Khảo
cổ học Xô-viếttrải
qua một quá trình hình thành, hưng thịnh và tàn lụi, là tấm gương phản chiếu mọi
những diễn biến nội tại của đất nước Xô-viết, chứa đựng mọi thành tựu cũng như
hạn chế của hệ thống chính trị lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm kim chỉ nam. Bài này
điểm qua một số đặc điểm của khảo cổ học Xô-viết, Khảo cổ học Việt Nam và phác
họa những ảnh hưởng của Khảo cổ học Xô –viết đối với khảo cổ học Việt Nam.
Một
số đặc điểm của khảo cổ học Xô -viết
Xu
thế phản biện hiện thời
Trong
cuốn Khảo cổ học trong Kỷ nguyên Cộng sản
, Khảo cổ học Cộng sản Liên Xô và Đông Âu được chia thành 04 thời kỳ: i. Thời kỳ
Xtalin năm 1945 - 1953; ii. Thời kỳ tan băng (Thaw) 1954-1955 đến 1968; iii. Thời
kỳ Chủ nghĩa Xã hội với gương mặt người từ 1970 đến 1980 và iv. Thời kỳ Cải tổ
từ năm 1985 đến 1990, khi những chính quyền cộng sản biến mất (ở Đông Âu) và
Liên Xô tan rã vào năm 1991 (Ludomir R. Lozny (chủ biên) 2017).
Cuốn
sách bao gồm những bài viết của học giả Phương Tây và học giả từ các nước xã hội
chủ nghĩa đã đưa ra những nhận định bao quát về những thành tựu và hạn chế của
nền khoa học khảo cổ lấy chủ nghĩa Mác Lê nin làm nền tảng lý thuyết và tư tưởng
chính, những đánh giá từ bên ngoài kết hợp với cái nhìn từ bên trong giúp người
đọc từ cả hai bên hiểu rõ hơn về lịch sử chính trị của khảo cổ học các nước
theo chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Việc áp dụng tư tưởng Mác-xít trong nghiên
cứu khảo cổ học được đánh giá từ hai góc độ: Thứ nhất, lý thuyết và phương pháp
luận cảm hứng từ chủ nghĩa Mác-xít đóng góp cho việc tạo ra cách tiếp cận chính
để diễn giải xã hội quá khứ và thứ hai, những chính sách và áp lực của chính
quyền trong việc kiểm soát công tác khảo cổ học và giải thích quá khứ. Bên cạnh
đó những vấn đề liên quan khác cũng được đưa ra phân tích và mổ xẻ như những chủ
đề nào về xã hội trong quá khứ thường được tập trung nghiên cứu và tại sao?
Phương pháp luận nào để thu thập và phân tích dữ liệu? Những lý thuyết nào định
hướng và được áp dụng để diễn giải dữ liệu thu thập? Khảo cổ học được điều hành
về hành chính thế nào? Ai tài trợ những nghiên cứu khảo cổ học? Việc cung cấp
kinh phí của chính quyền trung ương tác động thế nào đến các cơ quan làm khảo cổ
học? (Ludomir R. Lozny (chủ biên) 2017: v).
Mặc
dù cố gắng để đưa ra một bức tranh toàn cảnh và hệ thống nhưng cuốn sách vẫn tạo
cho người đọc cảm giác các tác giả chưa thực sự khách quan trong đánh giá quá
khứ khảo cổ học ở các nước XHCH và những đóng góp của khảo cổ học XHCN đối với
khảo cổ học thế giới kể cả về kỹ thuật khai quật cũng như trong lý thuyết và
phương pháp xử lý hậu khai quật và diễn giải tài liệu khai quật chưa được đánh
giá một cách đầy đủ.
Khi
đánh giá về khảo cổ học thời Cộng sản ở Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa
tôi cho rằng cần lưu ý những điểm chung và riêng như sau.
Chung:
Khảo cổ học Xô-viết và khảo cổ học ở các nước khối xã hội chủ nghĩa có nền tảng
lý thuyết và tư tưởng chung, nhất là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của triết học Mác Ăngghen. Chịu sự quản lý và kiểm soát của những
chế độ chính trị tương đồng, do vậy đều bị ảnh hưởng mạnh mẽ của chính trị và
được quản lý từ trên xuống dẫn đến độc quyền, độc đoán trong chọn lựa vấn đề
nghiên cứu và diễn giải thông tin khảo cổ.
Riêng:
Hình thành và phát triển dựa trên nền tảng lịch sử, văn hoá và truyền thống dân
tộc khác nhau, chịu tác động khác nhau của bối cảnh thế giới đương đại và quan
trọng nhất, đó là tư tưởng Mác Ănghen đã được tiếp nhận rồi địa phương hoá
thành các chủ nghĩa như chủ nghĩa Xtalin, chủ nghĩa Lê Nin, chủ nghĩa Mao, tư
tưởng Hồ Chí Minh... cùng với chủ nghĩa
dân tộc ở các nước phương Đông, tinh thần Âu tâm ở các nước Phương Tây, tinh thần
Đại Hán ở Trung Quốc, sự chia rẽ và bất đồng về chính kiến về tư tưởng không chỉ
một lần trong khối các nước XHCN cùng với vai trò của cá nhân, những thủ lĩnh
tinh thần trong dẫn dắt chiến lược nghiên cứu và đào tạo lực lượng kế cận mỗi
nước đều có cá tinh và cách ứng xử riêng của mình...
Tất
cả những điều này đã tạo ra cho khảo cổ học ở Liên Xô và ở các nước xã hội chủ
nghĩa một cái vỏ đồng nhất bao quanh khối ruột hỗn hợp.
Khảo
cổ học Xô - viết: Đặc điểm, thành tựu và vấn đề
Khảo
cổ học Xô-viết là một nền khoa học được xây dựng dựa trên nền tảng của khảo cổ
học Châu Âu, với đầy đủ những trường phái, lý thuyết đặc trưng của khoa học khảo
cổ thế kỷ 19.
Chịu
tác động mạnh mẽ của những biến động chính trị, những thay đổi có tính chất bước
ngoặt trong chế độ chính trị xã hội và vai trò của những cá nhân những người
lãnh đạo nhà nước và đảng Cộng sản từ sau Cách mạng tháng 10. Đóng vai trò đầu
tàu trong nghiên cứu khảo cổ học của các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trong
và ngoài châu Âu. Nhiều nỗ lực đã được đưa ra bởi chính quyền Xô-viết để sử dụng
khảo cổ học của họ trong tuyên truyền chính trị. Kể từ những năm 1920, Khảo cổ
học Liên Xô gắn liền với chủ nghĩa Mác, phiên bản Mác-Lênin và từng có giai đoạn
học phiệt Xtalin.″ Khảo cổ học ở Liên Xô
đã được coi là một phần của khoa học lịch sử, và áp lực về tư tưởng từ Đảng Cộng
sản luôn nặng nề. Những thay đổi trong đường lối của Đảng ngay lập tức ảnh hưởng
đến các chủ đề khoa học quan trọng và cách tiếp cận chính” (L S Klejn 2012). Có
nhiều đóng góp quan trọng về cả lý thuyết và thực tiễn cho khảo cổ học thế giới,
những tên tuổi nổi tiếng như Leo S.Klejn, người được giới khảo cổ học thế giới,
Phương Tây đánh giá cao về cả khía cạnh đóng góp cụ thể vừa cả về lý thuyết (Sarunas
Milisauskas 2015). Có nhiều tên tuổi nổi danh trong nền khảo cổ thế giới, điển
hình như Klejn Leo như đề cập ở trên đã công bố trên 20 sách và rất nhiều bài
nghiên cứu trên văn liệu khảo cổ quốc tế, cuốn sách của ông ″Phân loại Khảo cổ
học” đã được Oxford: British Archaeological Reports 1982 dịch sang tiếng Anh
(Stephen Leach 2015). Bên cạnh ông là
nhiều tên tuổi khác Nikolay Y Marr (Một
Trí tuệ Vô biên và Cách mạng), Vladislav I Ravdonikas Demony (Con quỷ Đỏ của Khảo cổ học), Artemy V
Artikovksy (Một sử gia vũ trang với cái
bay), và Boris A Rybakov (Đại thủ
lĩnh của Khảo cổ học Xô Viết) (L S Klejn 2012) được nhắc tới.
Về
kỹ thuật và kỹ năng và phát hiện di tích, di vật, văn hoá khảo cổ, khảo cổ học
Xô Viết có đóng góp quan trọng như Sergey A Semenov về phân tích chất cặn (use-wear analysis), Vladislav I
Ravdonikas về Thời đại Đá giữa và Nghiên cứu Thạch học ở miền Bắc nước Nga (the Mesolithic and petroglyphs in northern
Russia); Mikhail P Gryaznov về Thời đại đồ Đồng và Sắt sớm ở Siberia (Siberian Bronze and Early Iron ages);
Sergey I Rudenko về những gò mộ bị đóng băng ở Mông Cổ và núi Altaion ở Siberia
(frozen burial mounds (kurgans) in
Mongolia and the Altai Mountains of Siberia); Sergey P Tolstov về nghiên cứu
nhà nước sớm ở Trung Á (on early Central
Asian states); Boris B Piotrovsky trong nghiên cứu khảo cổ học của
Transcaucasia (the archaeology of
Transcaucasia); hay Aleksei P Okladnikov về Khảo cổ học Tiền sử Siberia và
Nghệ thuật trên đá (Siberian prehistoric
archaeology and rock art); và Artemy V Artsikhovksy với nghiên cứu về văn bản
thê vỏ cây bạch dương thời Trung cổ (Medieval
perishable birch-bark texts from Novgorod) (L S Klejn 2012).
Bìa
sách Khảo cổ học Xô -viết, Xu hướng, Trường phái và Lịch sử
Một
đánh giá khác cho thấy vai trò không thể coi nhẹ của khảo cổ học Xô Viết ″Mặc
dù KCH Xô Viêt thường bị bỏ qua ở Phương Tây, nhưng ảnh hưởng của nền khảo cổ học
này thường hội nhập vào khảo cổ học Ρhương Tây, đặc biệt là qua các công trình
của Gordon Child, trong một số nghiên cứu của những nhà khảo cổ học lỗi lạc
trên Thế giới bên ngoài Liên Xô. Sau này, xu hướng phát triển trong khảo cổ học,
nhất là khảo cổ học Mới đã phát hiện lại một cách độc lập một số ý tưởng chìa
khoá tương đồng và cả lặp lại những sai lầm đã từng xảy ra” (Bulkin V.A, Leo
S.Klejn, G.S.Lebedev 1982).
Một
cách khái quát, về lý thuyết và phương pháp luận trong những nghiên cứu, các
nhà khảo cổ học Xô Viết tuân thủ những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
vật chất quyết định ý thức, duy vật biện chứng, tiến hoá đơn tuyến. Đối với diễn
giải khảo cổ học họ chú trọng vào hình loại học, kỹ thuật học, xác định các nền
văn hoá khảo cổ, coi đấu tranh giai cấp là động lực của phát triển, đề cao vai
trò của tộc người Xlavơ, tính bản địa, tính kế thừa và phát triển, phục vụ mục
đích chính trị trong tìm hiểu nguồn gốc nhà nước và nguồn gốc dân tộc. Tập
trung nghiên cứu đời sống hàng ngày của cư dân hạ tầng cơ sở... Khảo cổ học gắn
chặt với lịch sử, minh hoạ cho lịch sử, lịch sử cung cấp lý thuyết cơ sở, nền tảng
để diễn giải dữ liệu khảo cổ. Coi Khảo cổ học là Lịch sử với cái bay (Ludomir
R. Lozny (chủ biên) 2017: 24).
Quá
trình giải học phiệt và tiến gần với khảo cổ học thế giới
Từ
cuối những năm 80 đến nay là quá trình giải hoá sự tập trung tập quyền trong
nghiên cứu khảo cổ, những nghiên cứu chú trọng vào địa phương, vùng và tăng
nhanh những mối quan hệ quốc tế. Về phương pháp luận, lý thuyết và phương pháp
đang có một sự khủng hoảng và sự chuyển đổi từ phương pháp luận Mác Xít sang những
cách tiếp cận mới bằng sự xuất hiện của thế hệ người làm khảo cổ tốt nghiệp ở
Tây Âu, Mỹ... cũng như qua những cuộc nghiên cứu hợp tác quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi và đổi mới về tư tưởng,
lý thuyết và quan điểm... Đổi mới/ Cải tổ Perestroika cũng gây ra rất nhiều
thách thức và trở ngại, đó là suy giảm những nguồn tài chính đầu tư từ chính
quyền trung ương, thiếu hụt nguồn nhân lực ở địa phương, tính cát cứ trong
nghiên cứu và sự loay hoay trong chọn lựa cách tiếp cận nghiên cứu, lạm dụng một
số phương pháp khoa học kỹ thuật và phần mềm máy tính... bỏ hay đoạn tuyệt với
lý thuyết cũ nhưng chưa đủ điều kiện và năng lực để chọn lọc, tiếp cận và áp dụng
những lý thuyết, quan điểm và phương pháp luận của Khảo cổ học Mới. Nghiên cứu
thiên về khảo cổ học Dự án, khảo cổ học chữa cháy... do các điều kiện về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hiện nay là vấn đề quản lý và phát huy giá trị di sản.
Có
một nghịch lý giữa hai giai đoạn, trước và sau kết thúc của chế độ cộng sản ở
Liên Xô và một số nước XHCH Đông Âu, trước là những cuộc khai quật lớn, hệ thống,
tài liệu nhiều, báo cáo kỹ nhưng diễn giải thiên kiến, và sau thì khai quật ít,
chủ yếu khai quật dự án chữa cháy, tài liệu mỏng, lẻ tẻ... diễn giải đa chiều
hơn.
Một
vấn đề nữa cần phải đề cập đó là vai trò cá nhân và nỗ lực của các nhà khảo cổ
trong quá trình vừa thực hiện những quy định mà chính quyền đưa ra vừa tìm cách
để nghiên cứu một cách khoa học, khách quan, cập nhật những phương pháp và kỹ
thuật tiên tiến hiện đại của khảo cổ học thế giới và chắt lọc những tinh hoa của
khảo cổ học Mác Xít. Nhận định trích dẫn dưới đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn
tình trạng của khảo cổ học Xô Viết nói riêng và khảo cổ học các nước khối Xã hội
chủ nghĩa nói chung: ″Một người đọc sắc sảo
sẽ nhận ra, bất kể thế nào, như những gì các tác giả báo cáo, hệ thống chính trị
độc quyền trên xuống dưới không đủ cứng rắn trong việc kiểm soát những khoa học
xã hội và nhân văn như những gì quan sát bất chợt: Những nhà khảo cổ địa phương
sáng tạo ra một loạt những cách tiếp cận riêng của mình để khám phá và diễn giải
quá khứ cũng như những chiến thuật thông minh để làm giảm đi những áp lực tư tưởng″
(Ludomir R. Lozny (chủ biên) 2017: vi).
Khảo
cổ học Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Những
mốc lịch sử
Đào
tạo. Trong các năm 1956-1957, khảo cổ học chưa hình thành về
mặt tổ chức, chỉ mới có 2 cán bộ (GS. Hà Văn Tấn và cố GS. Trần Quốc Vượng)
sinh hoạt chung trong tổ Lịch sử Việt Nam cổ đại,
năm 1960 chuyên gia khảo cổ học Xô Viết GS.TS. P.I.Borixkovxki đến giảng dạy, bồi
dưỡng nâng cao kiến thức và nghiệp vụ. Nhóm Khảo cổ học do GS. Trần Quốc Vượng
phụ trách. Nhóm Khảo cổ học là một trong hai nhóm của Tổ Dân tộc- Khảo cổ. Mặc
dù nằm trong Tổ Dân tộc- Khảo cổ do cố PGS. Vương Hoàn Tuyên làm Chủ nhiệm,
nhưng Nhóm Khảo cổ học hoạt động độc lập như một bộ môn của Khoa Lịch sử. Trần
Quốc Vượng và Hà Văn Tấn lên lớp dạy về KCHVN với lý thuyết chắt lọc từ các nền
khảo cổ Liên Xô, Pháp, Trung Quốc. ″Ngày đó, Bộ trưởng Bộ Đại học Tạ Quang Bửu,
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, cụ Trần Văn Giàu tuy không đề ra nhưng
đã nhiệt tình ủng hộ chủ trương của cụ Đào Duy Anh đã nêu, bởi Việt Nam là một
nước nhỏ về không gian nhưng lại có bề dày về thời gian, mật độ KCH đã và sẽ
dày đặc, triển vọng KCHVN rất lớn” (Trần Quốc Vượng 2004). Năm 1967 được coi là
cái mốc mở đầu cho giai đoạn hai, với sự ra đời của Bộ môn Khảo cổ học thay cho
Nhóm Khảo cổ học ở giai đoạn trước.
Các
cơ quan nghiên cứu. Năm 1958 hoạt động khảo cổ học đầu tiên
khai quật chữa cháy mộ gạch Tam Thai và mộ hợp chất Nông Cống, Thanh Hoá. Năm
1960, thành lập Đội Khảo cổ học Việt Nam trực thuộc Vụ Văn hoá Quần chúng, Bộ
Văn hoá. Năm 1963 ra đời Đội Khai quật Khảo cổ trực thuộc Vụ Bảo tồn Bảo tàng,
trụ sở 61 Ρhan Chu Trinh, Hà Nội. Năm 1966, Đội Khai quật Khảo cổ được giao cho
Viện Khoa học Xa hội Việt Nam quản lý. Ngày 14 tháng 5 năm 1968 thủ tướng Ρhạm
Văn Đồng đã ký quyết định số 59-CΡ thành lập Viện Khảo cổ học trực thuộc Ủy ban
Khoa học Xã hội Việt Nam, GS.TS.Ρhạm Huy Thông làm Viện trưởng. Năm 1976, Tổ miền
Nam của Viện Khảo cổ học chuyển vào thành bộ phận khảo cổ học phía Nam trực thuộc
Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh (Tống Trung Tín 2013).
Những
thành tựu và sai lầm
Như
vậy, Việt Nam là một đất nước phát triển muộn về khảo cổ học, mặc dù khoa học
khảo cổ ở nước ta được hình thành từ thời Pháp thuộc với ảnh hưởng mạnh của trường
phái Khảo cổ học Lịch sử-Văn hóa mà đặc biệt là truyền bá luận và tiến hoá luận.
Khảo cổ học thời kỳ này dù có những hạn chế về cách thức khai quật và thu thập
thông tin cũng như diễn giải song đã để lại những thành tựu to lớn trong xây dựng
hệ thống nghiên cứu, trưng bày, định danh nhiều nền văn hoá khảo cổ không chỉ
có tiếng vang trong khu vực mà cả thế giới và nhiều ấn phẩm khảo cổ học có giá
trị về cả thực tế lẫn lý thuyết. Về nhân sự, rất tiếc, đã không có bất cứ nhà
khảo cổ nào người Việt Nam được đào tạo và tham gia nghiên cứu
.
Năm
1958 có lẽ là năm đánh dấu mốc khởi đầu của nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam khi
Bảo tàng Louis Finot Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đổi thành Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam. Do nhu cầu khai quật chữa cháy những di tích lịch sử trước tình hình mở rộng
sản xuất năm 1959, Đội khai quật khảo cổ đã được thành lập tại Bảo tàng Lịch sử.
Người đứng đầu Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm tới công tác
nghiên cứu và bảo tồn di tích và di vật khảo cổ, ngay từ thời điểm đó Hồ Chủ Tịch
đã nói về tầm quan trọng của nghiên cứu khảo cổ trong xây dựng và bảo vệ đất nước
và trách nhiệm của những người làm khoa học, của các tầng lớp nhân dân trong
lĩnh vực bảo vệ di sản (Nguyễn Tôn Kiểm 2013: 326- 327).
Những
người phụ trách và cả những thành viên của đội khảo cổ không có ai tốt nghiệp
khảo cổ học và tài liệu chuyển môn duy nhất là tập tài liệu in ronéo”Giáo trình
giảng dạy về khảo cổ học”, được cho là của Liên Xô dịch sang tiếng Việt, cách
thức khai quật học từ các chuyên gia Trung Quốc và Liên Xô, đặc biệt là vai trò rất quan trọng
và quyết định của GS. Borixcopxki, người cũng đã bỏ công sức để soạn cuốn Cơ sở
Khảo cổ học cho đồng nghiệp và học trò Việt Nam.
Mặc
dù thiếu thốn mọi bề như vậy, nhưng thời kỳ này cũng là thời kỳ của những công
trường khai quật lớn và phát hiện nhiều văn hoá khảo cổ mới, khẳng định tính bản
địa của văn hoá Đông Sơn.
Từ
1960 đến 1965, Đội khai quật khảo cổ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chữa cháy ở các
di tích và có những đóng góp đáng kể cho ngành khảo cổ, nhưng nhiều cuộc khai
quật được tổ chức quy mô vượt quá trình độ chuyên môn, tràn lan, tuỳ tiện, thiếu
khoa học (Nguyễn Tôn Kiểm 2013: 328). Khá nhiều di tích quan trọng những do
không có chiến lược khai quật bền vững nên hiện nay không có cách nào kiểm tra
lại thông tin, dẫu chỉ là mở một hố thám sát nhỏ. Điển hình là di tích Ρhùng
Nguyên "Ở di chỉ Ρhùng Nguyên năm trước ông đội phó 1 cho đào vài ngàn mét
vuông ở phía sau làng. Năm sau ông đội phó 2 lãnh đạo đào tiếp phần còn lại bên
kia mương ở phía tây làng. Hai ông, hai mùa điền dã đã làm gọn, sạch di chỉ
Ρhùng Nguyên″ (Nguyễn Tôn Kiểm 2013: 327).
Từ
những lược trình ở trên chúng ta có thể thấy, dù bắt đầu từ con số 0 và gặp
không ít khó khăn, nhưng ngay từ những ngày đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng
kể. Khảo cổ học Xô- viết bằng những cách trực tiếp và gián tiếp đã có tác động
không nhỏ đến khảo cổ học Việt Nam. Tác động trước hết là tổ chức theo hệ thống
nghiêm ngặt từ trung ương đến địa phương với đầu tư tập trung cho viện nghiên cứu
trung ương và phân viện ở vùng miền. Tác động quan trọng thứ hai là thông qua
đào tạo nhân lực, có thể nói đội ngũ những người làm khảo cổ học Việt Nam xuất
phát từ hai nguồn: i. Nguồn đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây (Liên
Xô, Cộng hoà Dân chủ Đức, Trung Quốc, Bulgaria) và các nước Mỹ, Úc, Nhật Bản và
châu Âu khác hiện nay (rất ít), nguồn nhân lực đào tạo từ nước ngoài càng ngày
càng hiếm hoi và không tạo ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp khảo cổ học Việt Nam.
