Như chúng ta đã thấy trong các báo cáo vắn tắt
của người Trung Quốc trình bày ở trên, các truyền thống truyền khẩu tiền sử đã
cho thấy thời gian tồn tại của triều đại không thể xác định rõ được, sau đó là
một giai đoạn ngắn của năm người trị vị có tước vị Fan, trong số đó người cuối
cùng đã từng tiếp sứ bộ đầu tiên của Trung Quốc vào giữa thế kỷ III, ba thế kỷ
tiếp theo, trong đó người Trung Quốc không cho chúng ta biết được những thông
tin rõ ràng về tính liên tục của các triều đại đó, cũng như các mối quan hệ giữa
những người trị vì Phù Nam có tên gọi, nhưng lại cho thấy quá trình Ấn Độ hóa
ngày càng tăng thông qua các tên gọi hoàng gia, cho đến khi xuất hiện phương thức
kế vị cha – con của जयावर्मन्* Jayavarman-
रुद्रावर्मन्* Rudravarman
[闍耶跋摩* [She-yeh-pa-mo]/Cho-ye-pa-mo/ Jayavarman/ Đồ Da Bạt Ma* - 留陁跋摩* Liu-t'o-pa-mo/Lieou-t'o-pa-mo Lưu Đà Bạt Ma, Rudravarman] vào thế
kỷ 5-6, trong đó có một tích truyện đáng chú ý về cái mà người Trung Quốc nhìn
nhận là sự tiếm quyền của một vị hoàng tử sau khi người này đã giết người anh
em cùng cha khác mẹ có vị thế kế thừa chính thống hơn của mình.
Một chút mực quý được sử dụng để dựng lại sự
kiện đó, nhưng chỉ có Porée-Maspero mới thực sự chú ý đến toàn bộ chuỗi sự kiện
như là một bằng chứng cho nền văn hóa chính trị Cambodia, và nỗ lực đó thật sự
xứng đáng.
Cả người Trung Quốc và Pelliot đều cho rằng
trong triều đại Hun, việc thừa kế là theo dòng cha. Thực sự thì một số cái tên
được ghi lại sau cặp khai sáng là nam, và trừ trường hợp các bản dịch của
Pelliot có khiếm khuyết, còn thì việc kế thừa đều là trực tiếp từ các tổ tiên của
họ. Tuy nhiên Porée-Maspero, theo tuyến lý thuyết chung của bà về chế độ cai trị
mẫu hệ trong dòng hoàng tộc Cambodia, cho rằng các sử liệu Trung Quốc có thể được
giải thích là các hậu duệ của cặp khai sáng có thể đều là nữ. Tuy nhiên các hậu
duệ thuộc hai thế hệ cuối cùng có tên gọi, 混盤況* Hun
Pan huang Hỗn Bàn Huống và con trai
盤盤* Pan Pan Bàn Bàn là nam, và cũng có thể người
Phù Nam tin rằng các tổ tiên họ đã truyền ngôi vị theo phụ hệ, hoặc người Trung
Quốc đương nhiên coi điều đó là bình thường, nên khi ghi chép đã bỏ qua mọi
thông tin trái ngược. Đề xuất của Porée-Maspero, thông quan việc ấn một lý thuyết
vào bằng chứng nên trong thời gian đó và chính thể đó đã không nhận được bất cứ
sự ủng hộ nào để được coi là chính thống 72.
Tuy nhiên trong giai đoạn tiếp theo người trị
vì Fan đã thay thế các thủ lĩnh Hun đúng vào giai đoạn chuyển tiếp từ thời tiền
sử huyền thoại sang giai đoạn lịch sử, thì rõ ràng là một cái gì đó khác với việc
kế thừa phụ hệ trực tiếp thì thực sự hợp thời. Một Fan đầu tiên, Fan Shi-man 范師蔓* Phạm Sư Mạn được biết là một vị tướng tài ba
đã được người dân chọn làm người cai trị khi dòng tộc Hun bắt đầu suy yếu. Mô
thức kế thừa trong số các hậu duệ của ông là như sau:
Như người Trung Quốc đã ghi lại thì người kế vị
Fan Shih-man đã được thực hiện theo đúng “lệ thường”, đó là con trai của anh cả
ông, và sau đó người này đã bị con trai của chị cả Fan Shih-man giết chết và tiếm
vị. Ngay sau đó con trai út của Fan Shih-man đã giết chết “kẻ tiếm vị” kia,
giành ngai vàng, nhưng đến lượt mình lại bị 范金* Fan
Hsin Phạm Kim, một vị tướng trung thành với con trai của người chị gái đoạt
ngôi, vì vậy mà lặp lại mô thức kế vị của Fan Shih-man 73. Đó là Fan
Shi-man – chị gái cả; sau Fan Shi-man là người con trưởng hoặc người con út;
còn sau người chị gái cả là Chan-mon**.
Porée-Maspero hoàn toàn có lý khi chú ý đến
tình thế này, và khi gợi ý rằng người thừa kế “chính thống” của Fan Shih-man có
lẽ phải là con trai của người chị gái, là người đã phản đối nỗ lực của Fan
Shi-man nhằm đảm bảo cho việc kế thừa của con trai mình, ngược lại với tục lệ
thời đó. Tuy nhiên Porée-Maspero đã nhầm lẫn và còn cho thấy rằng nỗ lực của bà
nhằm nhét lý thuyết ào bằng chứng, bằng việc xác quyết rằng đây là một ví dụ điển
hình về chế độ “kế thừa mẫu hệ”, trong đó Fan Shih-man đã có được quyền kế vị từ
người chị gái của mình.
Trong một nghiên cứu của tôi về poň thuộc thế kỷ VII, mà tôi tin là một
nhóm thủ lĩnh cổ được người Trung Quốc ghi lại là Fan, tôi nhận ra rằng việc kế
vị poň dường như là từ người đàn ông
truyền lại cho con trai của chị gái, một loại kế vị theo dòng mẹ được minh họa
một cách rõ ràng trong một số bi ký Angkor của các gia đình quan phương, nhưng
lại khác với chế độ kế vị do Porée-Maspero đặt ra liên quan đến hôn nhân liên tộc.
Khi xem xét các nguyên tắc của chế độ kế vị poň,
tôi thấy quyền của Fan Shih-man đối với vị trí của ông có lẽ không phải có được
từ chị gái ông, mà là từ người anh của mẹ ông, và người kế vị hợp pháp của ông lại
không phải là con trai ông, mà là người cháu, con trai của chị gái ông 74.
Còn đối với Fan Hsin, thì các bản dịch của Pelliot
không thể hiện rõ các mối quan hệ của gia đình ông đối với Fan khác, còn nhận định
của Porée cho rằng ông xuất thân từ một bàng hệ của gia tộc đó thì đã đi quá xa
khỏi cách diễn giải hợp thức.
