao trên đây là các từ nậu, nẩu, đửng, mược.
Hoàn cảnh
chính trị xã hội cũng như một vài sắc thái riêng trong cách phát âm của người
Nam Trung bộ đã dẫn đến sự xuất hiện của những từ này.
Số là, suốt mấy thế kỷ từ sau khi Nguyễn
Hoàng (1525 – 1613) vượt Hoành Sơn vào trấn thủ Thuận Hoá (1558) tìm đất “vạn
đại dung thân”, vùng đất Nam – Ngãi – Bình – Phú đóng vai trò một hành lang
chiến lược để thực hiện công cuộc Nam tiến, đồng thời là một hậu cứ quan trọng
để gây dựng thanh thế, đối đầu với tập đoàn Lê Trịnh ở Đàng ngoài.
Mặt khác, do vị trí của dải đất này tương đối
xa cách dinh Phú Xuân – nơi đóng đại bản doanh của các chúa Nguyễn, lại tiếp
giáp với vùng cao nguyên rộng lớn và hiểm yếu ở phía tây nên thường có những
cuộc nổi dậy của người miền Thượng và những vụ bạo loạn nhằm tranh đoạt quyền
lực của các thế lực phong kiến các cứ, mà điển hình là vụ Vân Phong (1629) và
vụ Tống Phước Thiện (1707) ở dinh Trấn Biên (Phú Yên ngày nay).
Trước tình thế như vậy, các chúa Nguyễn không
còn cách nào khác là phải tăng cường quyền lực của chính quyền Phú Xuân, dẹp
yên bạo loạn, nắm chắc các làng ấp ở vùng đất đang cần sự ổn định để tiếp tục
đi xa hơn vào phía Nam.
Năm 1720, theo lệnh Nguyễn Phúc Chu (1675 –
1725), Diên Tường Nam Nguyễn Khoa Đăng tiến hành chia lập các đơn vị hành chính
từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, đặt ra các đơn vị hành chính gọi là Thuộc,
dưới thuộc là các đơn vị Thôn, Phường, Nậu, Man. Đến năm 1726, Nguyễn Phúc Chu
(1697 – 1738) lại cử Đại Ký lục chính dinh Nguyễn Đăng Đệ vào định rõ chức vụ
cho các đơn vị ấy. Theo đó, Nậu là tổ chức quản lý một nhóm người cùng
làm một nghề, đứng đầu là người có chức danh đầu nậu, như nậu rớ (nhóm người đánh cá bằng rớ ở vùng nước lợ), nậu
rỗi (buôn bán cá), nậu nại (làm muối), nậu nguồn (buôn bán, đổi hàng ở miền
Thượng), ...
Có câu hát tự hào của người làm muối vùng
Diên Điền, phía đông huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi:
Nậu
nại tui dại như trâu
Trưa
tròn con bóng vác đầu ra phơi.
Nậu, nguyên nghĩa là làm cỏ ruộng, rồi chỉ
làng xóm và sau nữa thành tên của một đơn vị hành chính. Cách nay không lâu,
người làm ruộng ở vùng Nam Trung bộ thường sử dụng một dụng cụ gọi là nạo
để làm cỏ lúa. Nậu là do nạo mà ra chăng?
Do những biến đổi chính trị - xã hội, đơn vị
hành chính nậu bị xoá bỏ, cơ sở hiện thực của khái niệm “nậu” không còn
nữa. Song, khái niệm này lại được “mượn” để biểu đạt một thực thể tương ứng:
một nhóm người, ở đâu đó hoặc làm một việc gì đó. Kết quả, là bên cạnh nậu
nguồn, nậu rỗi... lại có thêm nậu xóm trên, nậu hàng xén...
và nếu như nguồn, rỗi... đã kết hợp với nậu để trở thành các danh từ
ghép (kết hợp bền vững) thì hàng xén, xóm trên... chỉ là những
định ngữ tuy vẫn chứa đựng khả năng kết hợp với nậu để trở thành danh từ
ghép.
Nói khác đi, sự biến mất của cơ sở hiện thực
(đơn vị hành chính bị xoá bỏ), đã khiến cho nội hàm của khái niệm nậu bị
thu hẹp, gây ra trống nghĩa và có khả năng làm cho nậu bị khai tử trong
hoạt động ngôn ngữ, như trường hợp từ thuộc
(chỉ một đơn vị hành chính lớn hơn) ra đời cùng lúc với nó. Nhưng nậu
đã còn lại vì được mở rộng ngoại diên bằng cách kết hợp với các định ngữ như đã
nói trên. Điều này cũng cho thấy vì sao trong phương ngữ Nam Trung bộ hiện nay,
nậu không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ:
- Mất chồng như nậu mất trâu
Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm
- Tiếc công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu...
Trong phương ngữ Nam Trung bộ, có kiểu hình
thành từ mới bằng cách biến thanh, cụ thể là thay các thanh khác của gốc bằng
thanh hỏi (?), ví dụ: chị -> chỉ (chị ấy); anh -> ảnh (anh ấy), đừng
-> đửng (đừng có); ... Theo cách này, nậu đã có một biến thể là nẩu (nậu
ấy), nghĩa tương đương trong tiếng Việt phổ thông là: ai đó, những ai đó, họ,
thiên hạ, người ta... (Đại từ nhân xưng, ngôi thứ 3, số nhiều).
Thương chi cho uổng tấm tình
Nẩu về xứ nẩu bỏ mình bơ vơ
Về ký tự, một số cách xuất bản gần đây ghi là
nẫu (thanh ngã). Thực ra, người Nam
trung bộ nói riêng, người miền Nam
(phía nam đèo Hải Vân trở vào) nói chung, khi phát âm không phân biệt thanh hỏi (?) và thanh ngã (~). Nói chính
xác, ngữ âm miền Nam không xuất hiện thanh ngã (~), tất cả các từ có thanh ngã
trong tiếng Việt phổ thông đều được chuyển sang thanh hỏi (?) khi phát âm.
Tiếng Việt phổ thông lại đã có từ nẫu (trái cây chín nẫu, buồn đến nẫu ruột).
Vì vậy chúng tôi ghi từ nẩu của phương ngữ Nam Trung bộ bằng thanh hỏi
để thể hiện sắc thái ngữ âm đúng với thực tế hoạt động ngôn ngữ đồng thời khu
biệt với từ nẫu (thanh ngã) trong tiếng Việt phổ thông.
Thời kỳ,
“hội chứng nhập” lan tràn cả nước (nhập tỉnh, nhập huyện, nhập xã), các đơn vị
hành chính – lãnh thổ trở nên quá rộng, quá to, vượt khỏi khả năng và điều kiện
quản lý, khiến nảy sinh tư tưởng cục bộ, địa phương. Lúc bấy giờ có câu ca dân
gian khá phổ biến, vừa phê phán tư tưởng thiển cận, hẹp hòi này, vừa gián tiếp
chỉ ra sự “bất cập” của việc sáp nhập tùm lum:
Tỉnh dài, huyện rộng, xã to
Nẩu lo phần nẩu, mình lo phần mình
Câu ca hẳn xuất hiện ở 2 tỉnh Nghĩa Bình và
Phú Khánh (cũ) vì 2 tỉnh này vừa “dài dằng dặc” như các tỉnh ven biển miền
Trung khác, vừa là vùng mà nẩu đã trở thành một thứ của riêng, riêng đến
nổi thiên hạ gọi đùa là “dân xứ nẩu”!
Lê Hồng Khánh
Cám ơn tác giả đã gửi bài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét