The Birth of Champa
Ra đời của Champa
(Chu Lâm Anh dịch,
Lâm Thị Mỹ Dung hiệu đính và chú thích ở cuối )
Tác giả của bài
viết này đã sử dụng tài liệu rất cũ và lỗ mỗ, tuy nhiên đây cũng là một cách
nhìn về cấu trúc của Champa và mối quan hệ giữa Lâm Ấp với Champa và cách kết nối điêu khắc, kiến trúc, bia ký với khoanh vùng thực thể chính trị. Để cập nhật
thêm một số thông tin, người hiệu đính đã chú thêm ở cuối một số trang (Lâm Thị
Mỹ Dung).
Tóm tắt
Bài viết này là kết quả tổng hợp dữ liệu nhiều năm về Lâm Ấp và Champa từ TK 3 đến TK 7. Bài viết đã khám phá về “Lâm Ấp” như
đã được trình bày trong các sử liệu của
Trung Quốc với ước tính về nguồn gốc và lãnh thổ tại tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên – Huế ngày nay. Sau đó tập trung vào vương quốc Xitu (Tây Đồ) phát triển hơn ở lưu vực sông Thu Bồn, với vị vua nổi tiếng đầu tiên Bhadravarman vào cuối TK
5. Cuối cùng, sau khi so sánh
việc sử dụng từ “Champa”
trong bia ký tại Mỹ Sơn và “Vua của Champa” ở bên ngoài
Mỹ Sơn, bài viết đã đưa ra giả thuyết rằng Lâm Ấp, “Thành phố
của người Lin”, và Champapura, “Thành
phố của người Chăm[1]”
đều là những vương quốc cổ toạ lạc ở miền Trung Việt Nam.
Lời nói đầu
Bài viết này sẽ cố gắng làm sáng tỏ nghĩa của “Lâm Ấp” và
“Chzmpa” là gì. Nếu có thể chỉ ra rằng đã có các chính thể dọc
duyên hải miền Trung Việt
Nam ngày nay trước khi
những từ “Chăm” hay “Chzmpa” xuất hiện trong các bia ký, chúng ta sẽ có thể làm rõ chính xác thời
điểm ra đời của “Chzmpa”. Chúng ta phải dựa vào các sử liệu của Trung Quốc cùng
với các dấu vết khảo cổ học và văn bia.
Việc nghiên cứu từ các nguồn tài liệu kể trên hướng tới việc xác định lãnh thổ Chăm
(Cham area) như một bức khảm về các vùng lãnh
thổ khác nhau hơn là một lãnh
thổ thống nhất trải dọc bờ biển. Vì thế, Lâm Ấp và Chamapura là hai lãnh thổ
riêng biệt, trong số một loạt lãnh thổ từng tồn tại từ khi những người Nam Đảo đầu tiên sinh sống tại các lưu vực sông duyên hải Việt Nam.
Lâm Ấp trong
các sử liệu Trung Quốc
Lãnh thổ của người Chăm
thường được nhìn nhận
như là một dãy các đồng bằng phù sa mở ra biển và bị ngăn cách
bởi các rào cản tự nhiên. Mỗi vùng duyên hải dường như là nơi toạ lạc của một vương quốc. Sử liệu Trung Quốc là nơi cung cấp bằng chứng duy nhất trước “Indianization/
Ấn Độ hoá” và trước khi xuất hiện chữ viết đầu tiên trong vùng trước giai đoạn cuối của TK 5.
Mặc dù vậy,
có sự khác biệt giữa việc sử dụng
thuật ngữ “Lâm Ấp”, được sử dụng trong sử liệu Trung Quốc từ TK
3 và năm 749 và sự xuất hiện đầu
tiên của cái tên “Chzmpa”. Campã xuất hiện lần
đầu vào năm 658 trong bia ký Chăm C.96 tại Mỹ Sơn, và vào năm 667 trong bia ký
Khmer K.53 tại Kdei Ang, Prey Veng. Các cách thức mà qua đó người Chăm bị mất
đi bản sắc dân tộc cũng cần phải xem xét lại.
Một nhà ngôn ngữ
học đã chỉ ra rằng người Chăm là trong những người đi biển của Đông Nam Á tiền sử (Vickery 2005:15). Lịch sử của Chzmpa có thể đã bắt đầu từ TK 3 khi
người Trung Quốc lần đầu tiên đã nhắc đến sự tồn tại của một chính thể có tên
là “Lâm Ấp”, mặc dù không có bất kỳ một minh chứng nào thể hiện sự tồn tại của
bất kỳ một tộc người hay ngôn ngữ
của chính thể
đó. Các sử liệu Trung Quốc đính thêm tính từ Kunlun
để chỉ những người nam “di”, có nghĩa là “những người phương nam da đen tóc xoăn” (Stein 1947: 230, 259). Những cư dân đầu tiên sinh sống ở đây được
ghi chép trong sử liệu Trung Quốc hiện nay đã được xác định không phải là cư dân bản địa mà là những người Nam Đảo đi biển đổ bộ lên bờ biển của Việt Nam ngày nay từ đầu
Công nguyên và họ
đã tự thâm nhập vào văn hóa ngôn ngữ Mon-Khmer lục
địa. Họ đến bằng đường biển, với
một số ít người, họ đến và mang theo một cách tự nhiên những truyền thống của mình,
đức tin và công nghệ. Đối với người Trung Quốc, các đường biên giới hạn có thể
ở phía bên trong hoặc bên ngoài lãnh thổ, một không gian xã hội cho một chính
quyền và trật tự xã
hội. Một số ít sử liệu Trung Quốc còn tồn tại cho rằng quan điểm này xuất hiện
từ sớm và “Lâm Ấp” được xem như là một
thực thể chính trị.
“Lâm Ấp/Linyi” hay “Thành phố của người Lin” xuất hiện trong lịch sử dưới thời
đế chế Hán (năm 206-20 CN) là một thực thể chính trị hợp pháp trong khuôn
khổ cai trị của Nhật
Nam “phía
nam mặt trời” (Taylor 1983: 30)
– một lãnh
thổ nằm trên vùng đất thấp ở phía Nam của đèo Ngang (“Cổng Annam” ở Đông Dương
Pháp). Chắc hẳn đây là một tỉnh thành ở xa ít liên kết tới triều đình (Such a remote province must have had but a
tenuous link to the imperial court). Theo chương 28 của Qian
Han shu (Tiền Hán thư), biên soạn vào TK 1, Quận Nhật Nam đã được chia theo các vùng, trong đó “cực
nam được gọi là Xianglin/Tượng Lâm”. Xianglin/Tượng Lâm có lẽ được đặt ngang
với Linyi theo ý nghĩa xiang – “voi”
và lin – “rừng”, trong khi đó lin – “rừng” và yi – “thành phố” (Stein 1947: 209, 241). Tượng Lâm, kinh đô của Nhật
Nam, vì vậy còn được gọi là thị trấn “của loài voi” (Demieville 1951: 348) và
còn một vùng gọi là “tỉnh voi” (Cadiere 1902: 55). Ở Trung Quốc, loài voi là
biểu tượng cho vùng lãnh
thổ xa xôi ở phía nam (Schafer 1967). Cái tên “Lâm Ấp” cũng được phổ biến bởi
cái tên này nhắc đến những người dân của “Thị trấn Lin”; trong trường hợp này,
Lâm Ấp được xem như một thực thể xã hội đặc biệt ở một lãnh thổ riêng biệt.
Sự đồng nhất của
Lâm Ấp và Tượng Lâm trong sử liệu Trung Quốc (Stein 1947: 75, fn. 53 trích dẫn
“Tượng Lâm, chức vương của Lâm Ấp”) đã được củng cố bởi sự trùng hợp về địa lý
của lãnh thổ giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân (“Đèo Mây”). Địa hình này là một dải
đất thấp cắt bằng cửa sông. Tại địa bàn tỉnh Quảng Bình, cửa sông Gianh là cảng
của Ba Đồn và cửa sông Nhật Lệ, Đồng Hới. Tại tỉnh Quảng Trị, các con sông Cam
Lộ, Thạch Hãn, và Cửa Việt, chảy vào Đông Hà và Quảng Trị, và các huyện lớn của
Gio Linh và Vĩnh Linh nằm về phía Bắc của vùng đất phù sa màu mỡ, lên đến sông
Bến Hải và Cửa Tùng. Tại tỉnh Thừa Thiên – Huế, mạng lưới sông ngòi ở đây tạo nên đầm
Cầu Hai, vươn ra cửa biển Tư Hiền và thành phố Huế. Đầm Cầu Hai trước đây là
một vịnh kín mà vươn ra biển bởi một
kênh đào nằm giữa đồi Linh Thái và một ụ đá vững chắc (Stein 1947: 82-3). Ngày nay các đầm phá
tại Huế đã được phủ đất cát, và một kênh đào qua các cồn cát
Thuận An vào TK 15 đã hoàn toàn thay đổi sự bảo vệ tự nhiên vốn có của kinh đô
xưa.
Lãnh thổ của những thể chế chính trị đầu tiên đã mở rộng ở
03 tỉnh hiện nay gồm Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế. Sự thiếu hụt của
các cuộc khai quật khảo cổ tại một số vùng, so với những người thực hiện tại Trà Kiệu ở Quảng Nam, làm cho sự so
sánh trở nên khó khăn. Những mảnh ngói lợp và các con
dấu được tìm
thấy ở Trà Kiệu và Gò Cấm là một kiểu của Trung Quốc và cho thấy sự thương mại với Han China trước năm 220 CN (Southworth and Prior 2010: 191)[2].
Những vùng chiếm
đóng Trung Hoa tạo ra từ những cuộc xâm chiếm của Trung Quốc gồm Jiaozhi/ Giao
Chỉ ở khu vực đồng bằng sông Hồng, Jiuzhen/ Cửu Chân ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh và Rinan/ Nhật Nam tại tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên –
Huế. Ở những quận này quân đội chỉ có thể giám sát từ xa bởi những quản lý được
sự ủng hộ từ những người đứng đầu địa phương tự trị. Trung Quốc đã nỗ lực để áp
đặt một hệ thống chỉ đạo đánh thuế và điều đó đã khiêu khích các cuộc nổi dậy
vào TK 2. Một trong những cuộc nổi dậy vào năm 192 CN đã gây ra việc thảm sát
người đứng đầu quận
Nhật Nam tại
Tượng
Lâm và mở ra con đường cho một nền
độc lập mới, chính thể proto-Cham (sơ –Chăm) mà Trung Quốc đã nhận diện từ TK 3.
Sau khi viên quan cai trị của Trung Hoa ở Tượng Lâm bị ám sát bởi con trai của
một thủ lĩnh địa phương, dường
như sự cai trị trực tiếp của Trung Quốc không còn có thể được
mở rộng về phía Nam của Nhật Nam (Stein 1947: 24; Taylor 1983: 60), để lại một
khoảng trống chính trị thuận lợi cho sự lớn mạnh của người đứng đầu địa phương
tự trị.
Làm thế nào mà các cư dân vùng biên của đế quốc có thể
mong muốn sự công nhận chính thức từ Trung Quốc trong thế kỷ đầu tiên của Thiên
niên kỷ thứ nhất? Có thể, bởi họ đã tạo ra sự liên kết về mặt kinh tế với người
Trung Quốc. Vị trí của các bờ biển Việt Nam hiện nay sau đó sẽ xuất hiện trong
sử liệu để đánh giá sự phát triển của chúng, mặc dù nguồn tư liệu Trung Quốc coi những “vương quốc” trên bờ biển này là “man rợ” mà
với chúng những người Trung Quốc buôn bán. Vào TK3, một phái bộ Trung Quốc đã được gửi đến “các
nước ở phía nam” nhằm tạo mối quan hệ thương mại đã từng được đề cập đến của
hai nước Lâm Ấp và Phù Nam (Jin shu
3, 97). Như vậy trong triều
đại Jin (265-420), với chính sách mở cửa thương mại của mình,
lần đầu tiên Lâm Ấp được thừa nhận như một thực thể chính trị. Thông điệp của phái
bộ có niên đại năm 268 CN (Jin Shu 3;
Pelliot 1903: 252), cũng đã xác định rằng “Fan Xiong” như là vua của Lâm Ấp, nhưng chúng ta không có văn bản chứng thực của cái tên này
từ Lâm Ấp. Mặc dù vậy, huyện Tượng Lâm chắc chắn được phân biệt với các phần còn
lại của quận Nhật Nam và được triều
Jin gọi là Lâm Ấp đến cuối TK 3 (Stein 1947: 75). Lâm Ấp được miêu tả như được hình
thành từ “một số bộ tộc”. (Pelliot 1903: 55), điều này cho thấy một cấu trúc
chính trị nhiều thủ lĩnh với một “Lâm Ấp” duy nhất là xứng đáng được đề cập đến
một cách đặc biệt.Vì vậy, vào năm 285 CN, “10 vương quốc ở phương nam”, bao gồm Phù Nam (Vương quốc Khmer sớm ở vùng lưu vực sông Cửu Long), đã
được vời đến triều cống cho triều đình Jin.
Lâm Ấp xem ra không
có biên giới cố định nhưng được tập trung quanh Tượng Lâm. Tình trạng
(identity) của “Lâm Ấp” dường
như đã
thay đổi theo từng thời đại. Vào TK 2 và TK 4, vị trí các trị sở tại Tượng Lâm,
thủ phủ của Lâm Ấp, đã được nhắc đến bởi người Trung Quốc và được xác định vị
trí 400 li từ Qusu/Khu Túc, trong khu vực cảng Ba Đồn Quảng Bình (Stein 1947: 29, fn.23
và 76). Vào năm 248 CN, một đội quân từ Huế, toạ lạc ở Tượng Lâm, tấn công miền
bắc Nhật Nam và chinh phục Ba Đồn hiện nay (Stein 1947: 17). Đáp trả lại, Trung
Quốc đã tạo một trị sở Nhật Nam mới xa hơn về phía bắc về phía Hà Tĩnh hiện nay (Aurousseau 1914: 26).
Vào TK 4, Nhật Nam đã gần như hoàn toàn bị chiếm đóng bởi Lâm Ấp cho đến cửa sông Gianh.
Vào năm
344 CN, “vua của Lâm Ấp” đã tấn công phía bắc và
Trung Quốc đã đáp trả bằng một cuộc tấn công trừng phạt đối với “thành trì của
Lâm Ấp”, có thể khu vực gần Đồng Hới. Vào năm 353 CN, khi viên quan cai trị của
Giao Chỉ tấn công Lâm Ấp, ông được cho là đã “phá hủy hơn 50 thành luỹ”. Các cuộc tấn công
khác cũng đã được ghi nhận vào Ba Đồn và “thành lũy của Qusu/Khu Túc”. Trong
thời gian này, Lâm Ấp được mô tả là “người hàng xóm của Phù Nam được cấu thành từ nhiều sắc tộc đối lập với nhau.”
(Nguyen The Anh 1900: 7) cùng thực hiện các cuộc tấn công liên tiếp và là “vua của Lâm Ấp thậm chí xâm chiếm Nhật
Nam”. Jin shu (97, 76) đưa ra hai
lý
do cho cuộc xâm chiếm Nhật Nam bởi Lâm Ấp trong thời gian trị vì của Fan Wen/Phạm
Văn, hoàng đế của Lâm Ấp vào giữa TK 4 (Stein 1947: 131): Đầu tiên, do việc
đánh thuế hàng hóa vận chuyển quá cao, thứ hai, do “Lâm Ấp có quá ít ruộng đất,
và họ muốn chiếm vùng đất màu mỡ của Nhật Nam” (Stein 1947: 71, fn. 52).
Trung tâm của
Lâm Ấp ở đâu đó gần Huế và không thể được xác định một cách chắc chắn tại Trà
Kiệu cho đến năm 605 CN (Stein 1947: 234; Vickery 2005: 19) khi hoàng đế Fan
Wen/ Phạm Văn cố gắng mở rộng lãnh thổ Lâm Ấp về phía Bắc - “những đồng bằng màu mỡ trải dài từ cổng An
Nam đến đèo Hải Vân”, đó là “Đất đỏ Gio Linh và đồng bằng sông Gianh” (Stein
1947: 72, fn. 52). Các cuộc tấn công và phản công vẫn tiếp tục từ giữa TK 4 đến
giữa TK 5, nhưng Lâm Ấp đã thất bại trong việc giữ lãnh thổ phía Bắc Quảng
Bình. Tuy nhiên sự quấy rối liên tục của đội quân Sino-Việt đã khiêu khích sự
can thiệp của nhà Nam Tống (từ năm 420-479 CN). Vào năm 446, viên quan cai trị Giao
Chỉ Tan Hezhi (Đàn Hoà Chi) đã được lệnh của Hoàng đế bao vây “thành lũy của
Lâm Ấp” ở Qusu/Khu Túc (địa danh này có thể đã để lại dấu vết trong “Thành lũy
Chăm” tại Thành Lồi, theo Cadiere 1903: 169-70) và tiếp tục cho đến khi “thành
phố của người Lin” bị phá hủy
(Stein 1947: 22)[3].
Một sử liệu Trung Quốc từ năm 446 CN có đề cập đến việc thu thập một số hình
tượng tôn giáo trong một chiến dịch chống lại Lâm Ấp (Soper 1959: 54), trong khi những người giàu có lại bị bắt giữ bởi Đàn
Hoà Chi ở cung điện hoàng
gia, được mô tả lại với niềm tự hào, và chứng tỏ được sự giàu có thần kỳ của kinh đô này (Taylor
1983: 115–8)..
Vào giữa TK 5 cuộc tấn công Sino-Viet dường như đã hãm lại các tham vọng
của “các hoàng đế Lin” và, thật nghịch lý, sự phát triển của Lâm Ấp chỉ có thể
được hiểu sau hạn chế này. Trên thực tế, chỉ từ nửa sau của TK 5, các mối quan
hệ khác nhau đã được thiết lập giữa Lâm Ấp và Trung Quốc. Vào cuối TK 5, biên
niên sử của triều đại Liang đã đề cập đến một “hình tượng của Amitayus” (i.e,
Amitabha) mà “Hoàng đế của Lâm Ấp” đã mang đến triều đình Trung Hoa (Soper
1959: 54). Sự tiếp nhận của những
sứ đoàn bởi triều đình Trung Quốc đã đề cập đến ngụ ý rằng Lâm Ấp được thừa
nhận như một thể chế chính trị và xã hội đã được thành lập. Book of the
Liang, được biên soạn vào TK 6, đề cập đến Lâm Ấp như một “vương quốc”
(Stein 1947: 161). Một số cuộc đi sứ từ Lâm Ấp đến Trung Quốc cho thấy sự phát
triển thực sự quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Nhưng khi một kinh đô gần
Huế đã hoàn toàn bị cướp phá và tất
cả các khu vực xung quanh cũng bị tàn phá trong năm
446
CN, khu vực Quảng Trị - Thừa
Thiên – Huế có lẽ không giàu có và tự trị như đã từng. Điều này
sẽ giải thích cho sự xuất hiện của một thực thể chính trị mới gần sông Thu Bồn,
Trung Quốc gọi là “Xitu/Tây Đồ”. Từ TK 5, các sử liệu Trung Hoa đã phân biệt
giữa hai “bộ tộc” – “Lâm Ấp”, phía Bắc đèo Hải Vân”, và Xitu (Tây Đồ), phía Nam
của các đèo trong thung lũng Thu Bồn. Sự mâu thuẫn (nhầm lẫn) giữa Lâm Ấp và Xitu (Tây Đồ) cũng đã sớm nảy
sinh trong các sử liệu Trung Quốc.
Xác định Nguồn
gốc lãnh thổ của Lâm Ấp
Nếu như
thói quen của người Nam Đảo là di chuyển thường xuyên để duy trì
sự tự cung tự cấp, thì trao đổi thương mại lục địa áp đặt tính ổn định địa lý.
Việc sản xuất lúa gạo đã trở thành thường xuyên. Tại tỉnh Quảng Trị, việc canh
tác lúa, cùng với các hệ thống tưới
tiêu phức tạp của Gio Linh và sự quản lý đất đai quanh các
vùng lân cận của Vĩnh Linh, những điều này đã tượng trưng cho giai đoạn phát triển của các thực thể
chính trị dựa trên sự hợp tác của một số cộng đồng dân cư (Naerssen và Longh 1977: 37-8 đối
với Java). Các bậc đá xếp
và các vũng vịnh của Gio Linh đã
không được xác định niên đại bởi Madeleine
Colani (1940), nhưng sự tương đồng với Java và Assam đã thể hiện tình trạng của
những nhà nước sơ sử và bao hàm hệ thống tinh vi của những người xây dựng chúng[4].
Các bậc đá xếp Gio Linh và vùng đất đỏ giàu có đã thể
hiện trình độ cao của việc khai thác. Gio Linh là một vùng đất màu mỡ và đã
được canh tác từ lâu đời. “Chúng ta không chỉ được thấy một số công trình thủy
lợi mà còn thấy cả việc quản lý đất đai của toàn vùng: Đê chắn từ các khu vực
trên cao, hệ thống nước tưới đầy
đủ tại các khu làng, dẫn nước cho các cánh đồng lúa… Các sơ đồ vũng vịnh tỉ mỉ,
việc phân loại đất đai được nghiên cứu kỹ càng, đó là một kế hoạch đã
được định trước và được thực hiện với sự cẩn trọng” (Colani 1940: 11, 13-4,
40).
Kết luận của Colani đã cho phép chúng ta suy luận ra rằng
các kỹ sư xây dựng đã
có khả năng ứng dụng công nghệ của mình vào những ràng buộc về địa lý mà có lẽ,
các kỹ thuật về xây dựng của họ bắt nguồn từ một nhóm nhỏ của người Nam Đảo. (theo Colani 1940: 41, fn.2 là những người đi biển
đến từ Indonesia). Nhóm người này cho
thấy tinh thần sắc sảo về tổ chức (1940:
pl. CXV); dựa vào sông Quảng Trị, gặp biển lớn ở Cửa Việt, sông Bến Hải và Cửa
Tùng, có cảng trung chuyển ở gần cửa sông và giữ liên lạc với cả những thương gia đến bằng đường biển và những người dân miền núi
để phát triển việc trao đổi (Colani 1940: 210).
Nghiên cứu của Colani cũng để ý đến văn hóa nhập khẩu bởi
những người định cư tại Gio Linh. Bà đã đề cập đến “bậc thang nghi thức” đến
việc cúng bái thần linh, các dấu hiệu của cự thạch, thờ cây thánh giá và “mộ”
tổ tiên. Bà đã ghi chép rất nhiều các nghi lễ thờ cúng thần đá gọi là Bụt – có thể là tiền thân của kut sau này– những hòn đá có trang phục “mọc lên
từ lòng đất” (Cadiere 1911: 414).
Kết luận của Colani đã cho rằng sự lắp đặt hệ thống thủy
lợi của Gio Linh có cùng niên đại với thần đá và các di tích của tổ tiên.
(1940: 78). Truyền thuyết về người thành lập ra làng xã
mang tên là Ông Cao, “Ông Tổ”, và Ông Tiền Khai-Khẩn, “Người khai hoang đất đai đầu tiên”. Ông Tiền
Khai-Khẩn là người đã đến trước tất cả mọi
người để chiếm hữu đất đai và thiết lập ranh giới. Đến sau là Ông Hậu Khai Canh, “Người đến sau và bắt đầu làm việc”. Colani đã
liên kết các di tích của những người
tiên phong Ông
Cao, và Ông Tiền Khai-Khẩn với di tích thần đá và tất nhiên là phong tục thờ cây.
Các tên gọi trên đã cung cấp một số chứng cứ sơ sử cho sự
hiểu biết về tiến trình phát triển dân cư ở các khu vực[5].
Các huyện Gio Linh và Vĩnh Linh đã đại diện cho cột mốc
kinh tế của lãnh thổ, nhưng
có
thể không phải là mốc
chính trị. Sông Cửa Việt có thể là nơi bảo vệ lãnh thổ dễ dàng
hơn và do đó là một vị trí thuận
lợi cho kinh đô. Có vẻ như đường thủy nội địa, trong lần đầu tiên, đã
cho phép giao thông trên toàn tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế mà không nhờ vào
biển. “Tàu thuyền đi lại từ lưu vực này đến lưu vực khác” (Cadiere and Cosserat
1926: 6) từ Huế cho đến điểm cận Bắc tại Vịnh ở Quảng Trị. Nếu chúng ta nhìn
thấy một đồng bằng dài bao gồm các tỉnh của Thừa Thiên Huế, Quảng Trị và Quảng
Bình giống như lãnh
thổ trước đây của Lâm Ấp, với kinh đô
ở gần Huế, các vùng đất màu mỡ của Gio Linh và Vĩnh Linh là vựa
lúa.
Ngày nay thuật ngữ “lồi”
được dùng để chỉ thành lũy và các bức tượng Chăm
trong khi thuật ngữ “dang” được sử
dụng cho các di tích về cư trú của người Chăm (Cadiere 1905: 194-5)[6].
Thuật ngữ “dang” có lẽ giống như Cham
yan, (tương đương to sri trong Sanskrit) để chỉ ra các vật linh
thiêng của thần thánh, hay đền tháp. Thuật ngữ “lồi” còn được phát âm giống với Lin, những
người Nam Đảo đầu tiên đặt chân đến và lập ra Lâm Ấp.
Nếu như Lâm Ấp đã được tạo ra bởi “một
số bộ tộc”, và trong đó chỉ một bộ tộc lớn nhất được gọi là “Lâm Ấp”, những địa
điểm có niên đại thuộc giai đoạn “Chăm” có thể làm sáng tỏ về việc phân biệt
giữa ít nhất hai lãnh địa
trên cùng một lãnh thổ. Từ TK 5 trở đi, lãnh thổ của
Lâm Ấp sẽ được sánh ngang với các nước láng giềng. Quốc vương Bhadravarman và bia
ký đầu tiên tại thung lũng Thu Bồn đã xuất hiện như một trung tâm về chính trị và thương mại.
Xitu/Tây Đồ ở
lưu vực sông Thu Bồn
Từ TK 5, ngoài Lâm Ấp, những “lãnh địa” khác cũng được đề
cập đến như Xitu, Boliao và Quduqian (tên của vương quốc cuối cùng kết thúc với “...cheng guo” đã bị mất) (Vickery
2005: 19 trích dẫn Southworth). Với sự hoang tàn của “kinh đô của người Lin”,
giữa TK 5 dường như đã
là một bước ngoặt bởi các
thực thể khác nhau đã được công nhận bởi người Trung Quốc và
xuất hiện trong các sử liệu Trung Hoa khi quan hệ thương mại đường dài phát triển. Mạng lưới đường bộ được hỗ trợ về thương mại
chắc
chắn quan trọng đối với chính quyền khi dân cư đã được phân tán dọc theo mạng
lưới đó, tạo ra sự phân biệt lãnh thổ để từ đó hình thành nên các tên gọi trong
các sử liệu của Trung Hoa (Stein 1947: 116-7, 158-61) (Fig.9.1).
Hình
9.1. Những vương quốc sơ Cham từ TK 5
Xitu/Tây Đồ được
cho là vùng đất thấp cách Lâm Ấp 200km về phía Nam – rõ ràng lãnh
thổ phía Nam đèo Hải Vân hoặc lưu vực sông Thu Bồn. Xung quanh trung tâm này là
12 vương quốc nhỏ (những man di của vương quốc Tây Đồ, người xưng vua). Theo danh sách của “vương quốc” khoảng 100km về phía
Nam Xitu, chúng tôi đi tìm Boliao. Vương quốc này ở gần một thị xã Tam Kỳ hiện nay và
các địa điểm lân cận của An Mỹ hay Phú Ninh. Về sau ở Chiên Đàn và An Thái đã thu được những tài
liệu khảo cổ học thú vị. Hơn
300km tiếp là Quduqian, có lẽ là khu vực Bình Định.
Mặc dù không thể
xác định những “vương quốc” nếu không có bất kỳ một chứng cứ chính xác nào,
những phát hiện về điêu khắc cho thấy các vương quốc có niên đại từ TK 5 và 6 (Zephir 2005: 178) cũng cho thấy những phong cách khác
nhau, trong đó có thể chỉ ra các khu định cư sơ Chăm khác nhau.
Một kiểu điêu khắc rất đáng chú ý: đó là ba tác phẩm điêu
khắc bằng đá của một người đàn ông ngồi bắt chéo tay chân lên đùi (Fig. 9.2).
Trong hai tác phẩm còn lại, là một người đàn ông ngồi dưới một naga. Chúng được tìm
thấy tại Nha Trang tỉnh Khánh Hòa và Mỹ Sơn tỉnh Quảng Nam, hai thánh địa Chăm. Tác phẩm thứ ba có
xuất xứ từ Trà Kiệu tỉnh Quảng Nam, là phù điêu một người đàn ông ngồi dưới tán lá (tác phẩm này hiện ở bảo tàng điêu khắc Champa Đà Nẵng inv.no.20.2). Chúng xuất hiện để trở thành hiện
thân của năng lượng trái đất, thần học sau này được gọi trong tiếng Phạn là “yaska” (Mus 1933: 387-8). Paul Mus
(1933:388) đã liên kết chúng với các vị thần Hindu và Visnu
trong khi John Guy (2005: 145) lại liên kết chúng với Kubera, vị thần của cải.
Vẫn còn khó khăn để khẳng định sự liên kết trực tiếp giữa các tín ngưỡng bản địa, các vị thần Hindu và các tác phẩm điêu khắc
có thể là linh hồn của địa phương.
Hình
9.2. Những điểm tìm thấy điêu khắc của những vương quốc sớm – những vị thần
Những tác phẩm điêu khắc đá hoặc đất nung, có niên đại từ
TK 5, là các tượng người,
là đàn ông hoặc phụ nữ, chủ yếu là tác phẩm bán thân và đôi khi được bao quanh bởi những vầng hào quang (Fig.
9.3). Chúng
mang một số chi tiết với điêu khắc
Gupta niên
đại TK
4 và TK
5, và đã
được tìm thấy ở Khánh Hòa (Nha Trang), Phú Yên (Củng Sơn, gần Tuy Hòa), Bình Định (Thần
Tài Lộc, gần Nhơn Lộc) và Quảng
Nam (An My và Phu Ninh, gần Tam Kỳ, Hậu Xá, gần Hội An, và Trà Kiệu). Đây là những tác phẩm điêu khắc đầu tiên
đồng đại với những bia
ký đầu tiên. Chúng thể hiện tín ngưỡng của một xã hội đã có cấu trúc rõ ràng.
Hình 9.3. Điểm tìm thấy một số điêu
khắc sơ khai
Những tác phẩm điêu khắc này đã làm rõ một số khía cạnh
của các thể chế chính trị đã biết. Chúng phân bố dọc bờ biển từ Quảng Trị đến Khánh Hòa
trên vùng đất thấp và xung quanh vùng cửa sông. Phong cách từng vùng có thể
được thấy rõ trong các tác phẩm điêu khắc. Chúng cho thấy sự xuất hiện của các
giáo phái địa phương mà trong đó các vị thần không tuân theo những hình mẫu của
Ấn Độ.
Quốc vương của Xitu: Bhadravarman
Những bia ký đầu tiên bằng tiếng Phạn và Chăm xuất hiện
vào cuối TK 5 tại lưu vực sông Thu Bồn – khu vực được gọi là Xitu/Tây Đồ bởi người Trung Quốc. Vị vua được gọi bằng
cái tên Bhadravarman là
người thủ
mưu, nhưng chúng ta lại biết
rất ít về ông. Không ai biết đến cách thức gia nhập của
ông vào cung điện hoàng gia, nhưng có thể ông đã đến từ Phù Nam
và tự xưng mình
là người cai trị của lưu
vực sông Thu Bồn.
Trà Kiệu đã cho thấy nhiều vết tích có ảnh hưởng đáng kể từ Trung Quốc trong TK
2 và TK
3. (địa
điểm Hoàn Châu, Yamagata 2010: 91-4), nhưng chúng ta cũng đã tìm thấy kendi từ Phù Nam[7],
giống như những cái
đã biết từ Óc Eo (Yamagata
2010: 9bv1). Vùng đất này đã liên tục được chiếm cư giữa TK3
và TK5 với ảnh hưởng từ Trung Quốc
nhưng ảnh hưởng từ Ấn Độ thì vẫn chưa bắt đầu. Sau đó, có một người tị nạn đến từ Phù
Nam tên là Jiu Chouluo, người “hợp tác với phiến quân, chinh phục
Lâm Ấp và tự xưng
là quốc vương” (Pelliot 1903: 258-9). Một số sử liệu đã
chứng thực câu chuyện về một kẻ soán ngôi đã giết chết người đứng đầu ngự trị một địa phương và nắm quyền bằng sự
xảo quyệt và vũ lực. Với việc đặt tên gọi Bhadravarman, ông đã
xây dựng Tây Đồ và đã đưa vương quốc này lên vũ đài lịch sử (Fig.9.4).
Hình
9.4
Bhadravarman đã tự giới thiệu về mình như một “vị vua vĩ đại của Dharma” (dharmmamahārāja). Tất cả các bia ký (trừ một cái) của ông đã được tìm thấy tại Mỹ Sơn và Trà Kiệu và những văn bia tiếng Phạn tạo lập việc thờ cúng Bhadreshvara ở Mỹ Sơn (C.72; Finot 1902: 187-90) và xác
định một lãnh thổ dành riêng cho vị thần (C.105 ở Hòn Cụt và
C.147 ở Chiêm Sơn; Finot 1902;
186-7, 1918: 13-4). Bia ký C.174, viết bằng
tiếng Chăm ở Đông Yên Châu cách 1km về phía Tây Trà Kiệu, điều này đã
làm nên sự tôn thờ “naga thần thánh” của quốc vương, là rất khác biệt. Bia ký này có thể có sự liên kết với các tác phẩm điêu khắc
người đàn ông ngồi dưới naga đã
được tìm thấy ở đền
tháp Mỹ Sơn A1, và từ đó có thể
thừa nhận một thờ cúng địa phương dành cho thần thánh, Người đứng đầu thế giới thủy cung.
Bia ký cuối cùng của Bhadravarman là C.41 tại Chợ Dinh,
Phú Yên. Đó là minh chứng về sự cúng tế, vật tế thần cho thần thánh ở Mỹ Sơn, Bhadresvara (Finot 1902: 185-6). Chúng ta có thể hỏi phải chăng bia ký này viết bởi một kẻ đào ngũ người Phù Nam trở thành “vua của Lâm Ấp” đánh dấu mối quan hệ
thương mại giữa các vương quốc của Xitu/Tây Đồ và một vương quốc trong tỉnh Phú Yên
hiện nay. Sự tồn tại của
thực thể chính trị ở Phú Yên có thể giải thích qua việc tìm thấy tượng điêu khắc bán thân tại Củng Sơn, cạnh Tuy Hoà, cũng như việc tìm thấy bia ký của Chợ
Dinh có nói đến quan hệ giữa hai “vương quốc” giữa cuối TK 5 và đầu TK 6.
Như
vậy, theo các sử liệu của Trung Quốc, hậu duệ của dòng
dõi địa phương (Vua Wen Di đối với Trung
Quốc, và vua Manorathavarman trong bia ký C.96 A III) đã bị ám sát bởi một kẻ
soán ngôi năm 490 CN, tự xưng
là “quốc vương của Lâm Ấp”, và được thừa nhận bởi triều đình
Trung Quốc trong năm AD 491. Đây lại là Bhadravarman, người đã hợp pháp hoá chính
thể bản địa (Xitu/Tây Đồ?) bằng cách tôn
thờ Bhadresvara, một hình tượng nhân từ của Siva. Một hậu duệ trực tiếp của Bhadravarman đã đổi mới quan hệ
thương mại với Trung Quốc trong những năm 526-7 CN.
TK 6: Nguồn
gốc của “Champa” tại Mỹ Sơn
Việc Lâm Ấp bị đánh bại trong năm 446 CN đã dẫn đến sự
phân bố lại quyền lực ở khu vực. Sự thiếu vắng của một thể chế mạnh đã tạo cơ hội cho Bhadravarman can thiệp và tái
khởi động nơi
buôn bán trên sông Thu Bồn.
Ông đã ám sát “vua của Lâm Ấp” bởi người Trung Quốc đã xác
nhận ông là dòng dõi thực sự của Manorathavarman, đến từ Huế, ngay cả khi căn
cứ là ở Xitu. Điều này dường
như đã
được khẳng định vào năm 530, khi hậu duệ của Wen Di / Manorathavarman được thừa
nhận là “vua của Lâm Ấp”. Đó là Vua Rudravarman, người đã nhiều lần cố gắng
chiếm lại các vùng lãnh thổ bị mất của Lâm Ấp từ một căn cứ ở Xitu.
Vào năm 543, “vua
của Lâm Ấp”, Rudravarman (Lütuoluobamo; Pelliot 1904. 384, fn.6) đã tìm
cách khai thác các xung đột giữa Trung Quốc và Việt. Ông đã tấn công biên giới
tướng Sino-Viet
Pham Tu (Liang shu,
Annals section) và khôi phục lãnh thổ của Lâm Ấp ở khu vực Huế
(Nguyen The Anh 1990: 9).
Rudravarman được xác định trong trong bia ký C.96 (Finot
1904: 918-25) như là “cháu ngoại” của vua Manorathavarman. Ở triều đại của ông,
ngôi đền của Bhadresvara ở Mỹ Sơn đã bị thiêu rụi hoàn toàn (C.73 A I. 3-4). Vị
thần được Bhadravarman đưa lên đầu tiên là thần lãnh thổ (Mus 1933) và do đó không thể
biến mất. Để tránh trở thành một vật tượng trưng của dòng dõi Bhadravarman, vị thần đã được
tái dựng lên và đổi tên thành thần hộ mệnh của nhóm người bản địa tại Tây Đồ,
mà người Trung Quốc gọi là “đất nước của (người hộ mệnh) người Chăm”.
Người
kế vị ngai vàng Hoàng đế Rudravarman, có lẽ là con trai ông, lên
ngôi với danh hiệu Sambhuvarman
(C.73 A I.10) và xây dựng lại đền thờ Bhadresvara ở Mỹ Sơn, tái dựng lại vị
thần Sambhubhadresvara (C.73 A I.19) vào năm AD 557. Vị thần Sambhubhadresvara là một Siva, “người đã
mang đến sự thịnh vượng cho đất nước Chăm” (Campādeśa). Cam-pa/pā,
tên nguyên bản có nghĩa là đất nước của “người, hộ mệnh cho người Chăm”, là một
dạng ân đức của Siva.