Về sau, trong vòng trên hai thế kỷ, người
Trung Quốc đã không ghi chép rõ ràng về các quan hệ của triều đại đó, mà chỉ thấy
có hai cái tên thủ lĩnh, một người có lẽ là Chan fan, có thể là một người kế vị
không chính thống, và một varman không rõ tên đầy đủ 75, và chúng ta
không biết tại sao, hoặc liệu những người trị vì Fan có mối quan hệ với những
người trị vì sau này hay không, các mối quan hệ đó là như thế nào cho đến khúc
quanh của thế kỷ 5-6 và các vị vua Jayavarman và Rudravarman, với các tích truyện
của họ lại cung cấp bằng chứng cho các nguyên tắc kế vị đương thời. Porée cũng
không đưa ra giải thích nào cho giai đoạn này. Tuy nhiên ngay lập tức xuất hiện
một câu hỏi là liệu có phải các thủ lĩnh Fan đã trở thành các vị vua varman hay
là những nhóm khác đã hoàn toàn thay thế các Fan đó bằng cách sử dụng tước vị
varman để khẳng định vị thế cao của họ?
Trong thế kỷ VII, khi nhiều bi ký đương thời
được phát hiện, tôi đã đề xuất một ý tưởng cho rằng poň, một đẳng cấp thủ lĩnh địa phương, mà tôi tin rằng người Trung
Quốc ghi là Fan, đã duy trì mô thức kế vị từ người chú/bác cho con trai của chị/
em gái mình. Tuy nhiên trong thời gian đó, họ đều là phụ tá cho các vị “vua” thường
với tước vị vra kamrataň aň, chứ
không phải luôn luôn là -varman, là
tước vị dường như kế thừa trực tiếp theo dòng cha, còn tước vị poň đã bị thay thế ở cấp địa phương bởi
một nhóm thủ lĩnh khác, nhóm mratáň,
không hề cho thấy có bằng chứng của tục lệ kế vị bác/cậu – đến – cháu, và là
người có thể đã hành động với tư cách là những tác nhân của nhóm vrah kamrataň aň chống lại nhóm poň 76.
Vì vậy sự thay đổi trong thực tế từ tước vị
fan thế kỷ thứ III đến -varman thế kỷ V – VI đã song hành cùng những khác biệt
giữa tước vị poň và vrah kamrataň aň trong các bi ký thế kỷ
VII. Bởi vì các tên ghi trong bi ký đều bằng Phạn ngữ, trong đó lại không hề thấy
các tước vị như vậy, nên tôi không biết liệu có phải Jayavarman và Rudravarman có
tước vị vrah kamrataň aň hay không.
Nhìn bằng cặp mắt Trung Quốc thì Rudravarman là con của một hầu thiếp, nên
không thể đứng cùng hàng với Jayavarman, và để đảm bảo cho ngai vàng của mình
nên ông đã giết chết người em có vị thế cao hơn mình, vì là con trai của hoàng
hậu.
Từ đó có thể kết luận một cách hợp thức rằng
người con trai thứ thực sự là người kế vị, nhưng có phải chỉ vì mẹ của ông có vị
thế cao hơn? Thực tiễn hoàng gia Cambodia sau này, trong các giai đoạn mà tôi
có nhiều thông tin hơn, lại không hề ủng hộ cho cách diễn giải đó. Tương tự như
vậy, có lẽ cùng là hợp thức khi luận rằng việc ưu tiên quyền kế vị thuộc về con
trai út,chứ không phải là bất kỳ vị thế nào của các bà mẹ thì khả thi hơn nhiều.
Một số trường hợp trong giai đoạn sau này đã cho thấy điều đó. Quay lại với
Porée-Maspero, khi chấp nhận cách diễn giải Trung Quốc là hiện thực, bà đã nhận
ra ở đó sự phê chuẩn lý thuyết của mình về tầm quan trọng của parenté féminine***, chế độ nữ tộc của
các vị vua vì người kế vị chủ yếu là con trai của người “vợ đích” 77.
Nhưng bất cứ người con trai nào được người cha yêu quý hơn thì rõ ràng đó sẽ là
người được kế vị trực tiếp theo dòng cha. Nhưng sẽ không có chuyện cấp nhận điều
khoản giải thoát của Porée-Maspero khi bà cho rằng bất cứ khi nào một người con
trai kế vị cha ông ta thì đó là vì cả hai đều là người có quyền thừa kế từ cùng
một người phụ nữ, đặc biệt là khi căn cước của hầu hết các vị nữ hoàng đang được
đề cập ở đây lại rất khó mà biết được. Nếu vai trò của họ với tư cách là những
người mang giữ tinh hoa cho hoàng tộc như Porée-Maspero đã khẳng định, thì có lẽ
người ta cũng nghĩ rằng họ đã được đề cập đến trong sử sách, bi ký 78.
Phù
Nam ở đâu?
Cả Aymonier lẫn Pelliot đều đồng ý rằng Phù
Nam chủ yếu nằm ở phía nam Cambodia và Việt Nam, và được mở rộng đến bán đảo Mã
Lai nhờ kết quả của các cuộc chinh phục, và về phương diện này, Coedès và hầu
như tất cả các sử gia đi sau đều ủng hộ. Tuy nhiên, Jean Boisselier đã xác định
trung tâm Phù Nam tại Uthong, thuộc trung tây Thái Lan, và Tatsuo Hoshino thì
kiên trì khẳng định một vị trí ở đông bắc Thái Lan 79. Mới đây vẫn
còn một quan điểm của Claude Jacques cho rằng Phù Nam “dường như đã xuất hiện
vào thế kỷ đầu SCN tại Nam Cambodia và Việt Nam, nơi đã từng là thủ đô của nó ở
đó”. Sau đó nó đã mở rộng “xa đến tận vùng Kra, nơi mà tầm quan trọng kinh tế của
nó chắc chắn lớn hơn nhiều so với địa bàn gốc”. “Vì vậy, các cảng của Phù Nam đóng
vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế có lẽ lại không phải là các cảng
tìm thấy ở Nam Việt Nam” 80. Tuy nhiên các nghiên cứu khảo cổ học tại
Nam Việt Nam và Cambodia lại không ủng hộ cho quan điểm này; và Jacques dường như
đã đặt Đốn Tốn không đúng chỗ, đã được thảo luận ở trên, và có lẽ hầu như là ở
Bắc bán đảo, tại Kra 81.
Ý kiến của Boisselier là dựa vào bằng chứng khảo
cổ học. Mặc dù chấp nhận rằng văn hóa Óc Eo cho thấy một vị trí tại Phù Nam,
nhưng ông vẫn thêm “vì tại vùng châu thổ sông Mê Kông, chỉ có bằng chứng duy nhất
được phát hiện trong một khu vực hạn hẹp, còn bằng chứng tại lưu vực sông Mê
Nam thì phân bố trên một vùng rất rộng lớn, hầu như phát hiện được trên toàn bộ
lưu vực, bao gồm cả những phần mở rộng quan trọng, theo các trục lớn về phía bắc
theo hướng Lamphun qua Nakhon Sawan và Tak, về phía đông theo hướng Mahasarakham
qua cao nguyên Korat, theo hướng Aranya Prathet, và có lẽ thậm chí cả Battambang,
qua vùng Prachinburi, và theo hướng nam qua Petchburi, đến bán đảo Mã Lai với một
điểm cực nằm ở vùng Surat-Thai [sic Thani]-Cheding Pra..." 82.
Có nghĩa là trong vùng mênh mông này các
nghiên cứu khảo cổ học cho thấy quá trình cư trú liên tục từ thời tiền sử đến
cuối thời द्वारावती* Dvaravati Đa Môn Thành*, 堕罗钵底*
Đọa La Bát Để, 陀羅缽地*
Đà
La Bát Địa, vào đầu thế kỷ 11 tại Uthong, và vào cuối thế
kỷ 12 đối với các địa điểm khác; còn theo quan điểm của Boisselier thì bằng chứng
khảo cổ học là ở chỗ các di chỉ này đều có quan hệ với Phù Nam, và vì khu vực rộng
lớn tại thung lũng sông Mê Nam ấy trái ngược với một vùng nhỏ bé quanh Óc Eo,
nên trung tâm của phù Nam phải được coi là nằm trong vùng lưu vực sông Mê Nam.
Tại vùng châu thổ sông Mê Kông, chỉ có ba hoặc bốn thành thị có thể liên hệ với
văn hóa Phù Nam, nhưng tại Mê Nam thì có tới khoảng 15 thành thị.
Khi chấp nhận rằng cả hai lưu vực sông Mê Kông
và Mê Nam đều là những vùng đất thuộc Phù Nam, quan điểm của Boisselier về khảo
cổ học đã đưa ông đến tái diễn giải tích truyện về những cuộc chinh phục của Fan-shih-man,
bằng cách gợi ý rằng họ từ phương Tây đến phương Đông, từ cái nôi của Phù Nam ở
vùng lưu vực sông Mê Nam đến một vùng đất chinh phục được tại châu thổ sông Mê
Kông. Tuy nhiên, Boisselier lại cho rằng “khi Phù Nam sụp đổ, đồng thời với cuộc
giải phóng của Chân Lạp, trong nửa thứ hai của thế kỷ VI, trung tâm chính trị của
cái đế quốc cổ ấy có thể đã chuyển đến vùng châu thổ sông Mê Kông”. Một trong
những lập luận của Boisselier về mối quan tâm thực sự, mặc dù theo quan điểm của tôi đó không phải là sự
ủng hộ cho chủ đề chính của ông, là “không hề có một đặc trưng nào của văn hóa
Phù Nam tại Óc Eo được bảo lưu lại ở Chân Lạp, mà sự xuất hiện của nó đã kết
thúc một sự đoạn tuyệt tổng thể với các truyền thống trước đó”. Để minh họa, Boisselier
lưu ý rằng “đồ châu báu bằng vàng và thiếc, vô số ngọc trai của Óc Eo, các loại
hình đồ gốm không hề thấy ở Chân Lạp”, nhưng lại được phát hiện ở Dvaravati.
Thực ra thì Dvaravati có vẻ là một xã hội và
chính thể rất khác với Chân Lạp, và nếu cả hai đều đã phát triển lên từ nền văn
hóa Phù Nam trước đó thì cần phải đề xuất một cách diễn giải nào đó. Những khác
biệt thể hiện rất rõ trong các yếu tố vĩ mô về các di tích khảo cổ học, các
công trình tôn giáo, bi ký và tục thờ cúng. Rất khác thường là Dvaravati lại
không thấy trong các bi ký, so với hơn 200 bi ký được ghi lại trong thế kỷ đầu
tiên [thế kỷ VII SCN] của Chân Lạp, và việc không hề có địa điểm Dvaravati đã
cho thấy sự phong phú của các công trình kiến trúc ईशानपुर* Isanapura
Thiên thành* 伊賞那補羅城* Y Thưởng
Na Bổ La thành, nay là Sambor
Prei Kuk, tỉnh Kompong Thorn. Dvaravati còn là đất Phật, như là những kẻ kế
nghiệp tại lưu vực sông Mê Nam của nó vậy, ngược lại với quá trình Ấn Độ giáo
ngày càng tăng của Phù Nam vùng Mê Kông, và đặc biệt là Chân Lạp, khi ảnh hưởng
của văn hóa Ấn Độ đã được tiếp thu nhiều hơn kể từ thế kỷ III trở đi. Về phần
các yếu tố vi mô được Boisselier nhấn mạnh, trước hết chúng ta cần lưu ý rằng
dưới thời ông chưa có các nghiên cứu di chỉ khảo cổ học Chân Lạp giống như các
công trình nghiên cứu đã được thực hiện tại các di chỉ Dvaravati của Thái Lan. Chỉ
đến ngày nay mới bắt đầu có các nghiên cứu này, với các cuộc khai quật ở Angkor
Borei, và các công trình nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Việt Nam ở bên kia
biên giới, thuộc vùng châu thổ sông Mê Kông. Vì vậy, nếu chỉ tính về số lượng
nhiều di chỉ, thì lập luận của Boisselier đã mất đi sức nặng, và các công trình
nghiên cứu tiếp tục ở vùng châu thổ sông Mê Kông, cả ở Cambodia lẫn Việt Nam cũng
như riêng trong vùng Angkor Borei ở nam Cambodia, thuộc tỉnh Takeo, cũng có thể
làm cho các lý lẽ của ông về sự thiếu tính liên tục của di vật tại Chân Lạp trở
nên lỗi thời 83.
Angkor Borei trước thế kỷ VII, chí ít trên bề
mặt, dựa trên các công trình nghiên cứu đã được thực hiện cho đến hiện nay, đã
cho thấy có nhiều tương đồng với các di chỉ Dvaravati điển hình, và đó chính là
sự liên tục về kiến trúc và chính trị nơi này cũng như tại Chân Lạp nói chung,
từ giai đoạn Phù Nam đến giai đoạn Angkor (Prasat Phnom Da từ giai đoạn giữa
Angkor bao gồm cả các di tích tiền Angkor, bi ký K.53 cho thấy rõ tính liên tục
của tầng lớp trị vì từ vị vua Phù Nam cuối cùng đến Chân Lạp vào giữa thế kỷ
VII, và bi ký K.549 của Phnom Da được Coedès xác định niên đại muộn hơn Jayavarman
VII, có nghĩa là thuộc thế kỷ XIII 84. Giống như một vài bi ký
Dvaravati, một ít bi ký phát hiện được trong các cuộc khai quật mới đây tại
vùng Óc Eo là Phật giáo, và quan trọng nhất là bằng lối viết của thế kỷ VIII –
IX và bằng phương ngữ lai Pali, tức là pha trộn với Phạn ngữ 85.
Hai quan điểm cuối cùng của Boisselier chắc chắn
phải bị loại bỏ vì không hợp lý. Trước hết, ông nói, và có lẽ như là một vấn đề
đơn giản là đúng, bất chấp tầm quan trọng của các phát hiện tại Óc Eo, đó là
không phải ở đó, mà là ở lưu vực sông Mê Nam, “chúng ta phát hiện được bằng chứng
đầu tiên về ảnh hưởng Ấn Độ chính cống ... trong các công trình tạo tác địa
phương cho thấy ảnh hưởng Ấn Độ thế kỷ IV – V”.
Đây chính là một phần của định kiến Đông
Phương học cổ cho rằng toàn bộ tiến trình văn hóa tại Đông Nam Á phải được bắt
đầu bằng việc nhập khẩu từ Ấn Độ. Không có các định kiến như vậy, người ta sẽ
cho rằng việc thiếu ảnh hưởng của Ấn Độ tại di chỉ Phù Nam sớm nhất, Óc Eo, đã
cho thấy rằng đó là di chỉ sớm nhất bắt đầu phát triển dựa trên thương mại biển,
với ảnh hưởng Ấn Độ rõ ràng ở đó mà không phải là đến tận thế kỷ IV – V 86.
Quan điểm thứ hai, gắn liền với quan điểm thứ
nhất, cho thấy có sự hiểu lầm về các mối quan hệ biển quốc tế trong thời gian
đó. Boisselier tin rằng trong giai đoạn Phù Nam sớm và Dvaravati hàng hải vẫn
chưa phát triển, người ta chưa biết rõ về gió mậu dịch và các dòng hải lưu, và
vì vậy mà tuyến tiếp xúc chủ yếu giữa Ấn Độ và Đông Nam Á là trên đất liền, trước
hết đến vùng lưu vực sông Mê Nam, sau đó mới đến vùng châu thổ sông Mê Kông. Tuy
nhiên ngày nay nói chung người ta đều thừa nhận rằng người Đông Nam Á, đặc biệt
là người Nam Đảo đã sở hữu một cấp độ công nghệ và kỹ năng cao về hàng hải
trong thời tiền sử, và không hề có chướng ngại công nghệ nào trong việc tiếp
xúc trực tiếp bằng đường biển với Ấn Độ 87.
Hoshino, khi trích dẫn Boisselier để hỗ trợ đã
dựa trên diễn giải của ông về việc đọc kỹ càng một số đoạn trong các văn liệu
Trung Quốc. Vì vậy, “Phù Nam cách Lâm Ấp hơn 3000 dặm về phía tây, theo đúng
nghĩa đen, từ vị trí Lâm Ấp ở bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay, không còn nghi ngờ
gì về việc đặt Phù Nam tại vị trí trung hoặc đông bắc Thái Lan 88. Tuy
nhiên hiện có quá nhiều nhận định khác đến mức mâu thuẫn với hai ngữ cảnh này,
là thứ mà chúng ta phải thừa nhận, như Pelliot rõ ràng cũng thừa nhận là một số
tác giả Trung Quốc đã lơi lỏng trong việc ghi lại hoặc chép lại các hướng dẫn
như vậy; và chúng ta không được quên rằng hầu hết các tác giả ấy đã không có hiểu
biết trực tiếp về chủ đề mà mình bàn đến.
Nhận định đầu tiên được trích dẫn ở trên tiếp
tục cho rằng Phù Nam “nằm trong một vịnh biển lớn”, là thứ đã xóa bỏ bất cứ một
vị trí nào trong nội địa, và tư liệu đó còn đi xa hơn nữa khi nói rằng “ở phía
Nam Lâm Ấp tiếp giáp với Phù Nam”. Tư liệu khác cũng nói “Phù Nam là nam Nhật
Nam [bắc Việt Nam] nằm trong vịnh phía tây của vùng biển lớn”, còn một văn bản
khác thì nói “Phù Nam ở phía nam của ...Nhật Nam, trong một vịnh lớn nằm ở phía
tây của biển, ...cách Lâm Ấp 3000 dặm về phía tây nam”. Một mô tả khác liên
quan đến một vịnh biển ở Lâm Ấp mà từ đó “người ta đi về phía nam đến các vương
quốc Phù Nam và các vương quốc khác”. Cuối cùng nhà tu hành Nghĩa Tĩnh, là người
đã du hành đến Đông Nam Á vào năm 671 – 695 sau khi Phù Nam kết thúc đã viết rằng
“rời khỏi Champa, đi tiếp một tháng về phía Tây Nam thì đến nước Pa-nan trước
kia gọi là Phù Nam” 89. Toàn bộ các đoạn trích dẫn trên đều thống nhất
trong việc xác định Phù Nam gần biển và ở phía nam hoặc tây nam của các vị trí
ngày nay thuộc trung bộ Việt Nam; và “vịnh biển lớn” khó mà có bất cứ ý nghĩa
gì khác ngoài Vịnh Thái Lan.
Tuy nhiên Hoshino lại phát hiện ra các bất nhất
khác, và chúng thực sự đáng để bình luận. Ông chỉ ra rằng trong văn bản V của
mình, Pelliot buộc phải sửa lỗi văn bản chữ Hán để giữa cho Phù Nam ở vị trí mà
ông muốn. Vì vậy sau khi viết rằng Phù Nam là nam Nhật Nam, Pelliot tiếp tục
“có một con sông lớn [ngầm chỉ Tonle Sap và sông Mê Kông] chảy từ phía tây và đổ
vào biển”, tuy nhiên lại ghi chú rằng “đoạn dịch thật nhất có lẽ là “con sông
chảy về phía tây và đổ vào biển”. Hoshino kiên trì rằng việc đọc theo nghĩa đen
như vậy là cách tốt nhất, và cho rằng đó là bằng chứng cho thấy Phù Nam có thể
không nằm ở Cambodia. Tuy nhiên cách đọc văn bản này của ông cũng không thể
giúp được gì cho trường hợp mà ông mong muốn có. Hoshino nói rằng Pelliot đã
không dịch từ 水 thủy “nước” ngay trước các từ có nghĩa là “chảy về hướng tây”, và ông
còn cho rằng 水 thủy “trong trường hợp này có nghĩa là sông cũng
như nước vậy”; và Hoshino dịch là “có một con sông lớn
có một chi lưu chảy về hướng tây còn con sông thì đổ ra biển”. Đoạn
dịch này phù hợp tuyệt hảo với trường hợp hệ thống Tonle Sap-Mê Kông trong một số tháng mỗi năm, lúc
đó hồ Tonle Sap quay ngược dòng nước về thượng nguồn, hướng tây bắc, trong khi
sông Mê Kông vẫn đưa nước ra biển; và điều đó thuận lợi hơn nhiều cho đề xuất của
Hoshino khi đoạn văn được gắn với sông Chao Phraya và sông Pa Sak ở trung Thái
Lan 90. Tuy nhiên người ta vẫn có thể đặt vấn đề về mức độ chính xác
của việc Hoshino hiệu chỉnh Pelliot, một vấn đề mà tôi xin nhường quyết định cuối
cùng cho các nhà Hán học.
Tôi vẫn thích cách bào chữa của Pelliot cho việc
hiệu chỉnh của ông bằng cách tham chiếu với một đoạn song hành trong văn bản VI
của ông, trong đó có một nhận định rõ ràng hơn nhiều “có một con sông lớn chảy
từ hướng Tây Bắc về phía Đông và đổ vào biển”, là đoạn dịch ăn khớp với sự kết
hợp thành hệ thống Tonle Sap và sông Mê Kông ở nơi mà cả sông và hồ gặp nhau ở
gần Phnom Penh hiện nay. Hơn nữa, khi Hoshino đối diện với các văn bản chữ Hán
thực sự buộc phải thừa nhận Phù Nam trong vùng châu thổ sông Mê Kông, thì ông
phải xoay trở vấn đề đó bằng cách đặt ra hai nửa Phù Nam, một ở vùng lưu vực
sông Mê Nam, còn “nửa kia của Kaundinya” thì ở vùng châu thổ sông Mê Kông 91.
Cuối cùng cách kiểm tra tốt nhất vị trí thuộc
vùng trung tâm Phù Nam lại chỉ có một hạng mục duy nhất là khoa nghiên cứu bi
ký địa phương tương thích với các sử liệu Trung Quốc trong một giai đoạn khi bi
ký hầu như không tồn tại. Đây là bi ký K.40, được viết bằng cách viết vào giữa
thế kỷ thứ VI, và được phát hiện tại Tonle Bati, cách Phnom Penh 30 km về phía
tây nam. Ngay cả trường hợp nó được di chuyển đến đó từ một địa điểm khác thì
chúng ta vẫn có thể cho rằng nó không thể bị di chuyển đến từ một địa điểm bên
ngoài khu vực nam Cambodia. Bi ký đó ghi tên hai vị vua, Jayavarman và con trai
ông là Rudravarman, hoàn toàn phù hợp với các sử liệu chữ Hán ghi lại cái chết
của Jayavarman vào năm 514 và các sứ bộ của Rudravarman được cứ đi Trung Quốc
trong các năm 517, 519, 530, 535, và 539 92. Mặc dù Boisselier có thể
đáp trả là sử thay đổi khả dĩ trung tâm Phù Nam từ vùng Mê Nam đến châu thổ
sông Mê Kông mà ông muốn chấp nhận vào cuối thế kỷ VI, thực sự có thể đã xảy ra
vào cuối thế kỷ V, thì đó có lẽ là một sự khẩn nài đặc biệt, và một sự thay đổi
kịch tích như vậy không lẽ nào lại bị người Trung Quốc bỏ qua, vì đối với họ
thì Phù Nam là một mối nối quan trọng để tiếp xúc với Ấn Độ.
Mặc dù Phù Nam bao gồm cả một phần nào đó của
vùng đất giờ đây thuộc về nam Việt Nam, thì giờ đây không còn có thể chấp nhận
được rằng thủ lĩnh Fan Shi man của Phù Nam là Sri Mara trong tấm bia Phạn ngữ
C.40 ở Võ Cạnh, như Louis Finot đề xuất đầu tiên sau đó được Pierre Dupont và
Coedès chấp nhận, cho rằng Phù Nam đã thống trị toàn bộ nam Trung bộ Việt Nam
cho đến tận Nha Trang. Cần phải nhấn mạnh điều này vì ý tưởng cho rằng
Fan-shih-man = Sri Mara dường như đã trở nên thịnh hành trong những môi trường
nhất định và có nguy cơ không thể kiểm soát được nữa. Từ khi có công trình
nghiên cứu của Filliozat người ta đã bắt đầu chấp nhận rằng Mara có thể là một
tước vị Pandyan không liên quan gì đến bất cứ chính thể địa phương nào ở Đông
Dương. Hơn nữa, việc phiên âm chữ Hán từ Sri Mara có lẽ là có bốn âm tiết/chữ. Người ta thường
xử lý sri thành hai âm tiết, và dễ
dàng thể hiện các âm tiết ma/mā và ra/la bằng các ngôn ngữ Ấn Độ hoặc Đông
Nam Á 93.
____________________________________
Còn nữa...
Nguồn: Funan Reviewed:
Deconstructing the Ancients. In: Bulletin
de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 90-91, 2003. pp. 101-143.
* Ghi
chú của người dịch: Các
từ có đánh dấu sao [*] là do tôi, Hà Hữu Nga, trộm tìm, dịch sang tiếng Phạn,
tiếng Hán và tiếng Việt để tiện cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và
xác định nghĩa của từ mà thôi.
** Không biết cái tên Chan-mon này Vickery lấy
ở đâu? Nói về ai? Có phải ông định nói về 范蔓* Fan
man Phạm Mạn?
***
Theo tôi, các nhà dân tộc khảo người Pháp là những học giả giỏi nhất thế giới về
lĩnh vực này, vì vậy để hiểu được tường tận về thể chế kế vị được đề cập ở trên,
có thể đọc hai tài liệu rất hay dưới đây: i) Nicole, Marie-Claire et Jacques
Nicole 2011. Parente et traduction -
Généralités et langues bibliques, SIL International®2011, SIL Electronic
Working Papers 2011-010, October 2011; và ii) Yoyotte, Jean 1958. Le dénommé Mosou: A propos de la parenté
féminine du roi Teti (VIe dynastie, BIFAO 57, 1958, pp. 81-89.
Ghi
chú
72. Porée-Maspero 1950, p. 254, n. 4. See the
criticism in Coedès 1951b.
73 Coedès 1964a, pp. 77, 81-84; 1968, pp. 38,
40-41.
74. Vickery 1998, pp. 68-69.
75. Above, pp. 113-114.
76. Vickery 1998, pp. 190-205; và về việc thừa
kế các triều đại hoàng gia trong thế kỷ VII, mà về điều này Porée-Maspero đã
thông tin sai, xem ở dưới, tr. 134-135.
77. Porée-Maspero 1950, p. 255.
78. Porée-Maspero 1950, p. 254. Điều này được
thảo luận triệt để trong Coedès 1951b. Trong giai đoạn Angkor, khi các dữ liệu
tốt nhất đường như ủng hộ cho các giả thuyết của Porée-Maspero thì cái tên Dharanïndradevï,
người được cho là mẹ của Jayavarman III, con trai và người kế vị Jayavarman II
lại chỉ được phát hiện trong một bi ký ở Preah Ko, nơi mà địa vị của bà không
được biết chi tiết, nhưng được các sử gia giả định vì bà được điêu khắc trên
tháp làm thành một cặp để tưởng nhớ Paramešvara- Jayavarman II; căn cước bà mẹ
của hai người con trai Yašovarman kế vị ông thì lại hoàn toàn không được biết đến,
như người mẹ của Jayavarman V, là người kế vị cha ông là Râjendravarman. Tuy
nhiên trong trường hợp Jayavarman II, Porée-Maspero 1950, p. 258 đã có những nhầm
lẫn, hoặc khá hơn thì là nạn nhân của những hiểu lầm mà ngày nay đã được thanh
toán. Khi giả định rằng quyền của Jayavarman đối với ngai vàng “có lẽ là không
đủ”, bà đã dẫn một nghiên cứu trước kia của Bergaigne (1882) cho rằng Jayavarman
đã “củng cố” các quyền của ông bằng hôn nhân, và điều đó được đã chứng minh bằng
một thực tế là con ông đã được kế vị ngai vàng của ông. Tuy nhiên Bergaigne cho
rằng Jayavarman đã cưới một bà hoàng hậu của Šambhupura, và về việc này ông bị
lẫn lộn với một Mahïpativarman nào đó, là người mà ông cho là tên cũ của Jayavarman.
Năm 1950 Porée-Maspero đã biết điều này từ công trình của Coedès. Mặc dù phê
phán chi tiết này của Porée-Maspero, nhưng Coedès [1951b] lại không đưa ra các
chi tiết. Công trình ấy đã thực cho rằng Jayavarman II đã cưới một hoàng hậu Šambhupura,
nhưng trong các hoàn cảnh hoàn toàn khác với những gì được Bergaigne hoặc Porée-Maspero
hình dung (xem Jacques 1972; Vickery 1998, pp. 398-399).
79. Pelliot 1903, pp. 288-289, “Tôi ... hoàn
toàn đồng ý với ông Aymonier: Phù Nam về nguyên tắc chỉ có thể tương hợp với Cambodia
hiện đại và vùng Hạ Nam Kỳ [nay là nam Sài Gòn Việt Nam, mà tiếng Khmer gọi là
Nam Kampuchea]”; Boisselier 1965; Hoshino 1993, trong đó Phù Nam được định vị gần
Sri Thep thượng lưu Pasak. Gần đây hơn một tác giả viết những bài hời hợt phổ
biến cho đại chúng trên tờ Bangkok tiếng Anh, Michael Wright [The Nation 28
June 1999, section Cl, "The Quest for Bronze"] đã lấy quan điểm của
Hoshino về Phù Nam và thêm thắt rằng vào thời Sri Thep “gần như là đầu não của
Vịnh Thái Lan trong các thời cổ”, vì vậy bằng cách bổ sung tính hợp lý cho các
lý thuyết của Hoshino vốn bỏ qua các nhận định rõ ràng của người Trung Quốc cho
rằng Phù Nam là một vùng ven biển. Sri Thep ngày nay cách bờ biển khoảng 200 km
theo đường chim bay. Tuy nhiên tất cả những người viết về địa lý Đông Nam Á đều
đồng ý rằng mực nước biển đã không thay đổi đáng kẻ trong vòng 2000 năm nay, và
trong thời Phù Nam, vị trí của Sri Thep có lẽ cũng cách xa biển tương tự như
bây giờ. Xem Higham và Thosarat 1998, đặc biệt là các bản đồ tr. 66 và 134.
80. Jacques 1995a, pp. 14-23, quotations on
pages 18-19.
81 . On recent archaeological evidence see
below.
82. Boisselier 1965, no pagination.
83. Để có thêm thông tin khảo cổ học phía Việt
Nam, xem Lê Xuân Diệm, et al. 1995; còn Angkor Borei thì xem ghi chú 128 ở dưới.
84. Để biết về Prasat Phnom Da, xem Boisselier
1966, tr. 118, 120; để biết về bi ký K. 53, xem Vickery 1998, tr. 41, 45, 109,
261, và ở dưới, tr. 38; còn bi ký K. 549, xem Vickery 1998, tr. 45-46.
85. Lê Xuân Diệm, et. al. 1995, tr. 439 và một
bản không đánh số tiếp theo đến hết.
86. Một nhà sử học nghệ thuật cùng thế hệ lại
có một quan điểm khác. Dupont 1941, p. 244, viết rằng “nghệ thuật Dvaravati, về
tổng thể, không bao gồm bất kỳ sự sản sinh liên tục nào các hình tượng Bà La
Môn, và việc so sánh các hình tượng Phật cũng không làm mất đi các chi tiết có
thể so sánh”.
87. Vickery 1998, pp. 51-60; Manguin 1980, 1985,
1996, 1999.
88. Pelliot 1903, p. 254, document III-(4[7]),
and p. 282, XIV-(3[10]).
89. Pelliot 1903, pp. 254: document
III-(4[7]), 256: V-(5[7]), 263: VI-(6[7]), 278: X-(6[10]), 284: XXI.
90. Hoshino 1993, p. 17; Pelliot 1903, p. 256.
91. Pelliot 1903, p. 256 and note 2, 263;
Hoshino 1993, pp. 22, 26, 27-28 ("the biggest river in Fu Nan: the Mekong
river").
92. Coedès 1931, pp. 8-9. Theo ý kiến của ông
thì bi ký K. 40 về nguồn gốc là một phần của một chiếc rầm cửa, nhưng khi phát
hiện thì nó được dùng làm một rầm đỡ tại ngôi đền Ta Prohm ở Tonle Bati thuộc
thế kỷ XII.
93. Finot 1927, tr. 186; Dupont 1949, tr.
19-20; Porée-Maspero 1950, tr. 265; Coedès 1964a, tr. 81, 110; Filliozat 1969;
Wheatley 1983, tr. 120, ghi chú 5, 125, 297, 309 đã chỉ ra sự lẫn lộn trong việc
chấp nhận cả mối liên hệ của Phù Nam ở bia Võ Cạnh và đề xuất của Filliozat
liên quan đến tước vị. Để biết các phiên âm tiếng Hán, xem Wheatley 1983, p.
239, *Si-lji for srï, và tr. 237, *Muât-lâ-ieu cho 'Malayu'. Cũng cần lưu ý đến
Coedès 1964a, tr. 81, tr. 82, ghi chú 1; 1968, tr. 40, các ghi chú 38, 41. Từ
kinh nghiệm giảng dạy của riêng tôi tại khoa Khảo cổ Đại học Hoàng gia Phnom
Penh, tôi thấy rằng việc đồng nhất Fan Shih man - Sri Mâra và mở rộng Phù Nam đến
vùng đó đã làm cho các bài viết trở thành vật làm tin.
94. Stargardt 1986, pp. 23, 25.
Tài
liệu dẫn
Anderson, John 1981, English Intercourse with Siam in the Seventeenth Century, Bangkok, Chalemmit
Bookshop.
Aymonier, Etienne 1903, Le Fou-nan, Journal Asiatique 10/1 (janv.-fév. 1903), pp. 109-150.
Bellwood, Peter 1992, Southeast Asia Before History, The Cambridge History of Southeast
Asia, vol. I, pp. 55-136.
Bergaigne, Abel 1882, Les inscriptions sanscrites du Cambodge, Journal Asiatique, pp.
1-56.
Blust, Robert 1992, The Austronesian Settlement of Mainland Southeast Asia, in Papers
from the Second Annual Meeting of the
Southeast Asian Linguistics Society, edited by Karen L. Adams and Thomas
John Hudak, pp. 25-83. Arizona State University, Program for Southeast Asian Studies, Tempe, Arizona, 1994.
Brown, Robert L. 1996, The Dvaravati Wheels of the Law and the Indianization of South East
Asia, Leiden, Brill.
Boisselier, Jean 1963, La statuaire du Champa, Paris, École française d'Extrême-Orient.
Boisselier, Jean 1965, Nouvelles
données sur l'histoire ancienne de la Thaïlande, Conférence, Alliance française/Centre
culturel [Bangkok]. Seven pages, no pagination, introduction by Marie-Jean
Vinciguerra, Attaché culturel.
Boisselier, Jean 1966, Le Cambodge, 1. 1, in Asie du Sud-Est, première partie, Manuel
d'Archéologie d'Extrême-Orient, Paris, Éditions A. et J. Picard et Cie.
Charnvit Kasetsiri 1976, The Rise of Ayudhya, Kuala Lumpur, Oxford University Press.
Coedès, George 1928 E.C. 21, La tradition généalogique des premiers rois
d'Angkor d'après les inscriptions de Yaçovarman et de Râjendravarman, BEFEO
28, pp. 124-40.
Coedès, George 1931 E.C. 25, Deux inscriptions sanskrites du Fou-Nan,
BEFEO 3 1 , pp. 1 - 1 2.
Coedès, George 1938, Le fondateur de la royauté angkorienne et les récentes découvertes
archéologiques au Phnom Kulên, Cahiers de l'École française
d'Extrême-Orient 14, pp. 40-48; republished in George Coedès, Articles sur le
pays khmer, Tome II, pp. 277-284.
Coedès, George 1942, Inscriptions du Cambodge, Vol. 2, Hanoi, EFEO.
Coedès, George 1943-46, Quelques précisions sur la fin du Fou-nan, BEFEO 43, pp. 1-8.
Coedès, George 1948, Les États hindouisés d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de
Boccard
Coedès, George 1951a, Inscriptions du Cambodge, Vol. 3, Paris, E. de Boccard.
Coedès, George 1951b, Les règles de la succession royale dans l'ancien Cambodge, Bulletin
de la Société des Études Indochinoises, nouvelle série no. 26 (2), pp.l 17-
130.
