Tác giả: Lê Hồng
Khánh
1)
Đôi điều về và với nhóm EFEO:
Từ khoảng cuối năm 2005, một
nhóm nghiên cứu, dẫn đầu là tiến sỹ
Andrew Hardy, quốc tịch Anh, Trưởng đại diện Trung tâm Viện Viễn đông bác cổ
Pháp (Centre de L’école francaise d’Extrêm – Orient) tại Hà Nội và Tiến sỹ
Nguyễn Tiến Đông, quốc tịch Việt Nam, hiện làm việc tại Viện khảo cổ học Việt
nam (sau đây gọi tắt là nhóm EFEO), đã đến Quảng Ngãi và xúc tiến khảo sát,
nghiên cứu Tĩnh Man Trường Luỹ (thường được gọi tắt là Trường Luỹ), một công
trình quân sự hình thành đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, ở miền Tây Quảng
Ngãi. Vào thời điểm đó và kéo dài cho đến đầu năm 2010, tên công trình nầy được
nhóm nghiên cứu gọi một cách dè dặt là “Bờ Luỹ”, (dù vẫn dịch sang tiếng Pháp
bằng cụm từ longue muraille du Quang Ngai
) thay cho tên gọi chính thức vốn được
ghi rõ trong các bộ chính sử của nhà nước Đại Nam và cũng không lạ gì với A.
Hardy và Nguyễn Tiến Đông. Công lao cần được ghi nhận của nhóm EFEO là họ đã
tiến hành điều tra, khảo sát một cách khoa học và đa ngành (khảo cổ học, dân
tộc học, folklore học,…), đồng thời trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đưa ra một
số giả thuyết về Trường Luỹ, gợi mở nhiều hướng tiếp cận các lĩnh vực chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hoá gắn với vùng cao Quảng Ngãi (và theo đó là Quảng
Nam và Bình Định) suốt gần trọn thế kỷ XIX, rồi theo vết loang lịch sử, một
vài vấn đề thuộc các lĩnh vực nầy còn
kéo dài đến tận ngày nay, và dĩ nhiên, ít hoặc nhiều, tác động lên xã hội miền
Thượng vào thời chúng ta đang sống. Hơn thế nữa, nhờ vào những lợi thế riêng, nhóm
EFEO đã đặt ra một chủ đề nghiên cứu nghiêm túc, thu hút sự quan tâm của các
nhà chuyên môn và giới truyền thông, về một công trình dường như nằm trong khu
vực “nhạy cảm” về chính trị, trong bối cảnh những vấn đề về dân tộc - tôn giáo
có lúc “cộm” lên ở Tây Nguyên và vùng cao các tỉnh Nam Trung bộ, trong đó có
vùng cư trú của đồng bào Hre. Những gợi ý của nhóm EFEO, thông qua thực tiễn,
về cách thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học; tính
công khai, dân chủ và sẵn sàng tranh luận trong suốt quá trình làm việc để cùng
hướng đến hiệu quả cao nhất của chương trình, là điều rất đáng trân trọng.
Đã từng cộng tác với họ, trong một
khoảng thời gian và ở một số lĩnh vực nhất định, chúng tôi hiểu và thông cảm
những nhọc nhằn mà họ phải chịu đựng, những khó khăn ban đầu tưởng không thể
vượt qua, những nghi ngờ mà đến tận lúc nầy vẫn chưa chắc đã được giải toả rốt
ráo. Một trong những lý do thôi thúc viết bài nầy, chính là sự tôn trọng của
chúng tôi giành cho họ, trên bình diện khoa học, cũng như trên quan hệ con
người, với Andrew Hardy, Nguyễn Tiến Đông cùng các cộng sự và học trò của hai
người, thuộc nhiều quốc tịch. Các nhà nghiên cứu và bạn đọc muốn biết nhóm EFEO
đã làm gì, làm như thế nào và đạt những thành tựu ra sao, tốt nhất xin hãy đọc các báo cáo mà họ đã công bố. Bài
viết của chúng tôi chỉ nêu lên một vài ý kiến có tính chủ quan, khi đối chiếu
những điều được nhóm EFEO trình bày trong các báo cáo của họ và rất nhiều bài
báo của các đồng nghiệp, báo viết lẫn báo mạng, đã cho đăng tải. Thấy như có
một sự “lệch pha” nhất định khiến có thể dẫn đến vài nghi hoặc về phía độc giả
và giới chuyên môn. Lại cũng thấy có những điều cần trao đổi, thậm chí tranh
luận - một cách thức tiếp cận chân lý mà Andrew Hardy vốn rất thích thú, về
những giả thuyết mà họ đã nêu ra.
Nghi hoặc là một trong những tiền đề
của lý hoặc. Có nghi hoặc mới có lý hoặc. Vậy nên chúng tôi mạo muội trình bày
thiển ý của mình, như thể là người mở chuyện để đưa đến những trao đổi khoa
học, chân tình, ngỏ hầu tiếp nhận cao kiến của các đồng nghiệp, các nhà nghiên
cứu, các bậc thức giả và đông đảo bạn đọc quan tâm đến vấn đề Trường Luỹ và
lịch sử vùng cao Quảng Ngãi.
2.