Khái niệm “đất
nước của người, hộ mệnh cho người Chăm” đã đưa ra ánh sáng tên gọi của một nhóm
tộc người, “người Chăm”, trong cùng một cách với Trung Quốc đã dùng để chỉ định
lãnh thổ xa hơn về phía Bắc của Lâm Ấp, “thành phố của người Lin (người Lâm Ấp)”. Vì thế, người bảo vệ - thần Bhadresvara lần đầu tiên có sự ràng buộc với cư
dân được xác định là “Chăm” trong “đất nước của người Chăm” vào cuối TK 6. Cư
dân này định cư tại Thu Bồn, nhưng trong một khu vực được người Trung Quốc gọi
là Xitu/ Tây Đồ và được cai trị bởi “vua của Lâm Ấp”.
TK 7 và “Quốc
vương Champa” Đầu tiên
Con trai cả của Sambhuvarman, được gọi Kandarpadharma trong bia ký (C.96 VII, Mỹ Sơn), là người kế vị cha mình.
Chưa có thông tin chính xác về
niên đại trị vì của ông nhưng dường như ông đã được hưởng lợi từ các xung đột chính
trị giữa miền Nam Trung Quốc và Sông Hồng (Wang Gungwu 1958: 62), gia tăng
thương mại và thậm chí là cướp
biển. Sự thật là, ông đã khiêu khích một chiến dịch quân sự của
hoàng đế Trung Quốc nhà Sui vào năm 604 CN (Sui
shu, 53 on Linyi)
Vào năm AD 605, theo Sino-Viet (tư liệu Hán Nôm) (Nguyen
The Anh 1990: 9-10), có một cuộc chiến đã xảy ra giữa quyền lực Sino-Việt và của vua Fan Fanzhi, “vua của Lâm Ấp”. Các cuộc đối đầu đã
diễn ra tại tỉnh Quảng Bình, không quá xa Ba Đồn. Một vị tướng của Sino-Việt
tên Liu Fang/Lưu Phương đã đưa quân của ông ta đến sông Gianh, tiến đến Huế,
tiến lên đèo Hải Vân và trong vòng 8 ngày đã đánh chiếm “kinh đô của Lâm Ấp”.
Ông đã mang theo những chiến lợi phẩm bao gồm các tài liệu mà hoàng gia lưu trữ và một thư viện bao gồm 1350 văn kiện Phật giáo bằng “ngôn ngữ kunlun” (có thể là Sơ Cham: Wang Gungwu 1958: 64, fn.12) và “18 tấm bài vị bằng vàng của những
quốc vương Lâm Ấp xưa” (Wang Gungwu 1958: 64). Tình
hình ở phía Nam của “trụ
đồng” của đèo Hải Vân, có lẽ là Trà Kiệu, là không rõ ràng, nhưng những dấu hiệu của việc chiếm cư
ngọn đồi liền kề Bửu Châu đã biến mất vào
thời điểm này. Fan Fanzhi được cho là đã bỏ chạy, nhưng một chút ánh sáng đã rọi vào những
năm tháng đen tối thời đó cho đến khi triều đại nhà Đường được thành lập vào năm
618 CN. Sau đó, các sứ đoàn từ Lâm Ấp và Chenla/Chân Lạp đã được ghi nhận vào năm những
năm 623, 625 và 628 CN (Jiu Tang shu, phần 197). Các sứ đoàn đã được Fan Fanzhi
gửi đi, ông cũng là người đã xây dựng lại kinh đô sau khi nó bị phá hủy vào năm
AD 605.
Tấm bia C.111 (Huber 1905) do Hoàng đế Kandarpadharma
(“người có Luật của Kama”) dựng ở Thừa Thiên – Huế hiến tặng cho vị thần
Kandarparpuresvara, i.e., vị thần của Kandarpapura (“thành phố {nơi Siva thiêu rụi} Kama”). Thành phố của
Kandarpadharma, tất nhiên, được gọi là Kandarpapura và có
thể cũng nằm ở phía Tây Nam cố đô Huế trên lãnh thổ Lâm Ấp.
Kandarpadharman (xem phả hệ, Fig 9.5) là vị vua đầu tiên được đặt là “chúa tể
của Champa” (campeśvara
in C.111) và “Chúa tể của vùng đất Champa” (campāpṛthivībhujaś C.73 A I.12) và
được ca ngợi vì đã “bảo vệ vùng đất của mình” (C.96 A VIII). Do đó có thể tập
hợp các dữ liệu khảo cổ và sử liệu bởi một yêu cầu tái lập lại dòng dõi của các vua Xitu (từ lưu vực sông Thu Bồn) tại lãnh thổ của Lâm Ấp, mà có lẽ đã bị suy
yếu dần bởi những cuộc tấn công từ Trung Quốc. Vị vua này từ “đất nước Champa” (Campādeśa)
được mô tả như “vua của Lâm Ấp” phải được trả lại cho đất nước của Lin, có lẽ ở
sự mời mọc của họ. Những người Lin có thể sẽ cảm thấy sự cần thiết trong việc
tìm kiếm đồng minh trong số các nước láng giềng xung quanh, trong trường hợp
tiếp tục có sự tấn công từ phía Bắc. Đó có thể là một dòng họ có nguồn gốc từ
khu vực này còn tồn tại trên vùng đất màu mỡ của Gio Linh.
Hình
9.5. Phả hệ của dòng Gandesvara
Hầu hết trong TK
7I, Lâm Ấp (Hình 9.6) vẫn thường
xuyên duy trì quan hệ ngoại giao và thương mại với nhà Đường – những chuyến đi sứ thường xuyên từ năm 623 đến 684 CN. Chúng tôi cũng biết rằng vị vua mới của Lâm Ấp được gọi
là “Fan Touli” đã lên nắm quyền vào năm 630 CN, trong
khi người kế thừa của Kandarpadharma có tên Prabhāśadharma trong bia ký Chăm. Do đó có thể suy luận rằng thủ đô mới Kandarpadharma của Kandarpapura ở đất nước của người Lin đã được thiết lập vào khoảng thời
gian giữa các cuộc tấn công của Trung Quốc vào năm 605 CN và khi triều đại của
ông kết thúc vào năm 630 CN.
Hình
9.6. Bản đồ phân bố những địa điểm thế kỷ 7
Vị Hoàng đế tiếp theo lên nắm quyền vào năm 640 CN có tên
gọi là “Fan Zhenlong” trong các sử liệu Trung Quốc, trong đó cũng nói rằng ông
đã bị ám sát bởi một tướng quân của
mình
trong năm 645 CN. Mặc dù vậy, trong bia ký C96 (mặt A st. XIII – XIV), dòng dõi
của quốc vương
Bhadresvaravarman đã bị gián đoạn bởi vị tể tướng khi đó đã
ra lệnh cho “tất cả con cháu nam” trong dòng họ phải chết. Tuy nhiên một người cháu của nhà vua đã cố gắng thoát khỏi
cái chết, và ẩn náu tại Bhavapura (Sambor Prei Kuk) ở Chenla/Chân Lạp, vương quốc đã tách ra từ Phù Nam từ
nửa sau TK 6 (C.96 A, st.XV). Trong khi lưu vong, vị hoàng tử này, Jagaddharma, đã lấy Śarvānī, con gái
của người sáng lập Chân
Lạp, Quốc vương Īśānavarman (C.96, st.XXIII), và đã sinh ra một người con trai tên Prakāśādharma.
Các sử liệu của Trung Quốc đã chép rằng quyền lực của
Hoàng gia khi đó đã được trao cho Prabhāśadharma, con trai của Fan Touli, sau cuộc khủng hoảng năm 645 CN.