Coedès, George 1952, Inscriptions du Cambodge, Vol. 4, Paris, E. de Boccard
Coedès, George 1954, Inscriptions du Cambodge, Vol. 6., Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1962, Les peuples de la Péninsule indochinoise, Paris, Dunod.
Coedès, George
1964a, Les États hindouisés
d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de Boccard.
Coedès, George 1964b, Inscriptions du Cambodge, Vol. 7, Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1966, Liste générale des inscriptions du Cambodge, In Inscriptions du
Cambodge, Vol. 8, pp. 76-225.
Coedès, George 1968, The Indianized States of Southeast Asia, Edited by Walter F. Vella,
Translated by Susan Brown Cowing, Honolulu, University of Hawaii Press.
Dowling, Nancy H. 1999, A New Date for the Phnom Da Images and Its Implications for Early
Cambodia, Asian Perspectives, Volume 38, Number 1, pp. 51-61.
Dupont, Pierre 1941, Variétés archéologiques, BEFEO 41, pp. 233-254.
Dupont, Pierre 1943-46, La dislocation de Tchen-la et la formation du Cambodge angkorien,
BEFEO 43, pp. 17-55.
Dupont, Pierre 1949, Tchen-La et Panduranga", Bulletin de la Société des Études
Indochinoises 24/1, pp. 9-25.
Dupont, Pierre 1952-54, Les débuts de la royauté angkorienne, BEFEO 46, pp. 1 19-76
Ferlus, Michel 1977, Étude d'une strate de changements phonétiques dans l'ancien Cambodge,
Mon-Khmer Studies 6, pp. 59-67.
Filliozat, Jean 1969, L'inscription dite de Võ-cạnh, BEFEO 55, pp. 107-1 16.
Finot, Louis 1904, Les inscriptions de Mi-son, BEFEO 4, pp. 897-977.
Finot, Louis 1911, Sur quelques traditions indochinoises, In Mélanges d'indianisme
offerts par ses élèves à M. Sylvain Levi, Paris, Ernest Leroux, pp. 193-212.
Finot, Louis 1927, Séance du 14 janvier, Journal Asiatique 210 (janv.-mars), p. 186.
Friedman, Jonathan 1987, Review Essay on Islands of History by Marshall Sahlins, in History
and Theory, Vol. 13, pp. 72-99.
Groslier, Bernard Philippe 1985-86, For a geographic history of Cambodia,
Seksa Khmer 8-9, pp. 3 1 -76.
Hall, D. G. E. 1955, A History of South-East Asia, New York, St. Martin's Press, [reed. 1981].
Hall, Kenneth R. 1985, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia,
Honolulu, University of Hawaii Press.
Higham, Charles and Rachanie Thosarat 1998, Prehistoric Thailand: From Early Settlement
to Sukhothai, Bangkok, River Books.
Hoshino, Tatsuo 1986, Pour une histoire médiévale du moyen Mékong, Bangkok, Editions
Duang Kamol.
Hoshino, Tatsuo 1991, Wen Dan and its Neighbours: The Central Mekong Valley in the Seventh
and Eighth Centuries, typescript, n.p.
Hoshino, Tatsuo 1993, Puram; earliest Chinese sources on Sri Thep and Lopburi, Paper
presented to the Symposium sur les
sources de l'histoire du pays khmer, Paris.
Hoshino, Tatsuo 1995, Reappraisal of the Chinese texts on Shi li Fo Shi: Dvaravati and Sri
Buddha Sei (?), In Southeast Asian Studies, Tokyo University of Foreign
Studies.
Hoshino, Tatsuo 1996a, The
Kingdom of Red Earth (Chitu Guo) in Cambodia and Vietnam from the sixth to the eighth
centuries, Paper presented to the 14th I.A.H.A. conference, Bangkok, May
1996.
Hoshino, Tatsuo 1996b, Chang Zhou (Elephant/Master Province) and Sakolnakhon site in Northeast
Thailand, Paper presented to the 6th International conference on Thai
Studies, Chiang Mai, October 1996.
Jacques, Claude 1972, La carrière de Jayavarman II, BEFEO 59, pp. 205-20.
Jacques, Claude 1979, Funan, Zhenla. The Reality
Concealed by These Chinese Views of Indochina, In Early South East Asia. Essays in Archaeology, History and
Historical Geography, Ed. By R. B. Smith and W. Watson, New York/Kuala
Lumpur, Oxford University Press, pp. 371-389.
Jacques, Claude 1986a, Le
pays khmer avant Angkor, Journal des Savants, janv.-fév., pp. 59-95.
Jacques, Claude 1986b, Cours
Année 1985-1986, Paris, École pratique des hautes études, IVe section, typescript.
Jacques, Claude 1987, L'Empire angkorien: mythe ou réalité, typescript, Conférence à
Tokyo, 25 June 1987.
Jacques, Claude 1995a, Funan, Zhenla, Srîvijaya, In Les
apports de l'archéologie à la connaissance des anciens États en Thaïlande,
3e Symposium franco-thaï, 11-13 décembre 1995, Bangkok, Silpakon University,
pp. 14-23.
Jacques, Claude, éd. 1995b, Études épigraphiques sur le pays cham,
[Reprint], Paris, École française d'Extrême-Orient (Réimpressions 7).
Karlgren, Bernhard 1923, Analytical Dictionary of Chinese and Sino-Japanese, Dover/New York,
[Reprint, 1 974].
Karlgren, Bernhard 1957, Grammata Serica Recensa, Museum of Far Eastern Antiquities Bulletin
29, Stockholm.
Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải 1995, Văn hóa Óc Eo, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
Loofs, H. H. E. 1979, Problems
of Continuity the pre-Buddhist and Buddhist Periods in Central Thailand, with Special
Reference to U-Thong, in R. B. Smith and W. Watson, eds, Early South East Asia: Essays in
Archaeology, History, and Historical Geography, New York, Oxford University Press.
Mabbet, Ian and David Chandler 1995, The Khmers, Oxford (UK) / Cambridge (US
A),Blackwell.
Manguin, Pierre- Yves 1980, The Southeast Asian Ship: An Historical
Approach, Journal of Southeast Asian Studies 11/2, pp. 266-276.
Manguin, Pierre- Yves 1985, Sewn-Plank Craft of South-East Asia, a
Preliminary Survey, in Sewn Plank
Boats, Archaeological and Ethnographic papers based on those presesented to
a conference at Greenwich in November 1984, ed. by Sean McGrail and Eric
Kentley, Greenwich, National Maritime Museum (Archaeological Series No. 10, BAR
International Series 276).
Manguin, Pierre- Yves 1991, The Merchant and the King: Political Myths
of Southeast Asian Coastal Polities, Indonesia 52, pp. 41-54.
Manguin, Pierre- Yves 1993, Palembang and Sriwijaya: An Early Malay
Harbour-City Rediscovered, Journal of the Malaysian Branch of the Royal
Asiatic Society 66/1, pp. 23-46.
Manguin, Pierre- Yves 1996, Southeast Asian Shipping in the Indian Ocean
During the First Millenium A.D.", in H. P. Ray & J.-F. Salles
(eds.), Tradition and Archaeology. Early Maritime Contacts in the Indian Ocean,
Lyon/New Delhi, Manohar (Maison de l'Orient méditerranéen/NISTADS),pp. 181-198.