Phát hiện Trường Luỹ?
Liên tục
những ngày sau cuộc toạ đàm về Trường Luỹ lần thứ 3, tổ chức tại khách sạn Hùng
Vương (TP Quảng Ngãi) ngày 16/4/2010, với sự hiện diện của nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước, báo chí trong nước, kể cả báo viết lẫn báo mạng, đưa tin dồn
dập về Trường Luỹ, và theo đó là những xác quyết rằng nhóm EFEO
đã
“phát hiện” ra Trường Luỹ(!)
Sự thật
là, suốt một thời gian dài, không một tài liệu nào xuất bản trong nước, thậm
chí ngay tại Quảng Ngãi, đề cập đến Trường Luỹ, dù chỉ là những dòng vắn tắt.
Cuốn sách Quảng Ngãi – Đất nước – Con người
– Văn hoá (Sở Văn hoá Thông tin Quảng Ngãi tổ chức biên soạn và xuất bản lần
đầu năm 1997, tái bản năm 2001) do một nhóm các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá
từ trung ương và địa phương ra công biên soạn, hiệu đính, mà lạ thay, Trường Luỹ
đã không được nhắc đến, dù chỉ một dòng, mặc cho cái “sự vật - hiện chứng lịch
sử” ấy đã và đang sừng sững, trơ gan cùng tuế nguyệt. Mặc khác, dù không ít người
làm báo, nghiên cứu lịch sử đã đi lại, điền dã, khảo sát rất nhiều lần ở miền
Tây Quảng Ngãi, nhưng thật khó nói vì sao một dãi luỹ chạy dài hàng trăm cây số, cao
đến vài ba mét, được nhắc đi, nhắc lại hàng ngày trong lời ăn tiếng nói của người
bản địa, đã không được để ý đến. Vì sự “nhạy cảm” đã nói trên kia hay vì lý do
nào khác?
Có lẻ,
vì sự “xa lánh” Trường Luỹ như vậy mà khi đọc/nghe bản báo cáo do A. Hardy và
Nguyễn Tiến Đông chấp bút, rất nhiều người ngộ nhận nhóm EFEO đã “phát hiện” Trường Luỹ và vội vã
tung hô, theo cái cách mà họ - những nhà khoa học chững chạc ấy, không hề chờ đợi.
Tuy
nhiên, với những ai đã đọc qua một số sách, bài biên khảo, tài liệu lịch sử về
Quảng Ngãi hoặc có liên quan đến Quảng Ngãi đã xuất bản trước đây, bằng chữ Hán
(Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục,
Đồng Khánh địa dư chí, Quảng Ngãi tỉnh chí,..), chữ Pháp (Notice ethnique sur les Mọi de la resgion de
Quang Ngai, Les Moi du Sơn Phòng, Le poste administratif de Làng Rí (Quang
Ngai), Les Jungles Moi,..), chữ Quốc ngữ (Quảng Ngãi nhất thống chí, Non nước xứ Quảng,..) đều không lạ gì sự
hiện diện của Trường Luỹ ở miền Tây Quảng Ngãi. Gần đây nhất, trong bộ sách Địa chí Quảng Ngãi (xuất bản năm 2008),
Trường Luỹ, và theo đó là Sơn phòng, cũng đã được đề cập ở mức độ đủ để người đọc
không còn cho là Trường Luỹ chỉ được phát hiện vào thế kỷ…21!
Người
viết bài nầy xin phép A. Hardy và Nguyễn Tiến Đông, được nhắc lại, một lần duy
nhất và cần thiết, tại đây, điều mà chúng ta, vốn đã mặc nhiên xác quyết, không
một lời bàn cãi, rằng các vị đã nghiên cứu Trường Luỹ rất công phu, công phu nhất
từ trước đến nay, nhưng “phát hiện Trường Luỹ”
hẳn là một câu chuyện khác!
3. Chiều dài Trường Lũy là bao nhiêu?
Trong
các báo cáo của mình, nhóm
EFEO nêu
phỏng đoán Trường Luỹ dài khoảng 200 km. Từ đây, hầu hết các bài viết đều cho rằng
200 km, hoặc nhiều hơn, chính là chiều dài của luỹ. Thậm chí có bài báo còn cho
rằng, chiều dài nầy lên đến “gần 500km”. Được biết nhóm EFEO đang
tiến hành đo đạt thực địa, vẽ bản đồ Trường Luỹ bằng công nghệ định vị GPS (Global Positioning System – Hệ thống định vị toàn cầu) , và
điều nầy, hiển nhiên sẽ cho chúng ta những kết quả khá chính xác về tổng chiều
dài Trường Luỹ. Nhưng từ lúc nầy đến khi chiều dài của Trường Luỹ được công bố
chính thức, chúng tôi (LHK), qua việc tìm hiểu các tài liệu lịch sử, phán
đoán và phân tích những dữ kiện có được,
cho rằng chiều dài Trường Luỹ chỉ ở mức xấp xỉ 150km, trong đó, đoạn đi qua đất
Quảng Ngãi (do Nghĩa Phòng, thuộc Nghĩa Định Sơn phòng quản lý) trên dưới 100km,
phần còn lại, trên đất Bình Định (thuộc Định phòng) chừng non 40 cây số ngàn. Cổ
nhân đã dặn “nói có sách, mách có chứng”,
điều đó không sai; song từ đây đến lúc số liệu đo đạc chiều dài Trường Luỹ được
công bố, xin được mượn một câu nói đã trở nên quen thuộc với nhiều người: “Hãy
đợi đấy!”