Họ cũng ghi chép lại rằng Vua Zhugedi – người bị đày ải là con trai của một người cô bên nội của Fan Touli và có thể là cháu của
Kandarpadharma (con trai của chị gái ông ta) và là anh em họ của Prabhāśadharma. Chị gái của Kandarpadharma được cho là đã kết hôn với một
vị vua gần đó mà kinh đô đã được để giữ chỗ cho con trai họ là Jagaddharma, khi
lưu vong
trở về, cùng với cháu của
họ Prakāśādharma. Tôi
cho rằng có một mối quan hệ
giữa các khu vực của Quảng Trị hiện nay, nơi chốn của người Lin, và người Khmers (Phù
Nam đầu Chân Lạp từ TK 2 đến TK 6). Trong khi Prakāśādharma, là hậu duệ của dòng dõi địa phương, con
trai của Jagaddharma và cháu của Kandarpadharma đã tuyên bố lên ngai vàng của
Lâm Ấp vào những năm 650, lãnh thổ của gia đình ông đã cho phép ông quyền làm
như vậy. Nhưng nếu con gái của
Kandarpadharma kết hôn với Vaishinava – vua nước láng giềng ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, thì có thể cha mẹ của Prakāśādharma đã trị vì tại kinh đô đó, mà sau này được
gọi là Viṣṇupura. Vaishnavism (Visnu giáo), tôn giáo của Chân Lạp, chỉ phát
triển ở Quảng Trị.
Vào năm 658 CN, Prakāśādharma đã lấy danh hiệu “Vị hoàng đế vĩ đại, Chúa
tể của Campapura” (mahārāja Campāpuraparameśvara trong C.96 B, I.13). Trong bia ký C.96 tại
Mỹ Sơn, khi ông lấy tên hiệu triều Vikrāntavarman tại buổi lễ lên ngôi của mình, chúng tôi đã tìm thấy
toàn bộ gia phả của ông. Tại Trà Kiệu, ông đã tôn vinh những ký ức về
Kandarpadharma, tổ tiên của ông (C.137 ở Trà Kiệu và C.73 ở Mỹ Sơn; Huber 1911a: 262-4) với việc xây dựng hai ngôi đền thờ Visnu. Mỹ Sơn sau đó là trung tâm của sự tôn kính thần hộ
mệnh bảo vệ đất nước và Trà Kiệu, và cùng với các trung tâm chính trị liên kết
và hợp thành trung tâm của Xitu/Tây
Đồ, nơi vẫn bị người Trung Quốc gọi nhầm thành Lâm Ấp. Sau các sự kiện của những năm đầu
TK
7, vị trí của ngọn đồi Bửu Châu
ở Trà Kiệu không được chiếm lại và có một ngọn đồi khác đã
được lựa chọn, mà Jean-Yves Clayeys đã xác định là các điểm A và B.
Thậm
chí thú vị hơn là những bằng
chứng từ Kandarpapura, trung tâm chính của vương quốc của vua Kandarpadharma ở Thừa Thiên – Huế và
tỉnh Quảng Trị. Ở đây chúng tôi đã thấy sự di chuyển chủ
ý địa điểm kinh đô và sự hồi phục của vùng lãnh thổ đó đã cho phép Prakāśādharma
gọi mình là “vua của các vị vua”; cha của ông là Jagaddharma là hậu duệ của Lin
và mẹ ông là người Chăm. Sự kiện rằng đất nước của người Chăm
được nhắc trong những văn liệu Chăm (C.96 năm 658) và Khmer (K.53 năm 667)
trong khi việc sử dụng tiếp tục “Lâm Ấp” tiếng Trung Quốc có thể được giải
thích bởi hành động của Prakāśādharma thống nhất các vùng lãnh thổ dưới sự cai trị của ông. “Chăm” trở
nên chiếm lợi thế trong bia ký, nhờ vào ánh hào quang bởi vị thần hộ mệnh của
Mỹ Sơn và dòng
dõi mà ông bảo vệ. Khái niệm/kiểu thể
hiện “đất nước của người bảo hộ người Chăm” (Campāpura hay Campānagara) tập hợp thể chế chính trị, một
nhóm tộc người và một vị thần bảo hộ. Bất kỳ vị vua nào muốn thiết lập quyền lực của mình
cũng phải đặt mình dưới sự hộ mệnh
của vị thần Mỹ Sơn, như quốc vương Kandarpadharma, “Chúa tể của Champa” (Campeśvara) khi ông thành lập Kandarpura vượt ra bên
ngoài lãnh thổ Xitu (Tây Đồ/Tây Đô).
Tầm quan trọng
của Tỉnh Quảng Trị hiện nay
Chúng tôi chỉ có bằng chứng gián tiếp về sự chiếm giữ lâu
dài vùng đất Quảng Trị và vị trí của Quảng Trị trong thế giới Chăm. Từ TK 6,
chúng ta có thể so sánh các bằng chứng về khảo cổ học và cổ tự với các sử liệu
của Trung Quốc và xác định sự tồn tại của một vùng lãnh thổ có tên gọi là Lâm
Ấp, cái nôi của dòng dõi sơ –chăm xác thực (hình 9.7)
Hình 9.7. Những địa điểm Vaishnava ở tỉnh Quảng Trị, thế kỷ 10
Một chiếc bình tinh xảo (purṇagātha)[8] đã được tìm thấy tại Đa Nghi-Nhan Biều, Quảng Trị, mà
Thierry Zephir (2005:179) định niên đại vào khoảng TK 6. Được trang trí với
những biểu tượng của màu mỡ và dư dả.
Những thứ khác đã được tìm thấy ở dọc bờ biển, đồng thời
chứng tỏ việc chiếm đóng các vùng đất. Các trung tâm sản xuất của Gio Linh và
Vĩnh Linh đã liên kết với nhau để giao dịch tại các vùng cửa sống và các tuyến
đường núi mang trong mình những lâm sản quý hiếm (Bronson 1977; Miksic 2009).
Các trung tâm đã tích lũy sự giàu có là kinh đô- thành luỹ Đa Nghi – Nhan Biều.
Vào TK 7, tỉnh Quảng Trị đã cho thấy một số bằng chứng
cho thấy dấu vết Vaishnava có quan hệ với Zhenla/Chenla/Chân Lạp. Một pho tượng
Visnu đã được tìm thấy ở làng Đa Nghi – Nhan Biều (Chronique BEFEO 1916: 97-8;
1917: 45-6), đó là “nhân chứng duy nhất cho kỹ thuật nguyên khởi” (Boisselier
1963: 55-7, fig.22). Bên kia sông là vị trí của Thạch Hãn, nơi mà một bức tượng cao lớn đã
được tìm thấy từ một thánh địa mà có sự khác biệt rõ rệt so với kalan thông thường (Boisselier 1963:
59-60). Về phía Nam của Thừa Thiên – Huế, một chiếc trống với hình tượng Vaishnava đã được tìm thấy trong
đền tháp Mỹ Xuyên. Bia ký muộn hơn đã chỉ ra rằng có một thành lũy và thị trấn
được gọi là Viṣṇupura (C.142 Hoa Quê, Huber 1911b: 299-311) hay Trivakramapura (C.149
Nhan Biều, Huber 1911b: 299–311) ở Cổ Thành gần Nhan Biều/Đa Nghi.
Khu vực này là cái nôi của một dòng dõi hoàng gia và một
nhóm các chỉ số chứng minh cho tầm quan trọng của mình vào đầu TK 10. Trong
vùng đất Gio Linh màu mỡ, chúng tôi đã tìm thấy bia ký AD 916, C.113 của Hà
Trung tại Navap (Huber 1911b: 298-9). Trong một ngôi đền dành riêng cho Indrakanteśvara, một ngẫu tượng
linga (pratimaliṅga) đứng ở trên một bệ tượng lớn (Baptise 2005: 115-6). Bức tượng này do Nữ hoàng Tribhuvanadevi dâng hiến, bà là góa phụ của Quốc vương Jaya Simhavarman của Indrapura,
anh trai bà là người tự xưng “vua của các vị vua” và bản thân bà là người rất
được kính trọng trong dòng dõi Vṛddhakula (Schweyer 2006: 154,
fn.201). Những dòng cuối của bia ký đã cung cấp chi tiết các vùng đất hiến tặng
và, lần duy nhất đối với văn bia Chăm, cho thấy rằng đây là mặt bằng tương xứng với địa hình rất đặc biệt của
Gio Linh. Chúng ta được nghe về những dải đất mặn, một trong số đó xuôi xuống
“vùng cát của biển lớn”, vùng đất thấp cần được làm lại và vùng đất cao hơn sẽ
là nơi trồng trọt mới. Nữ hoàng
Tribhuvanadevi đã thừa hưởng đất đai từ mẹ mình kế thừa từ dòng dõi
Viṣṇupura / Trivikramapura. Vào TK 10, sự đồng hóa của các nhóm xã hội khác
nhau được hình thành dọc theo bờ biển trong thời kỳ sơ sử đã xảy ra. Đến thời
điểm này, dòng dõi đã hoàn toàn trở thành quan hệ chính trị và không còn thêm
hàm súc tộc người. Người Chăm đã chiếm ưu thế.
