(Bài đã in trong Di sản Lịch sử và những
hướng tiếp cận mới (nhiều tác giả). Tủ sách Khoa học Xã hội, chuyên khảo về Khảo
cổ học và lịch sử, do Viện HARVARD YENCHING tài trợ. NxbTG, Hà Nội, tr.29-86)
Tóm tắt
Phần lớn các
nghiên cứu về văn hoá Sa Huỳnh từ trước tới nay ít đề cập tới các vấn đề liên
quan đến bản chất và nguyên nhân của tiến hoá xã hội (tức quá trình gia tăng của
tính phức hợp xã hội), do vậy nhiều vấn đề về quá trình hình thành nhà nước sớm
và chuyển biến kinh tế xã hội giai đoạn lịch sử sớm mới chỉ được giả định thông
qua việc soi tìm từ thư tịch cổ.
Cơ sở dữ liệu
khảo cổ về mộ táng và cư trú ở Miền Trung Việt Nam thời gian từ TK 5TCN đến TK 5 CN phản ánh sự phát triển xã hội trong
nhiều khía cạnh từ vật chất đến tinh thần, đặc biệt là các vấn đề sau:
i.
Chuyển
biến cơ cấu và quan hệ xã hội trong mỗi cộng đồng dân cư;
ii.
Sự
phát triển đa dạng và không đồng đều của các cộng đồng dân cư;
iii. Mối
quan hệ bên trong mỗi cộng đồng, giữa các cộng đồng và bên ngoài các cộng đồng
theo cả trục thời gian và không gian.
Ứng dụng một số
lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của Khảo cổ học Mới (tập trung phân tích,
so sánh các dữ liệu từ mộ táng) nghiên cứu này thử đưa ra những diễn giải về bản
chất, nguyên nhân của sự gia tăng tính phức hợp xã hội có liên quan chặt chẽ tới
sự hình thành các dạng nhà nước sớm ở một khu vực cụ thể (miền Trung Việt Nam).
Nguồn tài liệu
sử dụng: Đa nguồn, có sự gắn kết hữu cơ và chặt chẽ giữa khảo cổ, khảo cổ dân tộc
học và thư tịch (tư liệu vật chất và thành văn)
Mức độ nghiên
cứu so sánh: Đặt Miền Trung Việt Nam trong một bối cảnh rộng hơn để tìm hiểu
cái chung và riêng trong quá trình gia tăng tính phức hợp xã hội dẫn đến sự
hình thành các chính thể dạng nhà nước. Những điểm đặc thù của Đông Nam Á trong
thời tiền, sơ sử như mật độ dân số không đều, số dân không lớn, quan hệ đặc biệt
về huyết thống, sự song hành của quan hệ xã hội theo chiều dọc (phân tầng) và
chiều ngang (mạng lưới), tính đa dạng văn hoá cao... đều được xem xét một cách
thích hợp trong nghiên cứu này.
Các vấn đề
chính của bài viết
Tổng quan về dữ
liệu mộ táng và cư trú thời Sơ sử Miền Trung Việt Nam
Một số vấn đề
văn hóa-kinh tế - xã hội từ diễn giải dữ liệu khảo cổ
Từ khóa: Miền Trung Việt
Nam, Sơ sử, Phức hợp xã hội; Văn hóa Sa Huỳnh; Mộ chum; Nhà nước sớm.
Bài viết đầy đủ
TIẾP CẬN KHẢO
CỔ HỌC XÃ HỘI VÀ KHẢO CỔ HỌC MỘ TÁNG TRONG NGHIÊN CỨU MIỀN TRUNG THỜI SƠ SỬ*
I. Nền
tảng Tự nhiên
I.1.Không
gian địa-văn hóa: Theo phân vùng địa lý,
miền Trung Việt Nam (hay Trung bộ), tính từ bắc Thanh Hoá đến nam Phan Thiết.
Tuy nhiên, không gian địa - văn hoá
miền Trung không hoàn toàn trùng với không gian địa lý, từ góc độ văn hoá - khảo
cổ học, từ trước sau công nguyên, Thanh Nghệ Tĩnh thuộc không gian văn hoá Đông
Sơn, không gian văn hoá Việt cổ. Như vậy, không gian cả tự nhiên cả văn hoá được
đề cập trong bài nghiên cứu này được tính từ Quảng Trị phía bắc đến Phan Rang,
Phan Thiết phía nam với cốt lõi là hai khu vực Quảng Nam – Bình Định và Phú Yên – Phan Thiết.
I.2. Địa hình, khí hậu: Đây là dải địa hình hẹp,
mang tính chuyển tiếp dần từ những mạch núi cao trong dãy Trường Sơn nam ở phía
tây qua những đồi núi thấp ở giữa và miền đồng bằng ven biển ở phía đông. Mô
hình hoá địa thế này chúng ta sẽ có một trục dọc hẹp đựơc phân cách và nối nhau
bởi những đèo-nhánh núi chạy cắt ngang từ dãy Trường Sơn trải dài theo chiều dọc.
Đó là đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả... và vô số những
đèo nhỏ khác. Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều
Tây-Đông ra biển. Những sông này tạo nên một số đồng bằng khá rộng như đồng bằng
sông Hàn và sông Thu Bồn ở Quảng Nam Đà Nẵng, đồng bằng sông Trà Khúc ở Quảng
Ngãi, đồng bằng Quy Nhơn ở cửa sông Cả, đồng bằng Tuy Hoà ở cửa sông Đà Rằng và
Nha Trang ở cửa sông Cái. Sông miền Trung ngắn, nước biếc xanh, ít phù sa do đó
châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu, cùng với đường bờ biển cao và khúc khuỷu tạo
thành các vịnh cảng lớn nhỏ. Bờ biển miền Trung lồi lõm, ngoài bờ là những đảo,
cụm đảo, đó là hòn Gió (Quảng Bình), đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng
Nam), Lý Sơn-Cù Lao Ré (Quảng Ngãi), Hòn Tre (Khánh Hoà), Phú Quý (Ninh-Bình
Thuận)... Những đảo này là những “bình phong” ngăn chặn bớt sóng gió Biển Đông,
đồng thời là tuyến đầu trong quá trình giao thoa văn hoá khu vực và quốc tế, nối
Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, nối bắc- nam và đông – tây.
I.3. Những yếu tố địa-sinh thái tác
động đến tính chất văn hóa miền Trung
Địa
hình miền Trung cho thấy tầm quan trọng của việc xem xét những mối liên hệ
không gian cả theo chiều ngang-tức mối liên kết từng tiểu vùng, từng lãnh địa
theo kiểu “một đèo, một đèo, lại một đèo” như đã nói ở trên. Mối liên hệ không
gian theo chiều dọc ở mỗi ô kiểu Núi-Đồi-Đèo-Sông-Biển cùng với liên hệ kiểu
sinh thái Cồn-Bàu-Đầm Phá cũng là cách tiếp cận cần thiết để hiểu miền Trung, sông
(và) núi cắt ngang và chia nhỏ miền Trung, nhưng bến cảng thì lại trải dọc dài
khắp vùng, nối liền các mạng cửa sông tạo nên sự hoà quyện đặc sắc giữa yếu tố
sông-đồng bằng và yếu tố biển. Sông và biển phối hợp nhau tạo nên đất nước và ảnh
hưởng vào văn hoá con người.
Thời
tiết nắng nóng, khí hậu khô hạn thường được xem là những yếu tố không thuận lợi
cho sự định cư của con người, do vậy, miền Trung Việt Nam thường được coi là
vùng đất kém/khó phát triển so với miền Bắc và miền Nam. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu của Dự án “Dry Areas in Southeas
Asia: Harsh or Benign Environment (Những vùng khô hạn ở Đông Nam Á: Môi trường Khắc
nghiệt hay Tốt lành)” của các học giả Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại
học Kyoto lại cho thấy :
i. Thứ nhất: Theo quan điểm về sự tiến hóa về môi trường sống của con
người, vùng khô thích hợp hơn cho việc định cư thuở sơ khai. Vùng khô không
hoàn toàn khắc nghiệt mà cũng đủ thuận tiện để con người có thể thích nghi và ổn
định cuộc sống.
ii. Thứ hai: Cần nhìn nhận một cách hợp lý vai trò
của các phương thức mưu sinh tùy thuộc chặt chẽ vào điều kiện sinh thái.
iii.
Thứ ba: Vai trò của hệ
thống trị thuỷ và điều phối việc sử dụng nước
Áp
dụng quan điểm này vào nghiên cứu trường hợp miền Trung ta có thể nhận thấy, đối
với miền Trung Việt Nam, nông nghiệp (cụ thể là trồng lúa nước) không có vai trò
áp đảo như ở hai miền Bắc và Nam, các phương thức mưu sinh khai thác và tận dụng
tự nhiên sinh thái rừng, biển đảo đóng vai trò quan trọng. Trên thực tế, sự
giàu có và thịnh vượng của chính thể (vùng khô - mà trong trường hợp này là
không gian văn hóa Sa Huỳnh) không liên quan nhiều đến các sản phẩm nông nghiệp,
kết quả phân tích di tích và di vật văn hóa Sa Huỳnh cho thấy những sản phẩm
nông nghiệp vừa đủ để đảm bảo “an ninh
lương thực” cho cư dân chứ không phải là hàng hoá xuất khẩu chính. Hàng xuất
khẩu và nhập khẩu chủ yếu là lâm thổ sản, hàng thủ công…. Sự
thịnh vượng và giàu có của cư dân văn hóa Sa Huỳnh chủ yếu dựa vào các phương
thức mưu sinh đa dạng như khai thác tài nguyên khoáng sản và các sản phẩm rừng
(bao gồm cả sản phẩm từ gỗ và phi gỗ) cũng như trao đổi buôn bán
do nằm ở trung tâm của các lộ trình mậu dịch quốc tế.
Khi
nghiên cứu khu vực này cũng cần đặc biệt lưu ý đến mạng lưới trao đổi từ vùng
cao xuống vùng thấp và ngược lại và những bến, cảng thị cửa sông ven biển như cầu nối giữa Bắc và Nam, giữa Lục địa và
Hải đảo. Như nhận định của nhà nghiên cứu Momoki Shiro, Chămpa (tức miền
Trung Việt Nam) là cánh cổng đi vào thế giới Trung Hoa
đối với người Malay và Inđô, trong khi bản thân nó cũng là cánh cổng của thế giới
Ấn Độ hóa đối với Philippin và Việt Nam (Bắc Việt Nam).
Theo
các nhà nghiên cứu, nhìn chung, trước thế kỷ 16, khi chưa có đường biển qua
lại giữa Thái Bình Dương với Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương với Đại Tây Dương,
chỉ duy nhất ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương là hình thành những con đường
đi qua Đông Nam Á; Melaka (Malacca), Sunda và các eo biển Lombok, vào thời kỳ
này, biển Đông Nam Á đóng vai trò kiểm soát các luồng văn minh thế giới.
Bên cạnh đó, miền Trung là lãnh thổ duy nhất ở Việt Nam có những con đường ngắn
nhất nối liền các đường hàng hải quốc tế
ở biển Đông với những tuyến giao thông bộ và thuỷ trong Đông Nam Á lục địa, đường
hàng không cũng vậy
Đường bờ biển dài, thuận lợi cho
việc tiếp xúc, giao lưu văn hoá mạnh mẽ là nơi tiếp nhận từ rất sớm và mạnh mẽ
những luồng văn hoá-cư dân từ biển vào, những dòng sông chảy từ Tây sang Đông
cắt ngang dải đất này cũng đồng thời là những dòng chuyển tải con người, hàng
hoá, ý tưởng… từ biển lên nguồn và từ nguồn xuống biển, tạo thành một mạng trao
đổi dọc, ngang nhộn nhịp, sôi nổi suốt thời kỳ thiên niên kỷ I TCN và tăng
cường mạnh mẽ trong thiên niên kỷ I CN.
Bảy hằng số địa lý của phức hệ sinh
thái Núi đồi - Đèo – Sông - Biển -
Cồn - Bàu - Đầm Phá cùng với địa hình đặc trưng Núi gần sát Biển
Đảo chỉ cách nhau bởi một dải châu thổ - đồng bằng phù sa sông pha biển hẹp đã
tạo hình không gian địa - chính trị, địa - văn hóa miền Trung thành dạng hình
hộp chữ nhật đứng với cạnh Tây là núi đồi, cạnh Đông là biển, với các đèo-sông,
chia nó thành các xứ - vùng hình chữ nhật ngang ,
đặc điểm phát triển kinh tế và trao đổi nội/liên vùng thời Sơ sử được quy định
bởi những điều kiện sinh thái này.
Nếu nhìn toàn bộ hệ thống, miền
Trung (nhất là Nam Trung Bộ từ Quảng Nam trở vào) là túi hứng từ Biển - Đảo
vào, từ Núi – Rừng xuống của nhiều tộc người và ngữ hệ. Về cơ bản có hai hệ, hệ Nam Đảo và hệ Nam Á , mỗi hệ đều có địa bàn sinh tụ riêng, nhưng do đường sông và đường biển dài
và dày nên việc di chuyển dân cư theo từng nhóm như một đơn vị tộc người-văn
hoá xảy ra khá thường xuyên (sự di dân có đặc điểm theo kiểu tằm
ăn lên vừa chậm chạp, vừa loang lổ)
nên sự có mặt của cư dân hệ Nam Á trong
không gian Nam Đảo và ngược lại khá phổ biến.
II.
Dữ liệu mộ táng và cư trú
II.1. Loại
hình di tích
Cho tới nay
trên 110 di tích văn hóa Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh đã được phát lộ và nghiên cứu
(khoảng 20 di tích Tiền Sa Huỳnh và khoảng 90 di tích Sa Huỳnh). Các di tích
văn hoá Sa Huỳnh phân bố ở mọi địa hình các tỉnh miền Trung Việt Nam với cực bắc
là vùng giáp ranh với văn hoá Đông Sơn (Hà Tĩnh) và cực nam là vùng giáp ranh với
văn hoá Đồng Nai (Đông Nam Bộ). Các di tích phân bố trên ba dạng địa hình
chính:
i.
Núi
và đồi gò trước núi ven sông;
ii.
Cồn/gò
cát ven sông, ven biển, đồng bằng duyên hải và
iii.
Đảo.
Các di tích tập trung đậm đặc ở các lưu vực
sông lớn, đặc biệt ở vùng cửa sông – biển, ở địa hình này, các di tích thường
phân bố tập trung thành cụm, quy mô di tích lớn ở ven các dòng sông mà điển
hình ở lưu vực sông Thu Bồn, mật độ các di tích phân bố rất đậm đặc. Như vậy,
những trung tâm chính của văn hoá Sa Huỳnh được tạo lập dựa trên điều kiện tự
nhiên và sinh thái của những lưu vực sông lớn nối liền biển (bản đồ 1, bảng 1).
Trong số
khoảng 90 di tích văn hóa Sa Huỳnh đã phát hiện cho tới nay chỉ có 02 di tích
cư trú được khai quật và khoảng 03 di tích cư trú được khảo sát và thám sát, khoảng
trên 40 di tích mộ táng và mộ táng - cư trú đã được khai quật.
Trong
các di tích văn hóa Sa Huỳnh, mộ táng là loại hình di tích tìm được với số lượng
áp đảo, đây là những khu mộ địa độc lập trên sườn cồn cát ven biển, đồi gò hay
những giồng đất cao ven sông. Những khu mộ địa có diện tích rộng có những khu mộ
rộng tới chục nghìn mét vuông và thường là phức hợp di tích của nhiều giai đoạn
chôn cất tồn tại liên tục trong vòng thời gian từ một đến vài trăm năm. Những
khu mộ địa được tổ chức dựa trên một quy hoạch định trước, do đó ta rất ít khi
gặp mộ cắt phá nhau dù chôn ở các thời điểm khác nhau.
Khu
cư trú nằm liền kề khu mai táng và thường ở vị trí thấp hơn như chân cồn cát
ven sông ven biển, bậc thềm sông hay rìa những doi đất cao ven sông cận kề nguồn
nước ngọt và đất thấp để canh tác. Ngoài ra còn có một số di tích cư trú kết hợp
với mộ táng, trong những di tích này mộ táng thường có niên đại muộn hơn một
chút so với lớp cư trú.
II.2. Đặc trưng của các di tích cư trú:
Cho đến nay rất ít các di tích cư trú Sa Huỳnh
được phát hiện, số di tích cư trú được khai quật lại càng hiếm, có thể kể đến một
số di tích tiêu biểu như Thôn Tư, Tiên Hà (Gò Miếu), Bàu Nê, đều ở tỉnh Quảng
Nam. Gò Duối (Khánh Hòa). Ngoài ra còn có một số di tích cư trú khác tại Khánh
Hòa như Ninh Thân, Ninh Đông, Diên Điền đã được phát hiện vào 1988 song không
có thông báo cụ thể.
Bàu
Nê, Tam Xuân, Núi
Thành, Quảng Nam. Phát hiện và khảo sát năm 1984. Cư trú cách mộ Tam Mỹ khoảng
1km. Tầng văn hoá dày khoảng 0,50-0,70m. Hiện vật chủ yếu là mảnh vỡ của nồi, dọi
se chỉ, không thấy mảnh chum. Di chỉ cư trú có thể đồng đại với Tam Mỹ. Tuy
nhiên, tư liệu về địa điểm này đến nay không còn nữa.
Di
chỉ Gò Miếu (Tiên Hà): di chỉ Gò Miếu cách di tích mộ táng Gò Quảng khoảng 1,5 km về phía đông. Di tích phân bố ở
thềm sông Tiền (thềm này cao hơn nước sông tháng 3 khoảng từ 30-35m, và thường
xuyên ngập lụt vào mùa lũ). Di vật phát lộ trong tầng văn hoá dày khoảng
60-80cm là đồ đá, đồ gốm, đáng chú ý là cụm gốm có 4 nồi (có nồi có chân) trong
một khu vực được xác định là bếp. Đồ gốm kém phong phú, chủ yếu là nồi miệng
loe, chân đế thấp, liền với thân. Không thấy đồ sắt, nhưng có đồ đồng là những
mảnh của rìu tứ giác.
Di chỉ Thôn Tư: Thôn Tư, Duy Trung,
Duy Xuyên, Quảng Nam. Tầng văn hóa dày khoảng từ 40- 50 cm, các mảnh gốm Sa Huỳnh
phân bố rải rác khắp bề mặt hố trong các lớp đào và cũng có một số nằm co cụm
thành từng đám, từng dải, hoặc những cá thể gốm bị vỡ in situ và mảnh
văng ra xung quanh. Bên cạnh gốm còn có đồ đồng, đồ sắt, trang sức bằng đá
Jade, Nephrite, và một số vết tích của nghề đúc đồng như mảnh đồng vụn, mảnh nồi
nấu đồng, bọt xỉ đồng, giọt đồng và nhiều tảng đất bị nung cháy. Di tích cư trú
này nằm trong tổ hợp di tích cư trú và di tích mộ táng. Đồ gốm tìm thấy trong
di chỉ cư trú có nhiều nét tương đồng với đồ gốm tìm thấy ở những khu vực mộ
táng Gò Mả Vôi, Gò Miếu Ông. Tuy nhiên giữa mộ táng Gò Mả Vôi và cư trú Thôn
Tư mặc dù đồng đại nhưng lại có những
chênh lệch đáng kể về di vật. Đồ gốm, đồ đồng ở khu mộ táng phong phú và tinh xảo
hơn nhiều so với những đồ tìm thấy ở nơi cư trú, đặc biệt bộ di vật đồng tùy
táng với những loại hình như rìu, giáo, dao… kiểu Đông Sơn tìm thấy trong các
ngôi mộ ở Gò Mả Vôi đã không phát hiện được trong lớp cư trú Thôn Tư(ảnh 1).
Di chỉ Gò Duối: Di tích Gò Duối thuộc
thôn Hòa Diêm, xã Cam Thịnh Đông, Cam Ranh, Khánh Hòa thuộc phức hợp di tích
Hòa Diêm, phức hợp di tích Hòa Diêm gồm ba loại hình di tích chính là cư trú, mộ
táng và mộ táng chôn vào nơi cư trú, trong đó Gò Duối là di chỉ cư trú.
Tầng
cư trú dày trung bình 0.70-0.80cm, đất màu xám đen, cứng, nén chặt và chứa nhiều
vỏ nhuyễn thể, đá mảnh vụn. Vết tích cư trú được nhận biết qua sự hiện diện của
những tích tụ vỏ sò, xương động vật, than tro và gốm vỡ tập trung thành từng
đám. Khu cư trú Gò Duối có niên đại thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt, trong khoảng một
vài thế kỷ trước sau Công nguyên. Các lớp văn hoá ở đây có sự phát triển liên tục
từ khoảng thế kỷ 3,4 TCN đến thế kỷ 2, 3 SCN. Đồ gốm có những nét tương đồng với
đồ gốm tìm thấy trong tầng cư trú của khu cư trú kết hợp mộ táng Hòa Diêm,
ngoài ra cũng có một số loại hình và trang trí gốm riêng. Trong đồ gốm không có
sự thay đổi đáng kể nào từ sớm đến muộn. Hiện vật gốm, đá, nhuyến thể và xương
cho thấy có nhiều yếu tố kế thừa từ văn hoá Xóm Cồn, nền văn hóa sớm hơn văn
hóa Sa Huỳnh có niên đại cách đây trên 3.000 năm. Giai đoạn sớm, công cụ bằng
xương và bằng đá chiếm vai trò chủ đạo, từ khoảng cận kề Công nguyên xuất hiện
đồ sắt và đồ đồng. Những mảnh gốm kiểu Hán và mảnh bán sứ Hán - Lục Triều cho
thấy từ sau Công nguyên có sự tiếp xúc và trao đổi văn hoá với thế giới bên
ngoài. Như vậy tại di tích có sự chuyển biến văn hoá một cách dần dần và liên tục
từ Sơ sử sang giai đoạn Lịch sử.
Nhìn
chung, dấu tích cư trú đã phát hiện được của người Sa Huỳnh chưa tương xứng với
các quy mô và số lượng các địa điểm mộ táng. Nơi cư trú có lẽ thường nằm ở khu
vực gần dòng chảy, thấp hơn so với nơi chôn cất, tầng văn hoá không dày, dễ bị
bào mòn và làm xáo trộn. Trong khi đó với đặc tính của các dòng sông miền Trung
là ngắn, độ dốc lớn kết hợp với “những cơn lũ miền núi đột ngột và
hung dữ, gây những hiện tượng lở bờ, đất đổ và đất trượt”
thì khả năng nhiều di tích cư trú bị lở xuống sông mất hết dấu tích là rất lớn,
hiện tượng đó đến nay vẫn tiếp tục xảy ra.
II.3.
Đặc trưng của các di tích mộ táng
Những địa điểm mộ táng thường có diện tích rộng, mộ thường được
chôn trên nhiều cồn cát hay gò đất phân bố liền kề. Mặc dù không có số liệu
chính xác nhưng có thể đưa ra con số ước tính cho một số khu mộ như Cồn Ràng ước tính rộng 5000m2, Gò Mả Vôi ước tính rộng 3000 đến
4000m2…. Nhiều khu mộ được sử dụng trong một thời gian dài 3 đến 4 trăm
năm với nhiều tầng lớp dựa trên những niên đại C14, AMS (bảng 1)
và biến đổi của các kiểu chum quan tài, từ những loại chum hình cầu, hình trứng
ở giai đoạn đầu của văn hóa Sa Huỳnh đến chum hình trụ ở giai đoạn cuối.
Táng tục cũng khá đa dạng, tại khu vực Sa Huỳnh Bắc (từ Huế đến
Bình Định) hầu như không tìm được vết tích xương cốt người trong các mộ. Khu vực
Sa Huỳnh Nam (từ Khánh Hòa đến Đông Nam Bộ) khá phổ biến các mộ quan tài có chứa
xương người, đặc biệt khu mộ Hòa Diêm trong một chum chôn vài cá thể. Khu vực đảo
ven bờ Quảng Ngãi lại có những mộ nồi/ vò cải táng trẻ em được chôn trong các
khu cư trú.
Trong một số địa điểm, xen kẽ với táng thức mộ chum, cư dân cũng thực hiện
chôn theo kiểu mộ đất (điển hình như ở di tích Gò Mả Vôi, Lai Nghi, Gò Quê, Hoà
Diêm…)(ảnh 2), táng thức mộ đất cũng thể hiện những
táng tục đa dạng như hung táng, cải táng, hoả táng và chôn tượng trưng
. Cả hai loại táng thức này cùng tồn tại trong một giai đoạn, tuy vậy, số lượng
mộ đất so với mộ chum không đáng kể. Một số mộ đất trong văn hoá Sa Huỳnh có
nhiều nét tương đồng với mộ đất Làng Vạc thuộc văn hoá Đông Sơn. Trong những di
tích có niên đại muộn sau Công nguyên, táng thức, táng tục và những đồ chôn
theo phản ánh xu thế tiếp xúc và trao đổi mạnh mẽ với Trung Hoa, Ấn Độ, Đông
Nam Á hải đảo và xuất hiện nhiều loại hình quan tài gốm và đồ tuỳ táng gốm khác
lạ hơn so với Sa Huỳnh cổ điển. Điển hình như ở di tích Xóm Ốc, Suối Chình (Đảo
Lý Sơn, Quảng Ngãi), Rừng Long Thuỷ, Suối Mây (Phú Yên), Hoà Diêm (Khánh Hoà) đồ
gốm tùy táng và chum gốm quan tài có những loại hình và trang trí khá riêng tạo
nên một dạng văn hóa mang tính địa phương - Sa Huỳnh Nam bên cạnh Sa Huỳnh Bắc
phân bố ở các tỉnh từ Huế đến Bình Định.
II.4. Đặc trưng của các di tích cư trú - mộ táng.
Trong giai đoạn Sơ sử, mộ địa hầu hết được tách hẳn khỏi
khu cư trú song ở một số nơi, mộ táng cũng được tìm thấy trong tầng cư trú. Có
ba di tích có mộ táng trong tầng cư trú là Xóm Ốc, Suối Chình (Quảng Ngãi), Hoà
Diêm (Khánh Hòa). Cả ba đều phân bố trên các cồn cát ven biển và trên đảo.
Hòa Diêm
Cư trú: Tầng cư
trú ở Hoà Diêm có cấu tạo từ những tích tụ thức ăn nhuyễn thể, xương cá, xương
động vật nhỏ như chim, gia cầm và xương động vật có vú vừa và lớn, mảnh gốm,
công cụ xương, trang sức bằng vỏ nhuyễn thể các công cụ đá (hòn nghiền, bàn
mài, …), hiện vật kim loại chỉ tìm thấy ở lớp trên. Trong tầng văn hóa còn phát
hiện nhiều xương động vật bị đốt cháy ở những khu vực có đất đen lẫn than tro
(có khả năng là tàn tích của bếp). Tầng cư trú này ở nhiều điểm đã bị phá huỷ
do có mộ chôn vào. Cư trú có niên đại bắt đầu từ khoảng thế kỷ 3, 4 TCN. Hiện vật
(gốm) trong nơi cư trú đơn điệu hơn rất nhiều so với gốm trong mộ táng và cho
thấy sự kế thừa từ văn hóa Xóm Cồn
trước đó, đặc biệt là nồi gốm văn chải. Một số công cụ, trang sức bằng vỏ nhuyễn
thể và bằng đá tìm được ở tầng cư trú Hòa Diêm cũng cho thấy chúng mang những
nét tương đồng với đồ đá và đồ nhuyễn thể văn hóa Xóm Cồn.
Mộ táng: Mộ táng Hoà Diêm - Khu mộ táng phân bố trên gò Đình Hoà
Diêm. Mộ táng Hoà Diêm có hai loại mộ đất và mộ chum. Mộ đất có hung táng, cải
táng và chôn tượng trưng. Mộ chum có cải táng, hoả táng và chôn tượng trưng, đặc
điểm nổi bật là kiểu táng kết hợp nhiều cá thể trong một chum (ảnh 3). Mộ táng Hòa
Diêm có nhiều đặc điểm riêng về loại hình chum quan tài, cách thức mai táng và
đồ gốm tùy táng so với mộ táng ở các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh ở Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định .
Sự khác biệt này có thể lý giải bằng nhiều nguyên nhân như tính địa phương
trong văn hóa, tính khu biệt trong tiếp xúc và trao đổi với thế giới bên ngoài,
tác động của những làn sóng di chuyển dân cư và do thời
gian hình thành, tồn tại của di tích.
Mộ táng ở Hòa Diêm
có quan hệ chặt chẽ với một số khu mộ táng ở Phillipin và Thái Lan. Điều này được
thể hiện trong sự tương đồng về táng thức và táng tục giữa phức hợp mộ táng Tabon,
mộ táng Kalanay
(Phillipin), sự tương đồng giữa các sưu tập gốm Hòa Diêm - Kalanay - Samui
(Thái Lan). Những táng tục của táng thức mộ chum Hoà Diêm không khác so với những
phát hiện ở hang Tabon vào thập kỷ 70 của thế kỷ 20. “Mộ chum ở hang Tabon có
nhiều loại: Hung táng (primary), toàn bộ thây được đặt trong chum; Cải táng
(secondary), một bộ phận xương cốt đặt trong chum; Kết hợp (multiple), thây hay
xương người của nhiều cá thể hoặc kết hợp giữa hung táng và cải táng”
. Đồ tùy táng (đặc biệt là đồ gốm) của Hòa Diêm cũng có những loại hình tương đồng
với gốm Kalanay, Tabon và Samui
.
Mối quan hệ giữa tầng cư trú và mộ táng trong di tích Hòa
Diêm được các nhà nghiên cứu xác định là có một giai đoạn trùng nhau về thời
gian tồn tại. Nhìn chung, lớp văn hóa cư trú có niên đại khởi đầu từ khoảng thế
kỷ 3, 4 TCN, mộ táng có niên đại muộn hơn (khởi đầu từ khoảng thế kỷ 2 TCN) và
kéo dài hơn so với niên đại kết thúc của nơi cư trú (thế kỷ 3,4 SCN). Theo kết
quả khai quật 2007, Hòa Diêm có tầng văn hóa gồm hai lớp. lớp cư trú dưới và lớp
mộ táng ở trên
. Mộ táng Hòa Diêm cũng như mộ táng Lai Nghi (Quảng Nam) và một số khu mộ táng
khác của văn hóa Sa Huỳnh cho thấy có sự hiện diện của nhiều yếu tố văn hóa ngoại
sinh như tiền đồng Ngũ Thù (Tây Hán và Sơ kỳ Đông Hán), gương đồng Tây Hán, đồ
đựng bằng đồng Tây Hán và Sơ kỳ Đông Hán, hạt chuỗi mã não khắc Axít Ấn Độ, hạt
chuỗi vàng chạm lộng có nguồn gốc Địa Trung Hải…
Hai địa điểm Xóm Ốc và Suối Chình đều phân bố ở đảo
Lý Sơn, Quảng Ngãi. Theo những người khai quật, ở Suối Chình có hai giai đoạn
cư trú phát triển liên tục từ sớm đến muộn, lớp dưới thuộc giai đoạn văn Sa Huỳnh,
lớp trên thuộc giai đoạn văn hóa Sa Huỳnh – Chăm cổ. Dấu tích liên qua đến cư
trú là công cụ bằng đá, kim loại, tàn tích thức ăn, dấu tích bếp lửa. Mộ nồi
chôn vào nơi cư trú ở Suối Chình đều là mộ chôn trẻ em, có niên đại cận kề Công
nguyên, mộ đất ở đây cũng có niên đại tương đương cũng như có một số nét tương
đồng với mộ đất Hòa Diêm.
Tại Xóm Ốc, vết tích văn hóa cổ phân bố trên diện tích
khoảng 10.000m2. Tầng văn hoá dày từ 1.40-1.50cm phát triển liên tục
từ sớm đến muộn. Gốm cư trú xen lẫn vỏ nhuyễn thể, có sự đan xen mộ táng nồi,
vò và huyệt đất trong nơi cư trú. Mộ vò, mộ nồi ở đây kéo dài từ giai đoạn Sa
Huỳnh sang đến giai đoạn Chăm cổ.
Theo tài liệu của các lần khai quật, địa tầng ở hai địa
điểm này đã bị xáo trộn nghiêm trọng và mộ nồi hay vò ở hai địa điểm này chỉ
dành cho một loại đối tượng là trẻ em. Hai di tích này cho thấy sự tiếp nối liên
tục về cư trú giữa hai thời kỳ Sa Huỳnh và Chăm cũng như sự đa dạng hóa cách thức
chôn cất của các cộng đồng cư dân thời kỳ đó.
III. Một số vấn đề kinh tế - văn hóa – xã hội từ dữ liệu
mộ táng và cư trú.
Tang lễ là nơi biểu thị vật
chất của hoạt động giao tiếp và văn hóa vật chất trong tang lễ không đơn thuần
là cái còn lại, phần chuyên chở thụ động của thông tin về đặc tính giao tiếp
(như bản sắc tộc người, vị thế…), thay vào đó văn hóa vật chất này là phần tích
cực, không tách rời của cả hệ thống
.
Mai táng và nghi lễ kèm theo
thể hiện một cách sinh động các mối quan hệ xã hội cho dù đó là các xã hội dạng
đơn giản (kiểu bình quân địa tầng) hay xã hội phức hợp (kiểu phân tầng). Sự kiện
mai táng vừa là nghi lễ (mang tính chất tín ngưỡng, tôn giáo…) vừa là sự kiện
xã hội hay thậm chí là chính trị… Sự kiện có tính kết hợp này phản ánh gần đầy
đủ những khía cạnh khác nhau của đời sống cá nhân và cộng đồng. Từ góc độ tâm
lý văn hóa lễ mai táng còn mang tính đặc thù về thời gian và không gian mà ở đó
cách ứng xử (giữa người sống với người chết, giữa người sống với người sống…) sẽ
khác hơn so với thông thường.
Binford một đại diện tiêu biểu của Khảo cổ học Mới và muộn
hơn là Khảo cổ học Quá trình, qua nghiên
cứu liên văn hoá sử dụng tư liệu từ hàng chục các xã hội khác nhau đã nhận thấy
như sau:
i.
Có sự tương liên trực tiếp giữa cấp bậc xã hội của người
chết với số lượng người quan hệ với người chết và
ii.
Những khía cạnh của thân phận xã hội ngưòi chết được nhận
biết qua phong tục. Nghi lễ mai táng biến đổi một cách trực tiếp theo cấp bậc
tương đối của vị thế xã hội khi còn sống của người chết
.
iii.
Và nhiều vấn đề khác nữa.
Tuy nhiên mỗi xã hội lại sẽ có những quy chuẩn riêng mà
đôi khi không hợp với những nguyên tắc có tính chất chung đã được tổng kết từ
các xã hội khác.
Từ
quan điểm tiếp cận trên, sử dụng những tư liệu từ mộ táng và liên quan đến mộ
táng, chúng tôi thử tìm cách lý giải một số vấn đề liên quan đến đời sống kinh
tế văn hóa xã hội của cư dân Sa Huỳnh. Tuy nhiên, một số ý kiến đưa ra chưa thể
hoàn chỉnh, đôi khi mang tính võ đoán do tư liệu ít về số lượng, lại chưa được
nghiên cứu đầy đủ về tính chất. Nguyên nhân vì các báo cáo khai quật cho tới
nay chủ yếu mới chỉ cung cấp số liệu liên quan đến loại hình của đồ tuỳ táng và
quan tài táng, gần như không có số liệu về nhân chủng học, bệnh lý, chế độ ăn,
thức ăn, đồ ăn chôn theo hay sử dụng trong tang lễ.
III.1. Cấu trúc của nghĩa địa, táng thức và táng tục.
Địa thế của nghĩa địa: Từ vị thế của
các khu mộ và cách phân bố chum mộ có thể thấy cư dân cổ đã dành riêng những
khu đất đảm bảo các yêu cầu như gần kề nơi ở, cao ráo và ít bị tác động bởi lũ
lụt để làm nghĩa địa và mộ được chôn theo một sơ đồ hay quy hoạch có từ trước.
Điều này chứng tỏ mỗi khu nghĩa địa thuộc về một nhóm cư dân. Họ sử dụng, khai
thác từ đời này sang đời khác theo quan hệ có chung những ông bà tổ tiên và duy
trì qua các thế hệ con cháu. Việc chọn khu đất thích hợp chôn cất người chết nhằm
biểu thị quan niệm về sự vĩnh cửu của con người. Nhà khảo cổ người Mỹ Arthur
Saxe cho rằng quyền sở hữu đất đai của một cộng đồng/nhóm người dựa vào sự phán
truyền của Tổ tiên
. Người sống dành những phần đất “trang trọng” để an táng tổ tiên. Kết luận này
được đúc kết từ nghiên cứu so sánh tư liệu của ít nhất 30 xã hội khác nhau và
dù chưa phải là mẫu số chung, nhưng có thể thích hợp khi áp dụng cho đa số xã hội,
đặc biệt là xã hội Phương Đông. Như vậy, có thể việc chôn theo từng cụm từ 3,
5, 7 chum trong văn hoá Sa Huỳnh phản ánh kiểu quan hệ gia đình dòng họ, có thể
mỗi cụm hay nhóm cụm là khu vực chôn của một gia đình hay một dòng họ. Khu đất
nghĩa địa thường do cư dân khu cư trú liền kề duy trì, quản lý và sử dụng.
Cấu trúc nghĩa địa: Phân bố
mộ trong khu nghĩa địa và một số cách xử lý mộ. Chúng ta không có nhiều tư liệu
để khôi phục lại sơ đồ phân bố các mộ trong một khu nghĩa địa. Nguyên nhân chủ
yếu là các địa điểm thường bị phá huỷ trước khi các nhà khảo cổ có mặt để khai
quật. Nhiều địa điểm mới chỉ được khai quật một phần, một số địa điểm tư liệu
thiếu những chỉ dẫn cần thiết. Theo quan sát của các nhà nghiên cứu, những chum
mộ được chôn theo một số cách như sau:
i.
Phân bố mộ theo kiểu ô bàn cờ (như mộ Cồn Dài –TT, Huế);
ii.
Phân bố theo từng hàng (như mộ Gò Dừa- Quảng Nam) (bản vẽ 1);
iii.
Phổ biến nhất là lối chôn thành từng cụm (ở rất nhiều địa
điểm đều thấy báo cáo mộ chum chôn theo cụm).
Khoảng cách giữa các chum không đều và ở một vài địa điểm
có hiện tượng chum chôn chồng lên nhau. Ở một số địa điểm những người khai quật
đã xác định được dạng biên mộ. Ở địa điểm
An Bang tất cả các mộ chum đều có biên mộ hình ô van, có trường hợp hai mộ
chung trong một biên mộ. Một số mộ ở Gò Mả Vôi biên mộ hình tròn, có đường
kính lớn hơn chum khoảng 10cm. Ở Gò Dừa biên mộ có hình tròn và có đường kính lớn
hơn chum khoảng 5-7cm. Táng thức chủ đạo của người Sa Huỳnh là mộ chum đơn,
song cũng có những mộ chum lồng đôi (dạng trong quan ngoài quách). Đặc biệt có
trường hợp lồng ba như ngôi mộ ở B’rang. Đáy của một số chum mộ được xử lý đặc
biệt như kè đá hay kè gốm. Dấu vết đốt củi sưởi mộ chỉ thấy ở một số vùng.
Trước đây mộ đất không được phát hiện nhiều trong các địa
điểm văn hoá Sa Huỳnh, tuy vậy nhiều tư liệu khai quật cho thấy số lượng mộ đất
tăng lên đáng kể trong các địa điểm mới khai quật gần đây. Mộ đất cũng thường
đơn táng, nhưng cũng có trường hợp song táng hay đa táng như ở Xóm Ốc, Hoà
Diêm. Mộ đất không tồn tại độc lập mà được cư dân thực hành cùng với táng thức
mộ chum. Không có sự khác biệt về không gian và mức độ giữa hai táng thức này.
Táng tục của cư dân Sa Huỳnh rất đa dạng. Cả ở hai hình
thức mộ chum, mộ đất đều có táng tục như hoả táng, cải táng, hung táng và chôn
tượng trưng. Tại một số địa điểm còn có hình thức chôn kết hợp (multiple) như
trường hợp Hòa Diêm đã nói ở trên.
Chúng tôi cho rằng trong địa bàn phân bố của văn hóa Sa
Huỳnh, táng thức dùng quan tài bằng gốm với những táng tục đa dạng như hung
táng, cải táng, hỏa táng và tượng trưng được xem là đặc trưng chủ đạo và xuyên
suốt (với những biến đổi cả theo thời gian và trong không gian). Từ góc độ khảo
cổ học mộ táng, táng thức biến đổi theo loại hình văn hóa địa phương và có những
khác biệt đáng kể giữa vùng trung tâm/hạt nhân - ngoại vi - đệm. Loại hình quan
tài gốm trong văn hóa Sa Huỳnh biến đổi theo ba giai đoạn và trong hai loại
hình địa phương Bắc - Nam được diễn giải bằng những nguyên nhân nội tại như mức
độ tiến hóa không đồng đều về phức hợp xã hội trong và giữa các cộng đồng dân
cư; tính đa dạng trong phát triển và hấp thụ tôn giáo, tín ngưỡng… nguyên nhân
có nguồn gốc từ bên ngoài như mở rộng mạng lưới buôn bán, trao đổi
.
III.2. Một số vấn đề xã hội từ dữ liệu mộ táng
Lứa tuổi, giới tính: Gần như
không có dữ liệu do xương cốt rất hiếm gặp. Tư liệu từ Hòa Diêm, Giồng Cá Vồ và
Lai Nghi cho thấy không có sự phân biệt giữa các lớp tuổi và giới tính trong một
khu mộ (bảng 2 ). Cho tới nay chỉ ở Suối Chình có sự
phân biệt khu vực chôn cất, như kết quả khai quật năm 2000 cho thấy trong hố I
có 06 mộ nồi thì tất cả đều là mộ cải táng trẻ em, khai quật năm 2005 phát hiện
03 mộ nồi thì 02 cải táng trẻ em, mộ kia chưa rõ vì không còn dấu tích xương. Đối
với trẻ nhỏ, người Sa Huỳnh có những cách chôn cất riêng, không hoàn toàn giống
như lối chôn người lớn, đặc biệt những dấu vết còn lại cũng cho thấy không có tục
hỏa táng trẻ em trong văn hóa Sa Huỳnh.
Nghề nghiệp. Hầu như
không có tư liệu ngoại trừ mộ Gò Quê, Động Cườm và một số mộ khác có chôn theo
quặng sắt. So sánh kiểu chôn này với một số mộ có nhiều tư liệu liên quan đến
nghề nghiệp như mộ người thợ đúc đồng ở Non Nok Tha, Thái Lan và dựa trên cách
tiếp cận phân tích chức năng, ý nghĩa của đồ chôn theo, có thể cho rằng, những
đồ tuỳ táng là nguyên liệu sản xuất, dụng cụ lao động ít nhiều đều có liên quan
đến nghề nghiệp của người được chôn. Tuy nhiên, do mức độ chuyên hoá về nghề thủ
công trong văn hoá Sa Huỳnh chưa cao cho nên chúng ta không thấy những mộ “đậm
đặc” tính nghề nghiệp sinh thời của chủ nhân mộ. Gần như trong các mộ có đồ tuỳ
táng, mộ nào cũng chứa một vài vật dụng - công cụ lao động.
Thân thế địa vị. Thân phận có thể được quy định không chỉ theo
uy tín và của cải mà có thể còn được kế thừa theo dòng họ. Chứng cứ về điều này
có thể được tìm thấy trong những mộ táng trẻ em. Mộ nồi chôn trẻ em ở Suối
Chình cho thấy có sự phân bố số lượng và chất lượng đồ tuỳ táng không đều từ
nghèo, trung bình và giàu trong 5 ngôi mộ khai quật năm 2000.
Thân thế địa vị của người được chôn
trong mộ có thể được xác định qua nhiều yếu tố liên quan đến cách thức xử lý
xác chết, kích thước của quan tài, kích cỡ quy mô ngôi mộ, số lượng, chất lượng
đồ tùy táng…
Có những ví dụ khác nhau về quan tài và sử dụng quan tài
ví dụ như ở Gò Dừa (Duy Xuyên, Quảng Nam), kiểu chum lồng nhau được tìm thấy
trong một nhóm gồm 5 cái, chôn sát cạnh nhau (có trường hợp giữa hai mộ chỉ có
một khoảng chừng 10cm), chum bên ngoài có kích thước rất lớn, việc hạ chum được
thực hiện khéo léo và cẩn thận cho thấy sự quan tâm, chăm sóc của cộng đồng đối
với người được chôn. Những trường hợp chôn dùng quan tài kép này hay việc kè đá
dưới một số đáy chum (Gò Mả Vôi, Gò Miếu Ông...) hay kè bằng mảnh gốm (Lai
Nghi), một mặt cho thấy sự đa dạng trong nghi thức chôn cất và mức độ quan tâm
của người sống đối với người chết mặt khác dẫn chúng ta đến việc xem xét thân
phận chủ nhân của những mộ này tách biệt ra khỏi những thành viên khác của cộng
đồng. Mặc dù không phải lúc nào thân phận của người được chôn cũng được phản
ánh đầy đủ qua hình thức mộ, quy mô mộ, quy mô tang lễ và đồ chôn theo,
nhưng nhìn chung địa vị, thân thế của người được chôn tỉ lệ thuận với số lượng
và chất lượng của nghi lễ và đồ vật mai táng. Việc sử dụng những chum lớn lồng
vào nhau như vậy còn phản ánh số của cải tiêu tốn, mức độ phức tạp của nghi thức
và đặc biệt nhiều “năng lượng tiêu dùng” cho nghi thức mai táng. Nghiên cứu
cách thức mai táng của 103 xã hội, Tainter Joseph nhận thấy rằng mức độ “năng
lượng tiêu dùng” (energy expenditure) tiêu tốn của nghi lễ mai táng và xây dựng
mộ táng mới chính là cái thể hiện rõ ràng nhất địa vị xã hội của người được mai
táng (90% trường hợp nghiên cứu), còn đồ tuỳ táng thể hiện vị thế của người được
mai táng chỉ ứng với 5% trường hợp nghiên cứu.
Hơn nữa, chất lượng và giá trị của hiện vật chôn theo có vai trò quan trọng hơn
so với số lượng. Giá trị của một hiện vật tùy táng được xác định dựa trên chất
liệu/nguyên liệu, nguồn nguyên liệu; thời gian và công sức chế tác; ý nghĩa biểu
trưng văn hóa; cách thức phân phối hiện vật và định giá xã hội mà cộng đồng gán
cho hiện vật…Ví dụ, dựa trên những tiêu chí này, đồ tùy táng ở Philipin được định
giá bằng cách tính điểm từng loại chất liệu/kiểu hiện vật theo thang điểm 1-10.
Theo đó trong thời kỳ sơ sử hiện vật đồng có giá trị cao nhất (9 điểm), đồ sắt
(8 điểm), đồ gốm chỉ có 4 điểm
Áp dụng một số
phương pháp nghiên cứu khảo cổ học mộ táng đã kể trên, trong một vài nghiên cứu
của mình chúng tôi đã thống kê hiện vật chôn theo mộ của một số địa điểm đã
khai quật để xem xét mức độ phân hoá của cải và xã hội. Số liệu của những thống
kê này chỉ có ý nghĩa tương đối do nhiều nguyên nhân như mức độ bảo tồn giữa
các địa điểm và giữa các mộ chum hay mộ đất trong từng địa điểm không đồng đều.
Diện tích khai quật của mỗi địa điểm thường chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, số liệu thống
kê không đầy đủ do nhiều mộ khi khai quật lên vẫn chưa được xử lý hết. Dưới đây
là số liệu của một số địa điểm được xử lý khá kỹ và tương đối đầy đủ
(bảng 3).
Địa điểm Gò Mả Vôi. Khai quật chữa
cháy 1998 được 30 chum mộ nhưng không rõ tình trạng. Do vậy chúng tôi chỉ sử dụng
số liệu khai quật của năm 1999 và 2000.
Năm 1999 phát hiện 11 mộ chum và 3 mộ đất, năm 2000 phát
hiện 6 mộ, tổng số mộ là 20. Dựa vào số lượng và loại hình đồ tuỳ táng có thể
chia thành các mức sau (Bảng
3c)
i. Loại thứ nhất có gốm tuỳ táng và ít kim loại hay đá, thuỷ tinh (13 mộ).
ii. Loại thứ hai có số lượng vừa đồ tuỳ táng kim loại và
trang sức đá (03 mộ).
iii. Loại thứ 3 có đồ tuỳ táng kim loại và trang sức đá,
thuỷ tinh... số lượng khá nhiều, một số hiện vật quí- mộ giàu (03 mộ)
Số liệu thống kê cho thấy có ba mức phân hoá về của cải
chôn theo người chết, tuy vậy giữa ba mức này sự cách biệt giữa mức 1 và 2
không lớn. Ở Gò Mả Vôi không có loại mộ rất giàu,-mộ của thủ lĩnh lớn, giống
như ở Lai Nghi qua thống kê dưới đây.
Địa điểm Lai Nghi (khai quật năm
2002, 2003, 2004)
Tại đây, có tỉ lệ thuận giữa số lượng đồ tuỳ táng trong một
mộ, có nghĩa là mộ nào có nhiều đồ sắt thì thường có nhiều đồ trang sức (Bảng 3b ).
Bằng cách thống kê đồ trang sức tìm thấy trong 63 ngôi mộ
Lai Nghi đã phát hiện trong ba đợt khai quật 2002, 2003 và 2004 ta thấy rất rõ
có sự phân hoá rõ rệt trong loại hình và chất lượng đồ tuỳ táng chôn theo. Ở
đây có sự tỉ lệ thuận giữa chất lượng đồ trang sức (chất liệu, loại hình, hàng
ngoại nhập) và số lượng đồ trang sức. Có thể nhận thấy ít nhất là ba mức/cấp độ
phân hoá tài sản và địa vị qua đồ trang sức chôn theo từ nghèo đến rất giàu.
i. Loại
thứ nhất hầu như không có đồ tuỳ táng kim loại hay đá, thuỷ tinh, chỉ có mảnh gốm (chum và
gốm chôn theo?). Loại này không nhiều lắm về số lượng. Mộ nghèo. Có 11 mộ chum
và 3 mộ đất.
ii. Loại thứ hai
có đồ tuỳ táng kim loại và trang sức đá, thuỷ tinh ... nhưng số lượng ít. Mộ vừa.
19 mộ
iii. Loại thứ 3 có
đồ tuỳ táng kim loại và trang sức đá, thuỷ tinh... số lượng khá nhiều, một số
hiện vật quý, độc đáo- mộ giàu. 08 mộ.
iv. Loại
thứ 4 có đồ tùy táng giàu, đặc biệt có những hiện vật đồng nghi lễ có nguồn gốc
Trung Hoa và hạt chuỗi mã não có nguồn gốc Ấn Độ, nhiều hiện vật bằng vàng. Mộ rất
giàu. 06 mộ
Trong số
mộ rất giàu có 01 ngôi mộ đất chứa những đồ tuỳ táng đặt biệt có giá trị đó là
mộ có ký hiệu 04LNH1M37. Đây là ngôi mộ đất có quy mô bề thế nhất trong các
ngôi mộ ở Lai Nghi với bộ đồ đồng Đông Hán và một số hiện vật bằng đá sa thạch
có chữ (nghiên, án mực) giống như một số mộ giai đoạn Sơ kỳ Đông Hán ở Quảng
Châu, Trung Quốc
. Mộ này bị mộ hợp chất niên đại thế kỷ 17,18 xây trùm lên, nhưng rất may đã
không bị xâm phạm vào và hiện vật gần như còn nguyên tại chỗ (in situ).
Đây cũng là mộ lớn nhất trong số những mộ chum và mộ đất Sa Huỳnh đã phát hiện
cho đến nay, tập trung một số lượng lớn đồ đồng như ấm, bình, bát, chậu, đỉnh
nhỏ, móc thắt lưng và đặc biệt là bộ nghiên, án mài mực, trên án có chữ Hán. Chữ
này chưa đọc được, nhưng bước đầu nhận định có bộ Nghiễm (…). Trên nghiên vẫn
còn vết mực mài màu đen. Chôn theo mộ này còn có một số đồ sắt như dao có chuôi
hình vành khăn, một số đồ gốm tuỳ táng - gốm văn hoá Sa Huỳnh. Xét theo chất và
lượng đồ tuỳ táng trong tương quan với những mộ khác ở địa điểm này và những địa
điểm mộ chum văn hoá Sa Huỳnh khác đã biết thì đây là mộ của người thuộc cấp bậc
cao (nhất) trong cộng đồng cư dân, có nhiều khả năng là của vị đại thủ lĩnh một
vùng. Đặc biệt sự có mặt của bộ nghiên ấn trong mộ cho thấy có nhiều khả năng
chủ nhân ngôi mộ là người có học (mà là Hán học). Niên đại của mộ thuộc giai đoạn
Sơ kỳ Đông Hán, nửa đầu thế kỷ 1 sau Công nguyên (ảnh 4)
.
Đồ bằng vàng có trong 6 mộ và cũng phần lớn trong những mộ
giàu đồ tuỳ táng. Mộ đất, ngoại trừ những mộ bị phá chỉ còn lại những cụm gốm
thì rất giàu, có thể nói là giàu nhất và chứa nhiều những hàng hoá có tính chỉ
thân phận, địa vị (Status makers). Có thể nói khu mộ Lai Nghi là khu mộ của một
cộng đồng cư dân giàu có, của cải tích luỹ được có lẽ phần nhiều do buôn bán nội
vùng và liên vùng. Ở Lai Nghi có những mộ mà
số lượng và loại hình đồ trang sức chỉ trong một mộ đã vượt xa so với đồ
trang sức phát hiện trong tất cả các mộ của một khu nghĩa địa (ảnh 5 ).
Mộ song táng và mộ 37 có đồ đồng Sơ kỳ Đông Hán chôn
theo thể hiện sự chăm sóc đặc biệt và
công sức bỏ ra khi chôn cất. Theo quan điểm của Koji đây có thể thuộc loại hình
mộ của những cá nhân có địa vị cao trong cộng đồng.
Địa điểm Gò Dừa trên diện tích khai quật 16m2
đã phát hiện 06 mộ chum (05 mộ chum lồng) (bảng 3a).
Có lẽ đây là khu mộ của dòng họ của những người có địa vị cao trong cộng đồng.
Mộ được chăm sóc đặc biệt qua việc sử dụng quan tài kiểu trong quan ngoài
quách, mộ chôn sát liền nhau nhưng không cắt phá nhau chứng tỏ có sự chuẩn bị cẩn
thận đất chôn. Trong số 5 mộ chum lồng có ba mộ 1,3 và 5 tạo thành cụm hình
vòng cung liền kề nhau . Trong số các mộ, mộ 1, 3 và 5 có số lượng đồ tuỳ táng
nhiều. Cả ba mộ này đều có đồ đồng nghi lễ Tây Hán như bát, đĩa, đồ đựng. Mộ số
5 có gương đồng Tây Hán
(bản vẽ 2) .
Hoà Diêm. 26 ngôi mộ khai quật năm 2002 ở Hoà Diêm
có thể được chia thành ba/bốn loại theo số lượng và chất lượng đồ tuỳ táng .
i. Mộ chứa ít đồ tuỳ táng, từ
1 đến 2 đồ gốm gồm M.1, M.14, M.23,M.26;
ii. Mộ chứa số lượng đồ tuỳ táng trung
bình từ 2,3 đồ gốm và 1, 2 hiện vật sắt, xương gồm M. 4, M12b, M.16, M.17,
M.22, ;
iii. Mộ chứa số lượng đồ tuỳ táng nhiều
hơn và phong phú hơn về loại hình cũng như chất liệu gồm M.2, M.3, M.8, M.5,
M.7, M.10 M.12 và
iv. Đáng chú ý là M.9 là mộ có nhiều nhạc
khí (lục lạc đồng), hạt trang sức thuỷ tinh và bằng vàng.
Như vậy, mức độ phân hoá của cải qua đồ tuỳ
táng ở Hoà Diêm khá cao và từ đó có thể thấy sự phân hoá địa vị xã hội ở mức độ
trung bình thể hiện sự khác biệt thân phận giữa các thành viên trong cộng đồng.
Khi so sánh Gò Mả
Vôi, Lai Nghi, Gò Dừa và Hòa Diêm như là những địa điểm tiêu biểu ta thấy có những
thay đổi về lượng và chất trong đồ chôn theo. Ở những địa điểm sớm hơn như Gò Mả
Vôi, Gò Quê…. đồ tùy táng bằng đồng nhiều hơn so với đồ tùy táng bằng sắt, đồ đồng
chủ yếu là công cụ và vũ khí, chưa thấy đồ nghi lễ như bình, bát, gương…những đồ
đồng loại này lại được thấy phổ biến hơn trong các địa điểm muộn hơn như Gò Dừa,
Lai Nghi… Đối với chất và lượng của đồ trang sức và đồ sắt chôn theo chúng ta
cũng thấy có một xu hướng như thế (bảng 3 a,b,c,d, bảng 4).
Trong đồ tuỳ táng có sự thay đổi theo thời gian, đó là từ đặc tính tập thể lớn
tới những đặc tính nhóm nhỏ hơn và ở mỗi một khu mộ táng thường phát hiện được
những hiện vật đặc biệt, gần như độc bản
mà ở những khu mộ khác không thấy. Những khu mộ Sa Huỳnh càng về sau càng mở rộng
quy mô và bề thế hơn, phân hóa của cải sâu sắc hơn. Đây là khu mộ của công xã
thị tộc hay công xã láng giềng, câu trả lời khó mà thỏa đáng? Có thể cũng giống
như trong văn hoá Đông Sơn, đây là những đơn vị sinh sống, quần cư dựa trên
nguyên tắc đậm huyết thống cộng với quan hệ láng giềng ngày càng lớn mạnh
.
III.3. Xã hội thời Sơ sử: Phác dựng
cấu trúc và quan hệ
III.3.1. Từ dữ liệu nghĩa địa, táng tục, táng thức và đồ
tùy táng đến diễn giải văn hóa
Những khu mộ địa rộng lớn và những phức hợp di tích mộ
táng cư trú phân bố ở nhiều loại địa hình với những khu tập trung ở các lưu vực
sông cho thấy sự hiện diện của những cộng đồng dân cư đông đúc. Những mộ địa Sa
Huỳnh dù phân bố trên bất kỳ địa hình nào cũng đều chiếm cứ không gian cao và rộng,
gần đường giao thông/thương và cận kề nơi cư trú. Những khu mộ địa có diện tích
rộng có những khu mộ rông tới chục nghìn mét vuông và thường là phức hợp di
tích của nhiều mộ địa tồn tại liên tục trong vòng thời gian từ một đến vài trăm
năm. Những khu mộ điển hình như Cồn Ràng, Gò Mả Vôi, Lai Nghi, Hoà Diêm... cung
cấp cho chúng ta chứng cứ về một dạng xã hội phức hợp phân tầng với sự phân hóa
xã hội, địa vị và của cải ở mức độ cao và không kém so với những xã hội đương
thời ở khu vực.
Trong nhiều nghiên cứu, đặc biệt là những nghiên cứu liên
quan đến sự hình thành nhà nước sớm và quá trình tiến hoá của tính phức hợp xã
hội, một số học giả đặc biệt chú ý đến một số chủng loại di vật đặc biệt như di
vật có nguồn gốc ngoại, di vật bằng chất liệu kim loại, thủy tinh, di vật có
kích thước lớn như là những chỉ dẫn, dẫn liệu về sự phát triển của tính phức hợp
xã hội
. Từ quan điểm cho rằng sự thay đổi trong sản xuất và sử dụng hàng hoá có vị
trí đáng kể khi đánh giá bản chất của những nhu cầu xã hội và điều cần lưu ý đối
với các nhà nghiên cứu là tìm hiểu ý nghĩa của hàng hoá trong bối cảnh lịch sử
nhất định, chúng tôi cho rằng, trong di vật văn hoá Sa Huỳnh, có những loại
liên quan rất chặt chẽ với cơ cấu và tổ chức xã hội, người Sa Huỳnh đã sử dụng
những hàng hoá hay vật dụng chuyên biệt để dung hoá và thể hiện những mối quan
hệ xã hội từ thân tộc đến láng giềng. Trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ tập
trung phân tích loại di vật chuyên biệt có tính biểu trưng cao, đó là những
chum gốm được dùng làm quan tài chôn người chết.
Bản thân chum gốm - quan tài có thể được xem xét từ nhiều
khía cạnh, mỗi chum-quan tài hàm chứa nhiều mã số, đặc điểm và giá trị khác
nhau. Việc vận chuyển chum-quan tài liên quan đến mối quan hệ ngang bằng hay
phân tầng xã hội, thân tộc-láng giềng-thân quen. Từ góc độ giá trị xã hội
chum-quan tài là vật biểu thị địa vị kinh tế, có thể phản ánh sự phân hoá xã hội
và cấp bậc. Từ góc độ tâm linh, chum-quan tài là nơi chôn giữ xương tro người
chết và thể hiện ý tưởng vũ trụ hay tôn giáo.
Việc dùng những chum (gốm, đá, gỗ) có kích thước lớn làm quan tài mai táng nếu
lý giải từ góc độ tổ chức xã hội cho thấy, ở những xã hội dạng bình quân địa tầng (egalitarian
societies) giai đoạn Tiền Sa Huỳnh chưa phát hiện thấy bất cứ hiện vật nào có
kích thước lớn, loại thường được các nhà nghiên cứu gắn với biểu tượng về mức độ
tổ chức xã hội tập trung và thể hiện quyền lực của người đứng đầu. Trong xã hội
dạng phức hợp, phân tầng ví dụ như xã hội kiểu lãnh địa hay tù trưởng quốc, những
xã hội có cơ sở tư tưởng dựa trên việc làm nổi bật vị thế của những người đứng
đầu bằng những không gian riêng biệt/thiêng
hay vật riêng biệt/ thiêng, như cự thạch, kim tự tháp hay đơn giản hơn
là những đồ vật có nguồn gốc ngoại, bằng chất liệu quý hiếm hay có kích thước lớn.
Kích cỡ và chất liệu của quan tài mai táng biểu trưng quyền uy và vị thế của
người được chôn trong đó. Để sản xuất ra được những chum gốm lớn này đòi hỏi việc
tập trung sức người (quản lý nhân công), thời gian (chuyên hoá sản xuất thủ
công và phân công lao động), tiền của (phân hoá của cải và quyền lực) của cộng
đồng dành cho một nhóm thiểu số người hay một cá nhân trong một tổ chức xã hội.
Việc chuyển biến trong cùng một táng thức từ những mộ nồi nhỏ Tiền Sa Huỳnh đến
số lượng không nhiều chum gốm lớn giai đoạn Long Thạnh cuối thời kỳ Tiền Sa Huỳnh
và khối lượng lớn chum có kích thước lớn giai đoạn Sa Huỳnh phần nào
cho thấy những chuyển biến trong cấu trúc xã hội từ đơn giản không phân tầng đến
phức hợp phân tầng. Sự đa dạng của loại hình chum quan tài song hành cùng sự
chuẩn hoá của loại chum hình trụ (có thể thấy sự đồng dạng đến kinh ngạc giữa
chum hình trụ Cồn Dàng (Thừa Thiên-Huế), An Bang (Hội An, Quảng Nam) với chum
Diên An (Diên Khánh, Khánh Hoà). Trong các tổ hợp đồ tùy táng bằng gốm, kim loại
và đá quý … của các khu nghĩa địa văn hóa Sa Huỳnh những loại hình tương đồng
chiếm tỉ lệ áp đảo so với những loại hình độc bản.
III.3.2. Tính chất và vai trò của quan hệ tiếp xúc và
trao đổi trong việc hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế - chính trị
Việc trao đổi giữa vùng thượng nguồn với vùng hạ lưu sông
(vùng cao với vùng thấp) diễn ra từ thời tiền sử do nhu cầu nội tại của các cộng
đồng dân cư. Việc trao đổi này khá phát triển và giữa hai vùng đã có không ít
loại hình di vật tương đồng như đồ gốm, rìu đá... Tuy vậy, bản chất của những
trao đổi này là lẻ tẻ, tự phát, theo thời vụ và chỉ ở quy mô đủ đáp ứng nhu cầu
tối thiểu của các nhóm cư dân trong vùng.
Trao đổi giữa vùng thấp với vùng cao tăng cường mạnh mẽ
trong giai đoạn sơ sử, khi bắt đầu hình thành các lãnh địa với sự phát triển mạng
lưới trao đổi nội vùng, liên vùng và ngoại thương. Nguyên nhân của sự gia tăng
các hoạt động trao đổi này có thể là do một số thành phần hay tầng lớp dân cư mới
hình thành khi cơ cấu xã hội thay đổi theo chiều hướng phức hợp cao hơn có những
nhu cầu tiêu thụ những loại hàng quý hiếm hay xa xỉ vào các mục đích kinh tế và
phi kinh tế của mình.
Kết quả phân loại và phân tích đồ tùy táng có nguồn gốc từ
bên ngoài cho thấy cư dân Sa Huỳnh giai đoạn sớm tiếp xúc và trao đổi mạnh với
văn hóa Đông Sơn, trong khu mộ táng Gò Mả Vôi, Gò Quê công cụ và vũ khí bằng đồng
Đông Sơn có số lượng lớn hơn so với đồ sắt, từ khoảng thế kỷ 2 TCN, sự tiếp xúc
và trao đổi giữa văn hóa Sa Huỳnh với văn hóa Hán, Ấn Độ… gia tăng mạnh (Bảng 5)
Sự tiếp xúc và trao đổi này chứng tỏ hai điều quan trọng
đối với cư dân Sa Huỳnh (và đối với cả những đối tác của họ là người Đông Sơn
và người Hán…). Đó là:
i.
Xã hội của người Sa Huỳnh lúc đó cũng đủ mềm dẻo để
thích ứng với sự hiện diện của ngưòi khác (người Hán, người Đông Sơn) và đủ mạnh
để giữ một khoảng cách vừa phải với họ và các mối quan tâm thương mại và lĩnh vực
khác của họ trong một thời gian một vài thế kỷ. Nói một cách khác, chắc chắn
không phải chỉ có người từ bên ngoài là độc quyền ấn định các điều kiện tiếp
xúc và trao đổi;
ii.
Sự hiện diện của người từ bên ngoài ở các vùng khác
nhau trong cương vực của văn hoá Sa Huỳnh đã tác động mạnh đến sự biến đổi cấu
trúc xã hội, kích thích sự hình thành và phát triển của các hình thức xã hội
mang tính phức hợp (phân tầng) tại một số khu vực mà trước đó có lẽ chưa thấy
rõ. Những thay đổi này đầu tiên ở một số vùng trọng điểm (nút) đã kéo theo những
thay đổi ở sâu trong nội địa mà chủ yếu là do việc tìm kiếm và trao đổi nguồn
hàng trao đi để đổi lại những hàng hóa xa xỉ và thể hiện thân thế/địa vị xã hội.
Tiếp xúc, trao đổi với thế giới bên ngoài đã góp phần thúc
đẩy các ngành nghề thủ công rất phát triển, một số ngành có quy mô sản xuất lớn
và chuyên hoá ở mức độ nhất định như sản xuất đồ gốm và luyện kim sắt (Bảng 5). Sự tăng mạnh nhu
cầu tiêu thụ của các cộng đồng cư dân kéo theo sự mở rộng và phức tạp hoá mạng
lưới trao đổi trong, ngoài. Sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh tính phức hợp
xã hội là nguyên nhân chính dẫn đến sự có mặt của nhiều hàng hoá có nguồn gốc từ
bên ngoài. Những ngôi mộ chứa hiện vật có nguồn gốc từ Trung Hoa, Ấn Độ, miền Bắc
Việt Nam... phân bố ở nhiều khu vực ở cả địa bàn Bắc và Nam của văn hoá Sa Huỳnh.
Ngược lại những vật mang tính biểu thị địa vị, thân phận đã góp phần thúc đẩy
phân tầng xã hội trong từng lãnh địa và đặc biệt là sự phân hoá giữa các lãnh địa.
Hiện vật nhập khẩu và cùng với chúng là những ý tưởng văn hoá-kỹ thuật đã góp
phần tạo ra một số chuyển biến cơ cấu giữa các ngành thủ công và trong mỗi
ngành
IV. Kết luận và nhận xét
Trong
khoảng nửa sau của thiên niên kỷ I TCN (từ thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN)
những cộng đồng cư dân văn hoá Sa Huỳnh chiếm cư hầu khắp các dạng địa hình của
miền Trung Việt Nam. Kế thừa những thành tựu của những nền văn hoá Tiền Sa Huỳnh,
những cộng đồng cư dân này đã mở rộng mạng lưới quan hệ trao đổi nội vùng, liên
vùng và quốc tế, gia tăng mức độ ứng dụng và sản xuất công cụ, vũ khí kim loại
và phát triển nền kinh tế sản xuất và đạt được những thành tựu to lớn tạo ra những
chuyển biến sâu sắc trong đời sống kinh tế, xã hội.
Quy mô
và phạm vi của những cộng đồng dân cư mở rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn
Tiền Sa Huỳnh cho thấy sự tăng nhanh và mở rộng mức độ khai thác các nguồn lực
tự nhiên và xã hội do sự gia tăng của đồ kim loại dẫn đến sự tích luỹ của cải vật
chất đẩy mạnh tính phức hợp xã hội. Quy mô những khu mộ địa và sự phân tầng của
các mức mộ theo đồ tuỳ táng gia tăng theo thời gian từ sớm đến muộn.
Trong đời sống
vật chất, chuyển biến nhận thấy rõ nhất là sự phát triển của nền kinh tế sản xuất.
Góp phần tạo nên nền tảng cơ sở vật chất giàu có và bền vững của xã hội Sa Huỳnh
không chỉ là những ngành nghề kinh tế như trồng trọt, buôn bán mà cả nghề thủ
công chế tác đồ kim loại (chủ yếu là đồ sắt). Đồ sắt trong văn hóa Sa Huỳnh có
số lượng rất phong phú và đa dạng, số lượng nhiều hơn hẳn đồ sắt ở Đông Sơn hay
Dốc Chùa. Các loại hình công cụ được
cư dân Sa Huỳnh chế tạo và sử dụng thích hợp với từng môi trường sống khác nhau.
Trong các khu mộ táng Sa Huỳnh, đồ sắt thường được dùng làm đồ tùy táng, đó là
các vật dụng được dùng trong đời sống hàng ngày được chôn theo, không có đồ
minh khí. Trong các loại hình đồ sắt có những loại hình hiện vật mang yếu tố ảnh
hưởng hoặc trao đổi với bên ngoài như loại hình giáo búp đa thể hiện mối quan hệ
với Đông Sơn, loại dao có chuôi hình vành khăn hay qua thể hiện mối quan hệ với
Hán. Chính sắt đã tạo ra những thay đổi có tính chất bước ngoặt trong kinh tế
và từ đó dẫn đến những chuyển biến sâu sắc trong xã hội. Sắt đóng vai trò kết
tinh và thúc đẩy sự gia tăng của tính phức hợp xã hội.
Trong đời sống tinh thần, chuyển biến nhận
thấy rõ nhất là táng thức. Từ những kiểu táng thức mộ nồi nhỏ phân bố lẻ tẻ
trong khu cư trú Tiền Sa Huỳnh đến những
mộ chum chuyên biệt với những quan tài hình trứng, hình cầu và hình trụ có kích
thước lớn của văn hoá Sa Huỳnh. Những khu mộ của từng làng được phân chia nơi
chôn cất có nhiều khả năng theo từng dòng họ hay gia đình lớn. Cách thức mai
táng và đồ tùy táng phản ánh một cách sinh động đời sống tinh thần, tâm linh của
cư dân. Hơn tất cả những cư dân thời Sơ sử ở Việt Nam, người Sa Huỳnh có một sự
chăm sóc đặc biệt đối với cái chết và duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa thế giới
của người sống với thế giới của người chết. Mộ địa Sa Huỳnh dù phân bố
trên bất kỳ địa hình nào cũng đều chiếm cứ không gian cao ráo, gần đường giao
thông/thương và cận kề nơi cư trú. Những
khu mộ địa có diện tích rộng có những khu mộ rộng tới chục nghìn mét vuông và
thường là phức hợp di tích của nhiều giai đoạn chôn cất tồn tại liên tục trong
vòng thời gian từ một đến vài trăm năm. Những khu mộ địa được tổ chức dựa trên một quy hoạch định
trước, do đó ta rất ít khi gặp mộ cắt phá nhau dù chôn ở các thời điểm khác
nhau. Có thể đây là khu mộ theo dòng họ, và phân cấp trong từng dòng họ và giữa
các dòng họ, giữa các khu vực.
Những
bãi mộ Sa Huỳnh phân bố trong một không gian trải dài hàng trăm kilômét với địa
hình chia cắt bởi các đèo với kiểu chum quan tài được sản xuất theo những tiêu
chuẩn thống nhất và đồ tùy táng đồng dạng cho thấy sự đồng nhất về thế giới
quan, tính tương đồng văn hóa và trình độ xã hội giữa các nhóm cư dân. Nhiều
hiện vật chôn theo có nguồn gốc khác nhau, hiện vật từ Tây Á, Nam Á và Đông Á,
Đông Nam Á minh chứng sự tham gia của cư dân Sa Huỳnh vào mạng lưới thương mại
khoảng cách xa của khu vực. Tác động của tiếp xúc và giao lưu thực sự đóng vai
trò xúc tác nhanh mạnh trong quá trình chuyển biến tính chất văn hóa giữa các
giai đoạn từ tiền sử sang sơ sử và lịch sử ở miền Trung Việt Nam.
So sánh tổ hợp hiện vật của khu cư
trú và khu mộ táng, ta thấy rất rõ ràng sự coi trọng
cuộc sống sau khi chết và thái độ cực kỳ cẩn trọng đối với cái chết của cư dân
văn hoá Sa Huỳnh, phần lớn đồ đồng chôn theo mộ đất và mộ chum của văn hóa Sa
Huỳnh (mà tới nay chúng ta đã thu được số lượng không ít) là sản phẩm từ bên
ngoài do người Sa Huỳnh đưa vào bằng nhiều con đường và cách thức khác nhau
phục vụ cho nhu cầu của một xã hội đã có sự phân hóa khá rõ rệt về quyền lực,
địa vị và của cải. Tư liệu từ các di tích văn hóa Sa Huỳnh, mà đáng lưu tâm là
những ngôi mộ thuộc giai đoạn muộn, đã phản ánh điều đó. Loại hình, số lượng và
chất lượng của đồ tuỳ táng trong các mộ, đặc biệt ở một số mộ có sự hiện diện
của những loại hình hiện vật được xác định là vật biểu tượng của thân thế hay
địa vị (Status markers hay status goods) cho thấy một xã hội không còn là bình
quân địa quyền nữa mà đã là xã hội phân tầng. Theo lý thuyết hình thành và phát
triển mức độ phức hợp của xã hội, cư dân văn hóa Sa Huỳnh ở lưu vực sông Thu
Bồn đã bước vào giai đoạn xó hội phân tầng tương đương lãnh địa phát triển và
chuẩn bị bước chuyển sang hình thức nhà nước sớm.
----------------
Một số thuật ngữ sử dụng trong bài viết
Lãnh địa (Chiefdom): Thuật ngữ này trong nhân học dùng để
chỉ kiểu tổ chức chính trị xã hội mà trong đó quyền lực kinh tế và chính trị do
một người hay nhóm người năm giữ. Cách phân loại này của thuyết tiến hóa văn
hóa dựa trên quan điểm lịch sử nhân loại là một quá trình phát triển liên tục từ
thấp đến cao “Nhóm/băng – Bộ lạc – Lãnh địa – Nhà nước”. Trong lãnh địa chưa có
sự phân chia giai cấp, vai trò của người đứng đầu (tù trưởng) được đề cao. Lãnh
địa còn được dùng để chỉ tính phức hợp xã hội trong những kiểu xã hội chưa phải
là nhà nước.
Xã hội bình quân địa tầng (Egalitarian
society): Là kiểu xã
hội mà trong đó không có sự khác nhau rõ rệt về của cải, sức mạnh, quyền uy hay
địa vị.
Khảo cổ học Mới (New Archaeology): Trường phái khảo cổ học xuất hiện đầu
tiên ở Mỹ vào những năm 60 của thế kỷ 20, những người theo trường phái này chủ
trương vai trò của các nhà khảo cổ học là phải giải thích sự thay đổi trong quá
khứ, chứ không chỉ đơn giản là tái hiện quá khứ và cuộc sống con người. Trong
nghiên cứu thay bằng tập trung vào hiện vật chuyển sang nghiên cứu cách thức ứng
xử của con người. Người sáng lập Lewis Binford.
Khảo cổ học Quá trình (Processual
Archaeology): Một
cách gọi khác của Khảo cổ học Mới, nhấn mạnh sự khác nhau giữa Khảo cổ học Truyền
thống và Khảo cổ học Mới. Khảo cổ học Truyền thống được nhìn nhận là dựa trên sự
giải thích lịch sử trong khi Khảo cổ học Mới nghiên cứu các hình thức quá trình
văn hóa và nghiên cứu sự thay đổi trong các hệ kinh tế-xã hội diễn ra thế nào.
Khảo cổ học Xã hội (Social
Archaeology): Tái hiện
tự nhiên và tổ chức xã hội bằng cách ứng dụng tài liệu khảo cổ về cấu trúc nơi
định cư, nơi chôn cất, phân bố của kho tàng, thành quách... để phân loại xã hội
Khảo cổ học Mộ táng và Sự chết
(Archaeology of the Death and Burial):
Nghiên cứu mọi khía cạnh vật chất của người chết và cách xử lý xác chết trong
các xã hội khác nhau để tìm hiểu cấu trúc xã hội, quan hệ xã hội, đời sống vật
chất, tinh thần và tâm linh của các cộng đồng cư dân trong quá khứ bằng cách ứng
dụng những thành tựu khoa học hiện đại bên cạnh những phương pháp nghiên cứu
truyền thống.
Chú thích
Thời Sơ sử về cơ bản ứng với thời gian tồn tại của nền văn hóa Sa Huỳnh Sơ kỳ sắt từ thế kỷ 5TCN đến thế kỷ 2,3 SCN. Thời Tiền sử ứng với các văn hóa Tiền Sa Huỳnh từ 4000 đến 2500 năm cách ngày nay.
Theo một số người nghiên cứu Hòa Diêm cung cấp những chứng cứ về làn sóng di cư của người Nam Đảo vào bán đảo Đông Dương (Mariko Yamagata Yamagata Mariko (2008). Archaeological Reseach on the Prehistoric Interrelations beyond the South China Sea,[Nghiên cứu khảo cổ về mối quan hệ thời tiền sử ở biển Nam Trung Hoa] Report of Grant- in- Aid for Scientific Reseach (C) (2006- 2007 No. 18520593)[Báo cáo tài trợ Nghiên cứu khoa học], Waseda University
Tabon: Nhóm các di tích hang động Tabon nằm ở đảo Palawan, miền trung Philippines, gồm các hang động đá vôi như hang Agung, Batu, Bubulungan, Decalan, Diwata, Dugyan, Manunggul, Tabon, Uyaw, Wasay, Pagayona…. Nhóm này trải qua 4 giai đoạn phát triển là thời kỳ đồ đá cũ, thời đá mới, thời kỳ kim khí, và thời kỳ tiếp xúc và buôn bán với phương Đông. Giai đoạn sớm các hang động này là nơi cư trú của những nhóm người săn bắt hái lượm, và giai đoạn sau trở thành địa điểm mộ táng. Phức hệ mộ chum và gốm kiểu Kalanay lần đầu xuất hiện trong các hang động Tabon là vào thời hậu kỳ đá mới và tiếp tục tồn tại như là loại hình chum chính trong vùng suốt đến thời kỳ kim khí phát triển (trong khoảng từ 1500 TCN đến 500 SCN) và có thể muộn đến thời kỳ bắt đầu buôn bán với người Trung Hoa. Các chum mộ được phát hiện trên bề mặt hang, hoặc trong các hốc đá trên vách hang chứ không được chôn cất dưới đất.
Grace Barretto-Teroso, “Burial Goods in the Philippines: An Attempt to Quantify Prestige Values” [Đồ tùy táng ở Philipin: Thử định lượng những giá trị quý hiếm], Southeast Asian Studies [Nghiên cứu Đông Nam Á], Vol. 41, No. 3, December 2003, 299-315.
Tài liệu tham khảo
Bùi
Chí Hoàng, (2006), Di tích khảo cổ học Tiên Lãnh, Tiên Phước, Quảng Nam, Khảo cổ học, 6, 742, 27-38.
Bùi Chí Hoàng, Yamagata Mariko và Nguyễn Kim Dung,
(2007), Khai quật di tích khảo cổ học Hoà Diêm (Cam Thịnh Đông – Cam Ranh –
Khánh Hoà). Hội nghị thông báo Khảo cổ học, Hà Nội, tháng 9 năm 2007.
Cầm
Trọng, (1978), Người
Thái ở Tây Bắc Việt Nam, (Nxb
KHXH), Hà Nội.
Fukui Hayao (1999), “An Overview: The Scope
of the Dry Areas Study”, Fukui Hayao (chủ biên). The Dry Areas in Southeast
Asia: Harsh or Benign Environment. The Center for Southeast Asian Studies.
Kyoto University, 3. 1999, 1-15.
Glover,
Ian, (1990), “Ban Don Ta Phet: the 1984-85 Excavation”, Southeast Asian Archaeology, Proceedings of the first Conference of the
Association of Southeast Asian Archaeologists in Western Europe (Institute
of Archaeology, University College London 8th-10th
September 1986, BAR International Series 561), Oxford, 139-183
Glover
I., (2009), “Sa Huỳnh – A Sociocultural Type. An Attempt to Develop an Interpretative
Framework for a Late Prehistoric Society Drawing on Archaeology, Ethnography
and Analogy”, Hội nghị Khoa học Quốc tế “100 năm
phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh”, Tháng
7.2009, Quảng Ngãi.
Grace Baretto-Teroso
(2003), “Burial Goods in the Philippines: An Attempt to Quantify Prestige
Values”, Southeast Asian Studies, (Vol.
41, No. 3, December 2003), 299-315.
Hà Văn
Tấn (chủ biên), (1994), Văn hóa Đông Sơn ở
Việt Nam, (Nxb Khoa học Xã hội), Hà Nội, 405.
Hoàng
Thúy Quỳnh, (2008), Đồ gốm văn hóa Sa Huỳnh, Luận văn thạc sĩ lịch sử, (Tư
liệu Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH & NV), Hà Nội.
Hoàng
Thúy Quỳnh, (2010), “Đồ gốm văn hóa Sa Huỳnh”, Khảo cổ học, 1, 2010, Hà
Nội (đang in).
Hoàng Thúy Quỳnh,
Nguyễn Thị Hảo (2009).
Mộ đất văn hóa Sa Huỳnh: Nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam và khu vực Đông Nam
Á, Hội nghị khoa học quốc tế “100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh”,
Tháng 7.2009, Quảng Ngãi.
Koji Mizoguchi, (2005), Genealogy in the Ground:
Observations of Jar Burials of the Yayoi Period, Northern Kyushu, Japan,
Antiquity; Jun 2005; 79, 304, 316-326.
Lâm
Thị Mỹ Dung (2007), “Di chỉ cư trú Sa Huỳnh Thôn Tư (Quảng Nam)”, Khảo cổ học
(số 6), 72- 87.
Lâm
Thị Mỹ Dung, (2008), Nghiên cứu quá trình chuyển biến từ sơ sử sang sơ kỳ lịch
sử ở miền trung Trung bộ và nam Trung bộ Việt Nam, Đề tài khoa học trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội (mã số QG.06.07),
(Tư liệu Bảo tàng Nhân học, trường ĐHKHXH & NV), Hà Nội.
Lâm
Thị Mỹ Dung, Nguyễn Chiều, Hoàng Anh Tuấn (2002), Khai quật chữa cháy Gò Dừa
năm 1999, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “5
năm Nghiên cứu và Đào tạo của Bộ môn Khảo cổ học”, (Nxb CTQG, Hà Nội),
191-207.
Lê
Bá Thảo, Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, (Nxb Thế giới, Hà Nội,
1998), 385-386.
Momoki Shiro (1999), “A Short Introduction to
Champa Studies”, Fukui Hayao (chủ biên). The Dry Areas in Southeast
Asia: Harsh or Benign Environment, The Center for Southeast Asian Studies,
Kyoto University, 3. 1999, 65-74.
Nguyễn Chí Trung và Trần Ánh, (1999), Di chỉ Khu vực
I, Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam, Những phát hiện mới về khảo cổ học (NPHMVKCH)
năm 1998, (NxbKHXH, Hà Nội).
Nguyễn Đăng Cường, (2005), Báo cáo khai quật địa điểm
Hoà Diêm, Cam Ranh, Khánh Hoà, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân ngành Lịch sử, (Tư
liệu Khoa Lịch sử và Tư liệu Bảo tàng Nhân học), Hà Nội.
Pader, E.J.,(1982), Symbolism, Social Relations
and the Interpretation of Mortuary Remains, (British Archaeological Reports
British Series Vol. 82), Oxford: BAR.
Pearson M.P. (2005), The Archaeology of
Death and Burial. (Texas A & M University Press College Station),
United States, Fourth printing.
Phạm Thị Ninh, (2005), Báo cáo kết quả khai quật lần thứ hai di chỉ
Suối Chình, (Tư liệu Thư viện Viện Khảo cổ học), Hà Nội.
Reinecke
Andreas, Nguyễn Chiều và Lâm Thị Mỹ Dung, (2002), Gò Mả Vôi-Những phát hiện
mới về văn hoá Sa Huỳnh, ( LINDEN SOFT), Koln.
Sakurai
Yomio (1999), “The Dry Areas in the History of South East Asia”, The Dry Areas in Southeast Asia: Harsn or
Benign Environment, (The Centre for Southeast Asian Studies, Kyoto
University), Kyoto, March 1999, 28.
Terje Oestigaard, (1999), Cremation as
Transformations: When: The Dual Cultural Hypothesis was Cremated and Carried
aways in Urns, European Journal Of Archaeology. 2, 345, http://www.sagepublications.com.
The CPAM of Guangzhou and The Municipal Museum of
Guangzhou, (1981), Excavation of the Han Tombs at Guangzhou (chữ Trung
Quốc, có tóm tắt bằng tiếng Anh, (Nxb Văn vật, Bắc Kinh).
Trần Quốc Vượng (chủ biên), (1985), Những di
tích Tiền, Sơ sử ở Quảng Nam –Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Trần Quốc
Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb VHDT và Tạp chí VHNT,
Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (2002), ”Về Miền Trung (Mấy nét
khái quát về nhân học văn hóa)”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “5 năm nghiên cứu
và đào tạo của Bộ môn Khảo cổ học 1995-2000”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
17-28 .
Trần Trí Dõi (2005), Những đặc điểm chính về địa lý
vùng Đông Nam Á liên quan đến việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Kỷ yếu Hội
thảoKhoa học “Nghiên cứu và đào tạo về khu vực học”, Viện Việt Nam học và
Khoa học phát triển, ĐHQG Hà Nội. Hà Nội, 3-8.
Underhill, Anne P., (2002), Craft Production and
social change in Northern China, (Kluwer Academic/Plenum Publishers), New
York.
Wilheim
G., Solheim II, David Bulbeck, Ambika Flavel, (2006), Archaeology and
Culture in Southeast Asia: Untraveling the Nusantao, The University of the
Philippines Press Diliman, Quezon City, 135-136.
Yamagata Mariko (2008), Archaeological
Reseach on the Prehistoric Interrelations beyond the South China Sea, Report of Grant- in- Aid for Scientific
Reseach (C) (2006- 2007 No. 18520593), Waseda University.
Abstract
Social and burial archaeological approaches - case
study on Central Vietnam during proto-historical period.
So far, most of archaeological works
on Sa Huynh culture in Central Vietnam (datable to time bracket from 5 BC to AD
2nd-3rd centuries) are rarely mentioned on the issue of
nature and causes of social evolution (ie. the growing process of social complexity. Therefor, the
formation and establishment of the early states, as well as the changes of
social-economy in early historical period have been hypothesized mainly from
ancient records.
Employing theory and methodology of
the New Archaeology, specifically the comparative analysis of archaeological
data from the burial sites, this research provides interpretations on the
nature and causes of the growth of social complexity, which closely associates with the
formation of the early states within a particular context of Central Vietnam.
Various sources of data are analyzed,
particularly from archaeology, ethno-archaeology and ancient records. Thus,
this research locates Central Vietnam within a wider context to examine the
generality and particularity of the growing process of social complexity, which results
in the formation of state-form polities. Particular characteristics of
Southeast Asia in prehistory and proto-history, such as uneven population
density, modest demography, distinct blood relationships, the social relations
both in Hierarchical
terms (- social classes), and Heterarchical terms -social networks, as well as great cultural
diversity, etc. will be appropriately examined in this research.
Archaeological records on burial and
residence in Central Vietnam during the period from the 5th century
BC to AD 5th century reflect various aspects of social development
in both material and spiritual terms. It includes changes in social structure
and relations in each resident community, their diverse and irregular
development, relationships within, between and outside these communities on
both temporal and spatial axes.
Most studies on Sa Huynh culture have
rarely discussed issues regarding the nature and causes of social evolution
(i.e. the growing process of social complexity). Therefore, many issues on the
process of early state formation and socio-economic changes during early
historical periods have only been hypothesized through examining ancient
records.
Employing New Archaeologial theories
and methodologies (specifically social archaeology and burial archaeology),
this research provides interpretations on the nature and causes of the growth
of social composition, which closely associates with the formation of early
state forms within a particular context (Central Vietnam).
Our sources of literature are diverse
and benefit from the organic and close association between archaeology,
ethnological archaeology and ancient records (physical and written materials).
Level
of comparative study: Locating Central Vietnam within a wider context to
examine the generality and particularity of the growing process of social
composition, which results in the formation of state-form regimes. Particular
historical characteristics of Southeast Asia, such as uneven population
density, modest demography, distinct blood relationships, the parallel of
social relations in vertical terms (stratification) and horizontal terms
(network), as well as great cultural diversity, etc. will all be appropriately
examined in this research.
The main issues
Literature review draws on
documentations on burial and residence in protohistorical Central Vietnam which
have been accumulated to date.
Social and
cultural characteristics
Key worlds: Central
Vietnam, Social Complexity, Jar Burial, Early state, Proto – history, Sahuynh
culture
* Địa chỉ
PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung
Bảo tàng Nhân học và Khoa Lịch sử
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
336 Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Hà Nội
*Address
Assoc.
Prof. Lam Thi My Dzung
Museum
of Anthropology
University
of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University
336
Nguyen Trai St. Thanh Xuan Ha Noi Vietnam