4. Trường luỹ do ai xây dựng?
Đi tìm lời giải cho vấn đề nầy, trước hết phải
trả lời 2 câu hỏi cốt lõi sau đây:
- Ai chủ trương, hoạch định, tổ chức, chỉ huy
xây dựng Trường Luỹ?
- Nhân lực sử dụng đào đắp Trường Luỹ là những
ai?
+ Lời
giải cho câu hỏi thứ nhất về cơ bản đã có sẵn trong sử sách, tài liệu. Một số sử
liệu trích dẫn sau đây phần nào có thể giúp cho một câu trả lời đúng đắn:
- Luỹ dài Tĩnh Man: ở cách tỉnh thành 23 dặm,
phía bắc giáp địa giới huyện Hà Đông tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp địa giới huyện
Bồng Sơn tỉnh Bình Định, luỹ dài 177 dặm. Hồi đầu bản triều đặt binh sáu đạo để
phòng giữ ác man Thạch Bích; năm Gia Long thứ 4, đặt cơ Thập Kiên làm đạo Bình
Man, đắp 115 sở bảo, sau đổi làm cơ Lục Kiên, theo địa thế các bảo, sở mà đắp
thêm luỹ dài, đặt 27 lân phụ luỹ, mõi lân đặt một cai lân và một phó lân, thay
phiên nhau đóng giữ; năm Minh Mệnh thứ 3 đổi cai lân làm bát phẩm bá hộ, phó
lân làm cửu phẩm bá hộ; năm thứ 9 đổi Lục Kiên làm năm cơ Tĩnh Man, cơ nhất trú
phòng 22 bảo là Phú Thọ, Tuy An, Thuận An, Tuấn Lĩnh, Dũng Thuỷ, Phú Thành, An
Lạc, Bảo Sơn, Phú Sơn, Vĩnh Khánh, Phú Lân, Mỹ Sơn, Kiên Thành, Thổ Sơn, Mỹ Bố,
Hưng Nhân, Hưng Bình, Phú Xuyên, Phú Nhuận, Lân Định, An Đình và Giang Ngạn; cơ
nhị trú phòng 21 bảo là Thanh Bồng, An Viên, Thanh Nguyên, Thạch Bàn, Kiên
Giáp, Cao Đôi, Trường Giang, An Sơn, Viên Môn, Bàn Thạch, Câu Giao, Mã Hoàn,
Lĩnh Lâm, Hội Vân, Lê Thạch, Nham Thạch, Thạch Phong, Hùng Lĩnh, Chi Trụ, Thanh
Khê và Linh Chi; cơ tam trú phòng 22 bảo,
là Kiên Thạch, An Lĩnh, Hùng Thành, Cam Lâm, Tráng Sỹ, Đại Phụ, Phong Nhuệ, Mỹ
Lộc, Thanh Thụ, Giảng Sỹ,Tú Lĩnh, Thạch Lĩnh, Thạch Lâm, Mỹ Sơn, Trung Phu, Bồng
Lai, Củng Cố, Trường Đình, Trường Hoà, Lý Nhân, Tân Phong và Phúc Lộc; cơ tứ
trú phòng 25 bảo là Phú Lộc, Ninh Giang, Tài Công, Vũ Giáp, Long Bình, Sơn Chi,
Giang Bình, Hoà An, Vạn Niên, Thạch Bì, An Thạch, Lập Thạch, Vĩnh Thạch, Bình
An, Tân An, Tân Bình, Mậu Lâm, Bích
Khuê, Trúc Lâm, Hùng Nghĩa, Xuân Linh, An Phong, Bình Định, Thạch Luỹ và Tam
Giang; cơ ngũ trú phòng 24 bảo là Hoà Dương, Lâm Tùng, Nhân Hoà, Thạch Căn, Thuận
Lợi, Thanh Thuỷ, Mỹ Thịnh, Phú Nhân, Thanh Lê, Lương Tài, An Bài, Vạn Phúc, An
Tượng, Trạch Lâm, Liệt Sơn, Hương Thanh, Sơn Quan, An Nhơn, Thanh Lâm, Thanh
Vân, Phúc Thôn, Tài Thọ, An Dũng và Thanh Trung. Sửa sang trường thành, xây đắp
114 bảo, lấy viên lãnh binh tại tỉnh lãnh việc phòng ngự ác man, thật là chu
đáo.” (1)
- “Lê
Văn Duyệt: người huyện Chương Nghĩa, sau vào ngụ ở Định Tường,[...]. Duyệt là
người thâm trầm, dữ tợn, chiến đấu giỏi. Đầu được phong chức Thái giám, từng
theo đi Vọng Các, khi trở về nước, thăng Nội hậu cai đội, rồi thăng Diệu vũ hiệu
uý, vì quân công được thăng Tả dinh đô thống chế, các trận đánh ở cửa Thị Nại
và cửa Tư Hiền, vũ công của Duyệt đứng hành đầu, sau được phong tước Quận công;
mùa hè năm Gia Long thứ nhất, bắc phạt, được trao chức Bình Tây tướng quân, kéo
quân đi trước. Quân của Duyệt đi đến đâu như gió lướt cỏ, đánh lấy được Bắc
Thành, lại đem quân đi đánh tan ác man ở Quảng Ngãi, đắp luỹ, đặt lân, giữ vững
biên thuỳ bờ cõi được yên. Sau đó làm Tổng trấn Gia Định, hộ tống Quốc vương
Cao Mên Ông Chăn về nước, thanh thế lừng lẫy, người Xiêm sợ uy…” (2)
- “Đất thượng du tỉnh tôi là một vùng núi liên
tiếp kéo dài đến ngót ngàn dặm, chỗ ở của người “man” và dân kinh cách nhau
không xa lắm.
Thời Quốc sơ, triều đình đã thiết lập sáu đạo
để phòng ngự, nay dấu tích các đồn bảo vẫn còn một ít. Thời nguỵ Tây, dân vùng
biên cảnh đều tự lo phòng thủ lấy. Sau khi bình định xong đất nước, vào năm Gia
Long thứ 3 (1804), sáu kiên cơ Trấn Man được thành lập, phía bắc giáp Quảng
Nam, phía Nam giáp Bình Định, đặt ra các đồn ải ở trong sáu cơ nầy, cứ bốn, năm
trăm trượng một đồn, hoặc bảy tám trăm trượng một đồn, cắt quân trấn giữ.
Năm thứ mười tám triều Gia Long(1819), xây
đắp Trường Luỹ, sau luỹ là các đồn ải, trấn đóng bảo vệ an ninh. Từ đó về sau
tăng giảm hệ thống phòng thủ, không phải thực hiện chỉ một lần mà bấy giờ quan
lại thiết trí các đồn bảo thường theo khoảng cách đường sá mà xây cho đều
nhau…” (3)
- “Kỷ Mão năm thứ mười tám (1919), Khâm sai
Chưởng tả quân Bình Tây Tướng quân Quận công Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường Luỹ,
nam giáp ranh giới huyện Bồng Sơn tỉnh Bình Định, bắc giáp ranh giới huyện Hà
Đông tỉnh Quảng Nam, dọc theo luỹ có đào hào trồng tre, trước luỹ là vùng
“man”, sau luỹ có xây đồn gồm 115 cái, mỗi đồn có mười tên lính giữ, gồm có
1.150 người, lại lấy dân các huyện thượng bạn lập thành 27 lân theo sáu kiên cơ
mà phòng ngự.” (4)
+ Câu hỏi thứ 2, về nhân lực, liên quan đến
giả thuyết của nhóm EFEO, rằng “hai bên đã cùng xây dựng Trường Luỹ”:
“Trường
Luỹ và các kiến trúc liên quan tạo thành một hệ thống quân sự rõ ràng có mục
đích bảo vệ khu vực của người Việt, và chủ yếu do sỹ quan, binh lính của người
Việt quản lý. Nó là một kiến trúc phòng vệ quân sự được dựng lên để ngăn chặn
xung đột. Tuy nhiên nghiên cứu mới đây lại đang chỉ ra rằng luỹ không phải là
công trình chỉ do người Việt xây dựng. Nguồn gốc của việc tạo một ranh giới
được sự đồng ý của cả hai bên. Hai bên đã cùng tham gia vào xây dựng luỹ, với
việc sử dụng đáng kể kỹ thuật xếp đá của người Hre. Quá trình trao đổi chính
trị và kỹ thuật liên quan đến việc xây dựng Trường Luỹ là một trong những đặc
điểm của di tích.” (5)
Chỉ là
giả thuyết, dĩ nhiên, nhưng chúng ta phải bàn về nó kỷ hơn, vì có vẻ nhiều người
đã tin vào đó như thể một khẳng định.
Qua tất
cả các báo cáo đã được công bố, nhóm EFEO, đã không đưa ra cứ liệu và lập luận
biện giải cho giả thuyết của mình, ngoài cụm từ “nghiên cứu mới đây” và “sử dụng
đáng kể kỹ thuật xếp đá của người Hre”.
Chúng ta cần phải chờ, hơn thế nữa, trên tinh thần khoa học và tôn trọng
lẫn nhau, yêu cầu họ cho biết: “Nghiên cứu mới đây” là gì? Ai nghiên cứu? Thuộc
chuyên ngành khoa học nào? Nội dung và kết quả nghiên cứu đó ra sao để có thể
làm cơ sở cho một giả thuyết mà nếu được chứng minh đầy đủ có thể làm đảo lộn
nhiều vấn đề các sử gia tiền bối đã ghi chép, cũng như nhận định của nhiều nhà
nghiên cứa, biên khảo cả trong và ngoài nước?
Bây giờ
chúng ta thử xem, trong quá trình xây dựng Trường Luỹ, có “sử dụng đáng kể kỹ
thuật xếp đá của người Hre” không?
Gần như
chắc chắn là không có một sử liệu hay một tài liệu có giá trị nào khác nói như
vậy, trước nhóm EFEO. Thừa nhận một sự thực là, cho đến nay, người Hre vẫn ứng
dụng khá thành thạo kỹ thuật xếp đá bằng
tay, với việc sử dụng nguồn nguyên liệu có sẵn, để kè các con đập thô sơ, bờ ruộng,
bờ bao quanh vườn nhà… Song điều nầy không giúp cho việc khẳng định họ là những
người đã đem kỹ thuật kè đá vào việc xây dựng Trường Luỹ. Nếu lật ngược lại
cách đặt vấn đề và cho rằng người Hre đã
học được kỹ thuật xếp đá khi tiếp cận, quan sát Trường Luỹ thì sao? Lại nữa, vì
sao người Hre cư trú ở những vùng gần Trường Luỹ khá giỏi kỹ thuật xếp đá bằng
tay, trong khi đó ở những nơi xa dần về phía Tây, sự khéo léo đã yếu đi hẳn? Phải
chăng người Hre cư trú gần Trường Luỹ học được kỹ thuật xếp đá, còn đồng tộc của
họ ở nơi xa hơn thì không, hoặc chỉ học được một cách lõm bõm?
Sử nhà Nguyễn cho biết, Trường Luỹ được xây dựng
vào đầu thế kỷ XIX, và “tiền thân” của nó là những “Đoạn Trường Luỹ” được đào đắp
dưới thời Bùi Tá Hán (1496 – 1568), vị võ tướng tài ba Trấn thủ thừa tuyên Quảng
Nam khoảng giữa thế kỷ XVI. Trong cuộc hành trình Nam tiến đầy gian nan, người
Việt đã đến Quảng Ngãi và định cư sinh sống ở những nơi mà tận ngày nay chúng
ta vẫn còn nhìn thấy kỹ thuật xếp đá (bằng tay và dùng nguồn nguyên liệu tại chỗ)
khá rành rọt để đắp các bờ bao chống sạt lở, bờ chắn cát, bó quanh nền nhà, kè
đường đi lối lại và đặc biệt là cả giếng nước như ở huyện đảo Lý Sơn và nhiều
vùng ven biển. Xa hơn, lần về phía bắc, ở các vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị, nơi mà người Việt từ miền ngoài đã vào định cư từ lâu đời, dấu tích của những
công trình kè đá, đặc biệt là giếng lấy nước, vẫn còn không ít, cho đến ngày
nay. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh, các giếng nước và công trình kè
đá ấy là của người Chăm, và người Việt đã tiếp thu kỹ thuật đó một cách thành
thục và đầy sáng tạo. Nếu có ai trong chúng ta còn nghi ngờ thì người viết bài
nầy xin mạn phép có lời mời đến huyện đảo Lý Sơn để “tham quan” những giếng
Chăm xếp đá còn lại và tận mắt nhìn thấy cách người dân ở đây xếp những khối đá
granit, đá phún thạch, đá san hô thành những bờ ngăn cát, bờ ruộng trồng hành, kè
mồ mã, nền nhà, đường đi lối lại, đặc biệt là ở phía cù lao Bờ Bãi, hay còn gọi
là đảo Bé. Còn phía trong đất liền, vùng ven biển hai huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh,
những con đường , giếng nước kè đá không còn nhiều, nhưng những người thợ đẽo và
xếp đá ong cha truyền con nối ở đây vẫn có thể kể cho người quan tâm rất nhiều
điều về tay nghề, kinh nghiệm cũng như những câu chuyện lý thú liên quan đến kỹ
thuật sắp những viên đá có sẵn hoặc đã qua ghè đẽo. Về kỹ thuật xếp đá của người
Chăm, Tiến sỹ khảo cổ học Nguyễn Tiến Đông, một trong hai nhân vật chính của
nhóm EFEO, là người quá am tường, vì nếu chúng tôi không nhầm, cách đây không
lâu, ông và các cộng sự đã công bố một công trình nghiên cứu về giếng Chăm ở Hà
Tĩnh khá công phu.
Người
Việt, và lực lượng quân đội của mình, vốn đã có bề dày kinh nghiệm trong việc
xây đồn đắp luỹ dọc từ Luỹ Thầy (Quảng Bình) trở vào, lại tiếp thu kỹ thuật xếp
đá tinh xảo của người Chăm rất lâu trước khi tiến lên miền Tây Quảng Ngãi, đã
mang theo kỹ thuật xếp đá của mình để xây Trường Luỹ, hay họ phải đợi người Hre
giúp cho kỹ thuật ấy trong việc xây dựng
những đồn luỹ ngăn chặn chính người Hre?
Người Việt đã học được kỹ thuật xếp đá từ người
Chăm? Cũng có thể, nhưng ở đây chưa phải là lúc bàn đến điều nầy. Vấn đề là,
trước thời điểm xây dựng Trường Luỹ rất lâu, người Việt ở vùng đồng bằng, ven
biển Quảng Ngãi đã đạt đến trình độ xếp đá, đủ để dựng nên những đồn bảo và đắp
những đoạn luỹ dài để phòng thủ, cố gắng bảo vệ cuộc sống yên bình trong bối cảnh
bề bộn can qua. Lịch sử Nam tiến của người Việt và một số dấu hiệu về dân tộc học
còn nhìn thấy ở người Hre, cho phép suy đoán về địa bàn cư trú vùng đồng bằng
hoặc cận đồng bằng của người Hre trước khi di chuyển lên vùng núi thấp phía tây
cách nay chừng nửa thiên niên kỷ. Nhưng sự suy đoán nầy không hẳn nhiên cho
phép khẳng định người Hre đã có được kỹ thuật xếp đá “hoàn hảo” trước khi người
Việt xây dựng Trường Luỹ. Người Chăm có thể đã “chuyển giao” kỹ thuật xếp đá
cho người Việt ở cù lao Ré và ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng, ven biển Quảng
Ngãi; nhưng đó có phải là nhóm người Chăm tiền Hre hay không? Nên nhớ rằng
vương quốc Chăm (Champa, Chiêm Thành) được tổ chức theo hình thức liên minh các
tiểu quốc và nhóm tộc người, có sự chênh lệch và khác biệt nhất định về phát
triển kinh tế xã hội, về tri thức và trình độ kỹ thuật. Andrew Hardy và Nguyễn
Tiến Đông chắc chắn đã nhớ điều nầy khi
viết: “Câu chuyện Trường Luỹ cũng liên
quan chặt chẽ tới câu chuyện lịch sử đảo Lý Sơn. Hòn đảo cũng là một nguồn
bằng chứng cho nhiều vấn đề của Trường Luỹ, đặc biệt là sự mở cõi của người Việt
Nam qua việc di cư và sự hội nhâp với người Champa. Ở khía cạnh nầy, sự hiện diện
diện kỹ thuật xếp đá của người Việt trên đảo Lý Sơn, cũng như một truyền thống
đi biển xuất sắc của họ là những yếu tố đáng chú ý.” Và rằng “ Tổ tiên của người Hre hiện nay đã sống ở
vùng đồng bằng thời kỳ Champa nhưng những đặc điểm dân tộc – ngôn ngữ
(ethnolinguistique) của họ lại khác với người dân tộc Chăm ở Ninh Thuận và Bình
Thuận. Điều này gợi ý rằng Champa là một xã hội đa dân tộc.” (6)
Ở đây
cũng xin được nói rõ: Trường Luỹ vắt ngang địa hình khá phức tạp của miền Tây với
nhiều núi, đồi, sông suối, thung lũng, cơ bản được đắp bằng đất và chỉ có một số
đoạn ngắn, băng
qua các sườn đồi có độ dốc vừa, được đắp cốt đất ở trong, ốp đá ở bên ngoài để
tránh trôi trượt, và ít hơn nữa là những đoạn xây hoàn toàn bằng đá, ở những
nơi có độ dốc lớn. Kỹ thuật xếp đá chỉ được ứng dụng phổ biến
trong việc xây đắp các đồn, bảo, nằm phía sau hệ thống hào luỹ, sâu về phía cư
trú của người Việt. Một số không ít những bức hình đăng tải lâu nay trên báo (chụp
ở Thiên Xuân, Đèo Chim Hút thuộc huyện Nghĩa Hành) cho thấy các đoạn tường
thành xếp hoàn toàn bằng đá, đã bị chú thích nhầm (hoặc người chụp ảnh nhầm) là
Trường Luỹ, nhưng thực ra đó chỉ là bờ thành đá bao bọc các “bảo”- hệ thống chốt
điểm trú đóng và phòng thủ của biền binh hoặc dân binh nằm phía sau luỹ. “Bảo”
không thuộc Trường Luỹ dù nằm chung trong hệ thống Đồn – Bảo – Luỹ do Sơn Phòng
quản lý.
Thêm nữa,
người đề xuất và chỉ huy xây dựng Trường Luỹ là ông Lê Văn Duyệt (1764 – 1832),
một võ tướng lừng danh của nhà Nguyễn, người đã nhiều lần cầm quân ra Bắc, vào
Nam, từng có mặt tại Gia Định khi Nguyễn Ánh cho đắp Bát Quái thành (còn gọi là
Quy thành) vào năm 1790 với kiến trúc “hỗn hợp Đông – Tây” theo hoạ đồ của 2 sỹ
quan công binh Pháp là Victor Oliver de Puymanel và Theodore Lebrun. Vai trò
quan trọng của Thành Bát Quái và thành Diên Khánh (xây dựng năm 1794, nằm trên
địa bàn tỉnh Khánh Hoà ngày nay) trong chiến cuộc Nguyễn Ánh – Tây Sơn cũng như
thành công của hệ thống Luỹ Thầy do các chúa Nguyễn xây dựng vào thế kỷ XVII,
trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh chắc chắn là những bài học mà các vua đầu
triều Nguyễn và các đại thần đầy thế lực, trong đó có Lê Văn Duyệt, thuộc nằm
lòng. Hơn ai hết, chính họ là người hiểu rõ công dụng
của thành lũy trong việc xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh – cho dù đó
là điều mà các vương triều châu Âu đã biết
từ lâu. Thống kê cho thấy từ thời Gia Long cho đến cuối thời Minh Mạng
có đến trên 30 thành luỹ được xây dựng khắp từ Nam chí Bắc.
Còn có
những yếu tố “ngoài kỹ thuật” mà chúng ta cần thiết phải xét đến khi đề cập đến
nguồn nhân lực xây dựng Trường Luỹ mà trước hết là bối cảnh hình thành công
trình quân sự nầy. Và đây là nguyên văn trong báo cáo của nhóm EFEO:
“Trường
Luỹ và các kiến trúc liên quan tạo thành một hệ thống quân sự rõ ràng có mục
đích bảo vệ khu vực của người Việt, và chủ yếu do sỹ quan, binh lính của người
Việt quản lý. Nó là một kiến trúc phòng vệ quân sự được dựng lên để ngăn chặn
xung đột…”(7)
Suốt
nhiều thế kỷ, miền Tây Quảng Ngãi là vùng đất không hề yên ổn đối với nhà nước
phong kiến Việt Nam.
Đây là địa bàn chất chồng, đan xen nhiều mâu thuẩn: mâu thuẩn giữa các nhóm tộc
người cùng chung sống trên một địa bàn chật hẹp và hiểm trở; mâu thuẩn giữa xu
hướng hình thành một nhà nước thống nhất, trung ương tập quyền và các thế lực
cát cứ; mâu thuẩn giữa tầng lớp thống trị và những người bị áp bức, cùng khổ…Thêm
vào đó, vùng núi rừng hiểm trở phía Tây còn là nơi ẩn náo của các thế lực thất
thế ở phía đồng bằng, trong đó có tàn binh Tây Sơn, vào đầu thời Nguyễn. Nói rằng
hệ thống Trường Luỹ được xây dựng chỉ nhằm mục đích bảo vệ khu vực của người Việt
là đúng, nhưng chưa đủ, vì rằng nhà nước phong kiến Việt Nam luôn có xu hướng mở
rộng tầm ảnh hưởng để thực hiện chính sách “kinh dinh”, mà trước mắt là có thể
thu được nhiều thuế hơn cho Quốc khố, mua hoặc đổi chác được nhiều lâm thổ sản
(quế, sa nhân, cánh kiến, trầm hương, gỗ quý,…) với giá rẻ hơn rất nhiều khi
đem bán lại cho các thương nhân Trung Hoa hoặc Phương Tây.
Không
thể siêu hình đòi hỏi bộ máy cai trị phong kiến nhà Nguyễn phải có “chính sách
dân tộc”, theo cách của xã hội hiện đại, nhưng cũng không thể quên những nguyên nhân quan trọng dẫn đến va chạm bạo
lực Kinh Thượng lúc bấy giờ là chính sách cai trị hà khắc, xoá bỏ tập quán, bản
sắc văn hoá tộc người, thuế khoá nặng nề và tình trạng nghèo khổ, bần cùng đến
nghiệt ngã của các tộc người thiểu số ở miền Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định.
Ngay khi vừa lên ngôi (1802), Gia Long đã áp đặt chế độ trấn quan, cho lập đồn binh ở
các nguồn, đề phòng những cuộc nổi dậy, trấn áp tàn quân Tây Sơn còn dựa vào
người Thượng và ẩn náo đâu đó giữa núi rừng hiểm trở. Triều đình nhà Nguyễn cũng
đã nhanh chóng ban hành các loại thuế
đánh vào lâm thổ sản ở vùng cao, làm cho đời sống người miền Thượng vốn khổ sở
lại càng thêm quẩn bách.
Trong khi đó, quan lại được triều đình cử đến, nhiều
người thiếu thực tài cai trị nhưng lại hà khắc, tàn bạo với người Thượng mà
trường hợp Phó Quản cơ Lê Quốc Huy là một ví dụ điển hình. Liên tục trong các
năm 1803, 1807, 1808, người Hre ở miền Tây Quảng Ngãi nổi lên chống lại quân
triều đình. Trong những lần ấy, Lê Văn Duyệt, một người Quảng Ngãi mưu lược,
giỏi dụng binh, được đích thân vua Gia Long sai đi an định. Đại Nam liệt truyện chép về sự kiện
“Bình man” năm 1808 của viên võ quan trọng thần họ Lê như sau:
-
“Năm thứ 7, (1808) ác man lại lấn dân ngoài biên, vua dụ rằng ác man làm
lo không thể không đánh. Nhưng dường đi hiểm cao, chưa dễ phá ngay được, ngươi
tuỳ nghi xử lý cho lòng nó phục. không đánh mà khuất phục được người, lại là
thượng sách. Duyệt đã đến nơi. Mật sai vệ uý Từ, cùng Phó Vệ Uý Nhượng giả dư
đảng Tây Sơn ngầm vào trại man cùng họ ăn ở, nhân hỏi tình trạng, người man nói
với Từ rằng chúng không có ý phản, nhưng khổ về Phó Quản cơ là Lê Quốc Huy hà
sách không thôi, cho nên họp nhau mưu phản đấy thôi. Từ về đưa việc ấy nói với
Duyệt, Duyệt bắt Quốc Huy chiều luật quân pháp tâu xin chém đi rồi quân man
nhiều đứa đến hàng, vua triệu Duyệt về.”
(8)
Nguyễn Tấn (1822 – 1871), người trong một thời gian
dài giữ chức Sơn phòng tiểu phủ sứ, cho
biết kế sách của mình trong trường hợp tiến công quân sự, càn quét và giết chóc
không đạt được ý đồ thu phục người Hre, như sau:
- “Nếu chúng đến khiêu chiến thì phải đánh
nhưng không cần đuổi theo đến cùng. Mùa hạ cướp lúa, mùa thu cướp thóc của
chúng, làm cho chúng đói không sinh sống được. Làm như thế thì bọn kia tất phải
cúp đuôi xin hàng. Đạt tới trình độ đó thì kế hoạch vỗ về mới có thể thi thố
được…”(9)
- […] đánh thuế chứ
đừng cho chúng tích trữ vật thực, bởi vì nếu tích trữ được lương thực thì chúng
dễ bề làm phản…Nếu bọn chúng còn ngoan cố không chịu nạp thuế thì ta phái quân
lên gặt hết lúa của chúng mà ăn, lần thứ hai nếu còn không chịu nạp thì đánh. (10)
Những chính sách hà khắc, bạo ngược như vậy, cộng với
nhiều nguyên nhân khác, đã làm cho người
miền Thượng nung nấu căm thù, dẫn đến nhiều cuộc giao chiến, nhiều khi đẫm máu, kéo
dài cho đến cuối thế kỷ XIX.
Có trớ trêu không, khi cho rằng người Hre lại tham gia
vào việc xây dựng một công trình quân sự nhằm khống chế chính mình, nếu họ
không phải là những tù binh bị bắt buộc phải phục dịch cho đối phương? Lật lại
chính sử triều Nguyễn, vốn nhiều lần ghi chép về việc xây hào đắp luỹ khắp
trong Nam ngoài Bắc, trong đó có việc huy động nhân tài vật lực tại chỗ, hầu
như cũng không thấy có việc cưỡng bức tù binh hay thường dân đối phương, trong
đó có người người Hre, để có thể nêu giả thuyết rằng họ đã tham gia vào việc
xây dựng Trường Luỹ.
Trong một
bối cảnh như vậy, liệu có thể nói: “Nguồn
gốc của việc tạo một ranh giới được sự đồng ý của cả hai bên. Hai bên đã
cùng tham gia vào xây dựng luỹ, với việc sử dụng đáng kể kỹ thuật xếp đá của
người Hre. Quá trình trao đổi chính trị và kỹ thuật liên quan đến việc
xây dựng Trường Luỹ là một trong những đặc điểm của di tích.”(11) như giả
thuyết của nhóm EFEO không?
Đây
chính là một nghi hoặc lớn. Chúng tôi, và có lẻ cả bạn đọc nữa, không vội vàng
phủ nhận giả thuyết mới mẻ nầy, song sẽ nêu, tại đây, yêu cầu nhóm EFEO đưa ra
các minh chứng. Và chờ đợi…
Rất tiếc
là bài viết nầy phải dừng lại ở đây, vì hai lý do: một là, cần có thời gian cho
sự chờ đợi cần thiết vừa nói trên; và hai là, điều quan trọng hơn, câu chữ đã
quá dài so với khuôn khổ của một bài báo được ưu ái cho đăng trên tạp chí Cẩm
Thành.
Quảng Ngãi, tiết TrọngThu Canh Dần -2010
LHK
Kỳ II: LÝ HOẶC
-------------------------
Chú thích:
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn; Đại Nam Nhất thống chí
(tập 2); bản dịch Phạm Trọng Điềm; NXb Thuận Hoá, Huế, 1992 ; Quyển VIII – tỉnh
Quảng Ngãi, trang 430 -431.
(2) như
trên, trang 441.
(3) Nguyễn Đức Cung; Lịch sử vùng cao qua Vũ Man tạp lục
thư; Nhật Lệ xuất bản; Philadelphia, Pennsylvania – USA – 1908; phần dịch Phủ Man tạp lục;
trang 202.
(4) như
trên, trang 210.
(5),(6),
(7) Andrew Hardy (EFEO) và Nguyễn Tiến Đông (Viện khảo cổ học VN); Trường
Luỹ Quảng Ngãi – Bình Định: Di sản văn hoá độc đáo (Báo cáo khoa học lần
thứ 3 của dự án Lịch sử và Di sản miền
Trung Việt Nam: Trường Luỹ tại Quảng Ngãi – Bình Định: Đánh giá giá trị di sản,
thách thức bảo tồn và tiềm năng phát huy giá trị di sản.); trình bày tại Hội
thảo khoa học tổ chức ngày 16/4/2010 tại khách sạn Hùng Vương – Quảng Ngãi.
Không đánh số trang. Những gạch dưới nhấn mạnh là của nguyên bản.
(8) Quốc sử quán triều Nguyễn; Đại Nam liệt
truyện; quyển 22. Mục XIX. Bản dịch Viện Sử học; Nhà xuất bản Thuận Hoá
Huế; 1997; trang 404 -405
(9), (10) Nguyễn Đức Cung; như
trên; trang 200.
(11) Andrew Hardy (EFEO) và Nguyễn Tiến Đông (Viện khảo cổ học VN); như
trên.
------------------------------
Cám ơn tác giả đã gửi bài.