Kết luận: Sự
tiến hóa của Champa.
Vào năm 749, Quốc vương Rudravarman đã gửi cống vật cho Trung Quốc. Sau đó
trong các sử liệu của Trung Quốc không còn nhắc tới Lâm Ấp. Từ năm AD 757 to
859, sử liệu Trung Quốc đã sử dụng cụm từ Houan Wang (Hoàn Vương) (“circle of kings) để miêu tả các vương quốc ven
biển có điểm cực Bắc là sông Gianh trên biên giới Đại Việt – chính xác như Lâm
Ấp ở TK 4 (Stein 1947: 80). Sau đó các vương quốc Mendu (chưa xác định được) và Guda (Kauṭhāra và Nha Trang) xuất hiện. “Lãnh thổ” của
Bentuolang, “một ngày trên con thuyền đi xa” bao gồm Pāṇḍuraṅga, xung quanh
Phan Rang, không được coi là “Chăm” (Schweyer 2009: 18-9). Trong vương quốc Guda/ Kauṭhāra, các nhà vua
đều tự gọi mình là vua “của đất nước Chăm” (campāpura parameśvara)
(Schweyer 2009: 18,22).
Sau năm 859 CN, sử liệu Trung Quốc sử dụng từ Zhan
Cheng (Chiêm Thành), có nghĩa là “thành phố của Chăm”, phiên âm từ Campānagara hoặc
Campāpura cũng được tìm thấy trong bia ký. Thuật ngữ mới này đã gây ấn tượng cho một địa
phương thống nhất và một tộc Chăm duy nhất.
Với sự thay đổi của thuật ngữ thành Zhen Chang “thành phố của người Chăm”, những người Trung Quốc sau một thời gian dài gọi Lâm Ấp
“thành phố của người Lin”, cuối
cùng đã công nhận một nhóm Huế-Quảng Trị như một sự ưu thế Chăm. Các “thành phố” (pura)
phát triển mạnh mẽ trở lại từ TK 11 nhưng những nhà vua vẫn tự gọi họ là “Chăm” cho dù lãnh thổ của họ là ở đâu
đi chăng nữa. Do đó, đất nước của người Chăm đã thực sự tồn tại từ TK 9 không
chỉ dựa trên một cơ sở lãnh thổ mà còn là một thực thể xã hội riêng biệt và phát
triển lớn mạnh.
Nguồn: Anne-Valerie Schweyer 2010, The Birth of Champa in trong Conneting
Empires and States, Selected Papers from the 13th International Conference of the European
Association of Southeast Asian Archaeologists, Volume 2, Edited by Dominik
Bonatz, Andreas Reinecke
& Mai Lin
Tjoa-Bonatz, NUS
Press, National University of Singapore: 102-118
Tài liệu tham khảo
[1]
Chăm là dịch từ từ Cham
trong bản tiếng Anh, chỉ cư dân của vương quốc Chămpa trong lịch sử, không phải
chỉ người Chăm hiện nay (Lâm Thị Mỹ Dung)
[2]
Thương mại đường dài (long-distance trade) mà trong trường hợp miền Trung Việt
Nam đã phát triển trong thời kỳ cuối của văn hoá Sa Huỳnh, văn hoá khảo cổ sơ
kỳ thời đại đồ sắt, thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN, hàng hoá từ Trung Quốc và Ấn
Độ và một số vùng xa hơn đã được tìm thấy trong cá khu mộ táng và khu cư trú
của cư dân Sa Huỳnh, mối quan hệ thương mại với Trung Quốc trong thời kỳ đầu
của Chămpa là sự tiếp nối và tăng cưòng từ thời kỳ Sa Huỳnh với một số điểm
đáng lưu ý, thời kỳ Sa Huỳnh thương mại chưa gắn với chính trị và tư tưởng như
thời kỳ Chămpa (Lâm Thị Mỹ Dung).
[3] Kết quả nghiên cứu mới nhất về Thành Lồi và
khu vực Huế xem thêm Lâm Thị Mỹ Dung, Miền Trung Việt Nam
thời kỳ hình thành nhà nước sớm qua nghiên cứu phân bố và tính chất của các địa
điểm khảo cổ học, in trong Tạp chí Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội, sô 1 (10/2015): 1-15) http://dzunglam.blogspot.com/2015/11/mien-trung-viet-nam-thoi-ky-hinh-thanh.html
[4]
Cho đến nay vấn đề niên đại và chủ nhân dựng lên những công trình khai thác
nước ở vùng đất đỏ Gio Linh, Vĩnh Linh vẫn còn rất nhiều tranh luận và những
chứng cứ khảo cổ học rất thiếu hụt để có thể khẳng định một cách chắc chắn. Mặc
dù các nhà nghiên cứu thiên về chủ nhân là người Chămpa (Lâm Thị Mỹ Dung Các
công trình khai thác nước dùng đá xếp ở Quảng Trị phần I, II, III, http://dzunglam.blogspot.com/2011/03/cac-cong-trinh-khai-thac-nuoc-dung-xep.html.....),
nhưng niên đại khởi dựng không thể xác định chính xác.
[5]
Thực ra ở đây Colani đã không phân biệt trật tự niên đại giữa tục thờ Tiền hiền
của người Việt (sau này) với sự hình thành các hệ thống thuỷ lợi bằng đá xếp
(được cho là của cư dân Chămpa hay sớm hơn Chămpa), bà Anne Valerie dùng tài
liệu của các học giả Pháp mà không cập nhật những nghiên cứu từ sau nửa sau của
thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 (Lâm Thị Mỹ Dung)
[6]
Trên thực tế, “dàng hay giàng” cũng dùng để chỉ những dấu tích
đền tháp Chămpa (Lâm Thị Mỹ Dung)
[7]
Tài liệu khảo cổ học từ các địa điểm Chămpa sớm (khoảng TK 3,4 về sau) và
Chămpa sau thế kỷ 5 cung cấp một khối lượng khổng lồ mảnh của loại hình kendi (bình có vòi không quai dùng trong
nghi lễ và đời thường). Kendi có
nhiều khả năng có nguyên mẫu từ Ấn Độ và đã được đưa vào Đông Nam Á cùng lúc
với quá trình truyền bá Hindu giáo và Phật Giáo, kendi ở Trà kiệu và ở những địa điểm Chămpa khác ở Miền Trung Việt
Nam đa phần được sản xuất tại chỗ, những tương đồng trong loại hình gốm này
giữa Phù Nam (Óc Eo) và Chămpa không nên được diễn giải theo kiểu cư dân Chămpa
nhập hàng từ Phù Nam (Óc Eo) một cách khiên cưỡng và tư biện như trên (Lâm Thị
Mỹ Dung).
[8]
Một kiểu bình Kendi, có nguyên mẫu từ Kundika Ấn Độ, thường dùng trong nghi lễ
và rất phổ biến (bằng đất nung) trong các địa điểm Chămpa (từ sau thế kỷ 3) và
Óc Eo, trong các sưu tập tư nhân và trưng bày bảo tàng loại Kendi bằng kim loại
cũng rất nhiều (Lâm Thị Mỹ Dung).
P/S. Bình purṇagātha, Đa Nghi, Quảng Trị