Tuy nhiên ở thời kỳ khởi đầu, đội ngũ nhân lực những cử nhân, tiến sĩ tốt nghiệp
từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thực sự có vai trò quan trọng trong việc
định hướng nghiên cứu, cách thức nghiên cứu. ii. Nguồn đào tạo trong nước,
ngoài lớp của giáo sư Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng đến nay đã có thêm nhiềulớp
các nhà khoa học làm công tác khảo cổ học đã và đang tham gia công tác nghiên cứu
tại các viện khảo cổ, lịch sử, bảo tàng... Những lớp nhân lực này chịu tác động
của khảo cổ học Xô Viết một cách gián tiếp, đặc biệt là vai trò của những người
thầy đầu tiên của bộ môn khảo cổ Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Diệp Đình Hoa...
mỗi người một thế mạnh
và bên cạnh những tri thức khoa học khảo cổ tiếp nhận từ giáo sư Boriscopki và
từ sách khảo cổ Xô-viết họ có nền tảng học thuật của Phương Tây (Pháp), nền tảng
Nho học và nắm vững những thành tựu nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, lịch sử Việt
Nam, thông thạo nhiều ngoại ngữ và đầu óc khai phóng đã đặt nền móng cho đào tạo
nhân lực khảo cổ không quá lệ thuộc vào khảo cổ học Mác Xít, khảo cổ học Xô Viết.
Bên
cạnh đó do nhiều nguyên nhân mà ảnh hưởng của khảo cổ học Xô Viết không toàn diện,
không hệ thống, số lượng người làm khảo cổ học Việt Nam có thể đọc tốt tiếng
Nga không nhiều, bên cạnh đó ngay trong đội ngũ giữa những người tốt nghiệp từ
Liên Xô với những người tốt nghiệp từ Trung Quốc không phải lúc nào cũng đồng ý
với nhau về lý thuyết và phương pháp, nhiều tranh luận đã xảy ra nhưng không chỉ
về học thuật.
Và
cũng do những nguyên nhân khác quan và chủ quan khác, ảnh hưởng của khảo cổ học
Xô -viết đến khảo cổ học Việt Nam chủ yếu ở thời kỳ thứ II và III, từ những năm
90 trở lại đây mối quan hệ học thuật giữa Việt Nam với khối xã hội chủ nghĩa cũ
không chặt chẽ như trước. Hơn nữa đúng như nhận xét của Hà Văn Tấn “Khảo cổ học
Việt Nam ít chú trọng đến lý thuyết, vẫn coi Chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam trong
nghiên cứu khoa học xã hội. Chúng ta cố gắng vận dụng khuynh hướng Mác-xít vào
Khảo cổ học, song chưa nhuần nhuyễn, nhiều khi mang tính chất hình thức. Trong
các tác phẩm về Khảo cổ học Việt Nam, chủ yếu vẫn là tinh thần dân tộc, tinh thần
yêu nước. Tôi cho rằng chúng ta cần phải xây dựng lại một “Lý thuyết Khảo cổ học
Mác-xít thực sự”, đồng thời có kết hợp các tinh hoa của các trường phái hay
khuynh hướng Khảo cổ học hiện đại trên Thế giới” (Hà Văn Tấn, 1996). Vì thế, các
nỗ lực suy ngẫm kiến tạo một “Nền Khảo cổ học Mác-xit” ở Việt Nam vì thế đã trở
thành “một trong các vấn đề đáng quan tâm nhất của nền Khảo cổ học chúng ta hiện
nay” (Phạm Đức Mạnh 2001).
Một
vài nhận xét
Ảnh
hưởng của Khảo cổ học Xô-viết về phương pháp và phương pháp luận đến khảo cổ học
Việt Nam là khá gián tiếp và rời rạc. Mác, Ăng Ghen, Lê Nin được trích dẫn dày
đặc trong những tác phẩm giai đoạn...và giảm dần rồi thưa hẳn vào những giai đoạn
sau. Số lượng người được đào tạo ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu không nhiều
và gồm nhiều giai đoạn. Tuy vậy, họ - những người học gián tiếp hay trực tiếp từ
Liên Xô, Trung Quốc về là những người đặt nền móng cho khảo cổ học Việt Nam, từ
chỗ không có gì đến sự hình thành một ngành khoa học mới, công lao to lớn đó
không ai và vì lý do gì có thể phủ nhận. Những sai sót, sai lầm là không thể
tránh khỏi, một phần do trình độ non yếu, phần nữa còn do bối cảnh lịch sử.
Những
học trò của GS.Boriscovxki – đặc biệt là các học trò trực tiếp như Hà Văn Tấn,
Trần Quốc Vượng và một số người khác có nền tảng lịch sử Việt Nam cổ trung đại
vững chắc, nền Nho học và Pháp học, tiếp cận sớm với nền khảo cổ học thế giới
chứ không chỉ khảo cổ học Xô-viết, khảo cổ học của các nước xã hội chủ nghĩa những
bận tiền bối đã vừa tiếp nhận khảo cổ học Xô-viết vừa nhận thức thêm, nhận thức
lại, có cái nhìn hiện đại, đa chiều và khoa học là những người đóng góp cho đào
tạo nhân lực của ngành.
Cơ
cấu và hệ thống nghiên cứu từ trên xuống dưới, đầu tư nghiên cứu tập trung ở
Trung ương, địa phương thường chỉ có vai trò phối hợp, cách thức tổ chức này dẫu
đã có một số thay đổi để phù hơp với những thay đổi chuyển từ thời kỳ bao cấp
sang thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng trên thực tế
việc đầu tư nghiên cứu hiện nay chủ yếu vẫn từ ngân sách nhà nước, công tác xã
hội hoá nghiên cứu khảo cổ và bảo tồn di sản gần như chưa có. Có những giai đoạn
nghiên cứu phụ thuộc quá nhiều vào chính trị, dẫn đến những nhìn nhận chủ quan,
mang nặng tính dân tộc chủ nghĩa.
Điển hình là giai đoạn những năm 60 và 70 của thế kỷ 20 và cho đến nay những
nghiên cứu mang nặng tính chính trị không phải đã hết, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan cùng với đánh đồng biên giới chính trị hiện đại với phạm vi không gian
nghiên cứu các vấn đề khảo cổ vẫn tác động tiêu cực đến nghiên cứu khảo cổ học
hiện nay.
Khảo
cổ học Việt Nam hiện nay
Rõ
ràng là khảo cổ học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về cả kiện toàn
cơ cấu tổ chức, đào tạo nhân lực và tiến hành những chủ đề nghiên cứu (Tông
Trung Tín 2013). Tuy nhiên từ góc độ lý thuyết, phương pháp và thực hành có thể
nói một cách khách quan, khảo cổ học Việt Nam còn xa mới đạt được trình độ
ngang tầm thế giới tiên tiến, bất chấp rất nhiều nỗ lực cá nhân và nỗ lực tập
thể.
Bước
chân vào khoa học, bất cứ là ngành khoa học nào mỗi người nghiên cứu cần phải
trang bị cho mình những hành trang tối thiểu về kỹ năng, về lý thuyết và phương
pháp, đối với khảo cổ học, cả lý thuyết và cả thực tế đều có tầm quan trọng như
nhau, không thể làm khảo cổ học nếu chỉ có lý thuyết suông cũng như không thể
làm khảo cổ học nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm thực tế! Đa phần sách về lý thuyết
và phương pháp nghiên cứu khảo cổ học bằng tiếng Ρháp và tiếng Anh, với trình độ
ngoại ngữ hạn chế, trang bị kiến thức triết học hạn hẹp, do vậy lý thuyết và
phương pháp luận trở thành một thách thức lớn đối với những người nghiên cứu khảo
cổ Việt Nam, hiện nay hơn lúc nào hết khảo cổ học một khoa học liên ngành, hiện
đại, nhiều tiềm năng và rất dễ hội nhập, giao lưu với thế giới. Khảo cổ học hiện
nay sử dụng rất nhiều tiến bộ mới nhất của khoa học công nghệ: phần mềm xử lí,
máy đo đạc, công nghệ gen, ADN, kĩ thuật 3D… Người làm khảo cổ cần rất nhiều kĩ
năng, từ vẽ, sử dụng bản đồ đến chụp ảnh, quay video, xử lí máy tính… Khai quật
chỉ là một công đoạn, quan trọng hơn là cách xử lí, đánh giá thông tin thu nhận
để cho ra những kết luận giá trị, bởi vậy người làm khảo cổ cần kiến thức nền rất
rộng, cả kiến thức về khoa học xã hội nhân văn và khoa học tự nhiên và càng tốt
nếu người ấy có cả thiên hướng am hiểu về nghệ thuật, công nghệ, kĩ thuật.
Mọi
nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn hiện nay đều theo xu hướng đa/liên ngành,
tuy nhiên nếu so sánh với một số ngành khoa học lịch sử và nhân học khác khảo cổ
học – từ đối tượng đến mục tiêu nghiên cứu của mình thì nhu cầu và sự cần thiết
của việc phải sử dụng các tri thức và phương pháp liên ngành xã hội nhân văn, kỹ
thuật, tự nhiên, công nghệ cấp thiết và ở mức độ cao hơn rất nhiều. “khảo cổ học
là ngành khoa học cần và không ngừng có sự cập nhật với các tiến bộ khoa học kỹ
thuật hiện đại để mở rộng và nâng cao nội dung và chất lượng nghiên cứu; với cả
xu hướng mới về tin học hóa, hiện đại hóa các hoạt động điền dã – giám định
nghiên cứu khảo cổ học trong chừng mức có thể ứng hợp được”.
Điều quan trọng nhất là phải xây dựng được chiến lược và định hướng đúng đắn,
khả thi cho việc phát triển ngành khảo cổ Việt Nam: Hiện đại về lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu; Khách quan, chính xác về kết quả nghiên cứu; Thiết thực,
Cập thời đáp ứng nhu cầu phát triển của dân tộc, đất nước và Hòa dòng với Khảo
cổ học Thế giới.
Tài
liệu dẫn
Bulkin V.A, Leo S.Klejn,
G.S.Lebedev 1982, Attainments and Problems of Soviet Archaeology, World
Arrchaeology, Vol.13, No.3, Regional Traditions of Archaeological research II
(Feb., 1982), 272-295.
Hà Văn Tấn 1996, Bài giảng
chuyên đề sau đại học ″Các Trường phái Khảo cổ học Hiện đại″, Tư liệu lưu ở Bảo
tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH & NV, Hà Nội.
L S Klejn 2012, ″Soviet
Archaeology: Trends, Schools, and History″ (translated by R Ireland and K
Windle), Oxford: Oxford University Press (Oxford Studies in the History of
Archaeology Series).
Lâm Thị Mỹ Dung 2011,″
Liên ngành trong nghiên cứu khảo cổ học -Từ lý thuyết đến ứng dụng″, in trong Kỷ
yếu HTKH ″SỬ HỌC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ TOÀN CẦU HÓA: NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN”, Nxb.ĐHQG Hà Nội 2011, từ trang 190 đến trang
207.
Ludomir R. Lozny (chủ
biên) 2017, Archaeology of the Communist Era, Sringer.
Nguyễn Tôn Kiểm 2013, ″Tản
mạn đôi điều nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Khảo cổ học″, in trong ″45 năm
Viện Khảo cổ học (1968-2013)″, Nxb KHXH, Hà Nội.
Phạm Đức Mạnh 2001, ″Sự
tiến triển của nền Khảo cổ học Dân tộc và một số vấn đề liên quan đến công tác
đào tạo chuyên gia hiện đại″, in trong “Khoa học Xã hội và Nhân văn bước vào
thế kỷ XXI”, NXB Tp. HCM, 2001, tr.141-158
Phạm Đức Mạnh 2008, ″Sử
liệu khảo cổ học dưới góc độ lưu trữ, khám phá và khai thác chuyên sâu″ in trong
“Đổi mới nghiên cứu và giảng dạy lịch sử”, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, năm
2008, tr.202.
Sarunas Milisauskas 2015,
″A Russian Perspective on Theoretical Archaeology: The Life and Work of Leo S.
Klejn. Stephen Leach″, Walnut Creek, CA: Left Coast Press.
Tống Trung Tín 2013, Viện
Khảo cổ học Việt Nam 45 năm thành lập và phát triển, in trong 45 năm Viện Khảo
cổ học (1968-2013), Nxb KHXH, Hà Nội.
Ρhạm Văn Đồng 1969, ″Bài
nói tại Hội nghị Nghiên cứu Thời kỳ Lịch sử Hùng Vương″, Tạp chí Khảo cổ học số 1.
Bài in trong sách “Ảnh hưởng
của trường phái Xô-viết trong nhân học ở Việt Nam”. Nguyễn Văn Sửu (chủ biên),
Nxb ĐHQG Hà Nội 2019, tr.131-148.
GS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung
Trưởng Bộ môn Khảo cổ học,
Khoa Lịch sử
Giám đốc Bảo tàng Nhân học
Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG
Hà Nội.
336 Nguyễn Trãi, Thanh
Xuân, Hà Nội.