Manguin, Pierre- Yves 1999, Srivijaya dans l'oeuvre de George Coedès,
in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, Centre d'Anthropologie
Sirindhorn, 9-10 September.
Manguin, Pierre- Yves 2002, From Funan to Srivijaya: Cultural
Continuities and Discontinuities in the Early Historical Maritime States of
Southeast Asia", in 25 Tahun Kerjasama Pusat Penelitian Artkeologi dan
École française d'Extrême-Orient, Makalah Seminar Dimensi Budaya dalam
Membangun Persatuan Bangsa-Bangsa di Asia Tenggara, Palembang, 16-18 July 2001,
Jakarta, 2002, pp. 59-82.
Maspero, Georges 1928, Le royaume de Champa, Paris/Bruxelles, Éditions G. Van Oest,
[reprint. EFEO, 1988].
Mauger, Henri 1935, Angkor Borei, BEFEO 35, p. 491.
Mauger, Henri 1936, Asram Maha Rosei, BEFEO 36, pp. 65-95.
Maurel, Frédéric 1998, The work of George Coedès: views of a young man, Journal of the
Siam Society 86/1-2, pp. 235-238.
Népote, Jacques 1999, Mythes de fondation et fonctionnement de l'ordre social dans la basse
vallée du Mékong accompagnés de considérations sur l'indianisation,
Péninsule 38(1), pp. 33-64.
Paris, Pierre 1952-54, Quelques dates pour une histoire de la jonque chinoise, BEFEO 46,
pp. 267-278.
Pelliot, Paul 1903, Le Fou-Nan, BEFEO 3, pp. 248-303.
Pelliot, Paul 1904, Deux itinéraires de Chine en Inde à la fin du vine siècle, BEFEO 4,
pp. 13 1-385.
Pelliot, Paul 1925, Quelques textes chinois concernant l'Indochine Hindouisée, EFEO
Études Asiatiques II, pp. 243-263.
Porée-Maspero, Éveline 1950, Nouvelle étude sur la Nâgï Somâ, Journal
Asiatique, pp. 237-267.
Porée-Maspero, Éveline 1962-69, Étude sur les rites agraires des Cambodgiens,
3 Vol., Paris/La Haye, Mouton & Co. Pou, Saveros
Porée-Maspero, Éveline 2001, Nouvelles inscriptions du Cambodge, vol.
II & III, Paris, EFEO.
Reid, Anthony 1993, Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680, Vol. 2, Chiang
Mai, Silkworm Books.
Reynolds, Craig J. 1995, A New Look at Old Southeast Asia, Journal of Asian Studies 54/2,
pp. 419-446.
Sanderson, D. С W., et. al. 2003, Luminescence dating of anthropogenically
reset canal sediments from Angkor Borei, Mekong Delta, Cambodia, Quaternary
Science Reviews 22, pp. 1111-1121.
Shorto, H. L. 1963, The 32 myos in the medieval Mon kingdom, Bulletin of the School of
Oriental and African Studies 26/3 (London), pp. 572-591.
Stargardt, Janice 1986, Hydraulic Works and South East Asian Polities, In Southeast Asia in
the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra, Australian National University/Institute of Southeast Asian
Studies, Singapore, pp. 23-48.
Stark, Miriam T. 1998, The Transition to History in the Mekong Delta: A view from Cambodia,
International Journal of Historic Archaeology 2/3, pp. 175-204.
Stark, Miriam T., et. al. 1999, Results of the 1995-1996 Archaeological
Field Investigations at Angkor Borei, Cambodia", Asian Perspectives
38/1, pp. 7-36.
Stein, R. A. 1947, Le Lin-Yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa, et
ses liens avec la Chine, Han-Hiue Bulletin du Centre d'études sinologiques
de Pékin 2, pp. 1-335.
Stuart-Fox, Martin 1998, The Lao Kingdom of Lan Xâng: Rise and Decline, Bangkok, White Lotus
Press.
Syafei, Soewadji 1977, The Relation Between Cambodia and Indonesia in the 8th to 9th Century"
[sic], Majalah Arkeologi, Indonesia, pp. 14-18.
Thurgood, Graham 1999, From Ancient Cham to Modern Dialects, Two Thousand Years of Language
Contact and Change, Honolulu, University of Hawaii.
Vickery, Michael 1972, The 'Kalpana' documents in a review of three collections of Thai
historical documents, Journal of the Siam Society 60/1, pp. 397-410.
Vickery, Michael 1977, Cambodia after Angkor, the Chronicular Evidence for the Fourteenth to
Sixteenth Centuries, Ph.D. Yale University, dec. 1977 [Ann Arbor:
University of Michigan, University Microfilms].
Vickery, Michael 1979, A New Tâmnàn About Ayudhya, Journal of the Siam Society 67/2, pp. 1
23- 1 86.
Vickery, Michael 1986, Some Remarks on Early State Formation in Cambodia, In Southeast
Asia in the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra/Singapore, Australian National University (Research School of Pacific
Studies) / Institute of Southeast Asian Studies, pp. 95-115.
Vickery, Michael 1987, Review of K. R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early
Southeast Asia, in Journal of Asian Studies 1987, pp. 21 1-213.
Vickery, Michael 1994, Where and What was Chenla?, In Recherches nouvelles sur le
Cambodge, dir. By F. Bizot, Paris, EFEO (Études thématiques I), pp. 197-212.
Vickery, Michael 1998, Society, Economies, and Politics in Pre-Angkor Cambodia: the 7th-8th
Centuries, Tokyo, The Centre for East Asian Cultural Studies for Unesco/The
Toyo Bunko.
Vickery, Michael 1999a, The Khmer Inscriptions of Roluos (Preah Ko and Lolei): Documents from a
Transitional Period in Cambodian History, Seksa Khmer n. s. 1 (jr- 1999),
pp. 47-93.
Vickery, Michael 1999b, Coedès' Histories of Cambodia, in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, CEDREFT, 9-10 September 1999.
Vickery, Michael 2001, Resolving the Chronology and History of 9th-Century Cambodia",
SiksucakrZ (Newsletter of the Center for Khmer Studies, CKS, Siemreap, July
2001), pp. 17-23.
Wang Gungwu 1958, The Nanhai Trade, Journal of the Malaysian Branch Royal Asiatic
Society 3 1/2, pp. 1-135.
Wheatley, Paul 1961, The Golden Khersonese, Kuala Lumpur, University of Malaya Press.
Wheatley, Paul
1974, The Mount of the Immortals: A note on Tamil cultural influence in
fifth-century Indochina, Oriens Extremis, Vol. 21, part 1, pp. 97-108.
Wheatley, Paul 1983, Nagara and Commandery: Origins of the Southeast Asian Urban Traditions,
University of Chicago (Research Paper Nos. 207-208, Department of Geography).
Wolters, O. W. 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H. Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Wolters, O. W. 1967, Early Indonesian Commerce, Ithaca, Cornell University Press.
Wolters, O. W. 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H. Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Wolters, O. W. 1967, Early Indonesian Commerce, Ithaca, Cornell University Press.
Wright, Michael 1999, The Nation, section Cl "Focus", "The Quest for
Bronze", Bangkok, 28 June.
Nguồn: http://kattigara-echo.blogspot.com/2012/12/phu-nam-nhin-lai-giai-co-tac-gia-iv.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét