The
Origin and Spread of Early-Ripening Champa Rice:
It’s
Impact on Song Dynasty China
Randolph Barker
Rice
(2011) 4:184–186, DOI 10.1007/s12284-011-9079-6, Springer.
Nguồn
gốc và sự lan truyền của lúa Champa chín sớm:
Ảnh
hưởng của lúa loại này đến Nhà Tống Trung Hoa.
Tóm
tắt
Thường bị bỏ qua là tầm
quan trọng của các giống lúa chính sớm với khả năng thoát khỏi hạn hán, tránh
lũ lụt và ở một số địa phương mở ra cơ hội cho việc canh tác hai vụ. Hầu hết
các giống trồng ở vùng nhiệt đới cho đến nửa thế kỷ qua đã trưởng thành từ 150
đến 180 ngày hoặc lâu hơn và nhạy cảm với ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, các giống
100 ngày không nhạy cảm với ánh sáng mặt trời đã được trồng ở Vương quốc Champa
nhiều thế kỷ trước đây ở miền Trung Việt Nam. Làm thế nào các giống này được
chuyển vào Trung Quốc thời Nhà Tống, và
tác động của lúa chín sớm lên sự gia tăng dân số ở Nam Trung Quốc đã được ghi lại
trong nhiều tài liệu. Tuy nhiên, nguồn gốc của các giống láu Champa không rõ
ràng. Theo kết quả phân tích ADN gần đây (xem bên dưới), các giống Champa thuộc
một phân nhóm của nhóm aus. Nhóm aus
có đặc điểm của cả indica và japonica và có nguồn gốc từ các vùng đồi
của những gì bây giờ là miền Đông Ấn Độ, Bangladesh, và Myanmar. Vì Vương quốc
Chămpa tiếp nhận ngôn ngữ và tôn giáo của Ấn Độ, ít nhất là ở mức độ vương triều,
nên có vẻ hợp lý để cho rằng lúa gạo Champa phải đã được phổ biến từ các vùng đồi
núi ở tiểu lục địa Ấn Độ tới miền Trung Việt Nam và tới Phúc Kiến là điểm đầu
tiên của Trung Quốc và sau đó là khu vực Dương Tử trong thời nhà Tống vào thế kỷ
thứ mười một.
Từ
khoá
Lúa
chín Sớm. Các giống lúa Aus.Vương quốc Champa. Triều đại nhà Tống
Nền
tảng
Nguồn gốc và sự lan toả
của giống lúa Champa đã diễn ra cách đây nhiều thế kỷ khi các giống gạo thường
được nông dân lựa chọn và phát triển vì sự phù hợp với tình hình môi trường cụ
thể. Điều này sẽ bao gồm sức đề kháng hoặc linh hoạt đối với áp suất phi sinh -
nhiệt độ (nóng hoặc lạnh), lũ lụt, hạn hán, độ mặn. Mục tiêu là đảm bảo những biện
pháp an ninh lương thực, khi mà ở phần lớn châu Á, gạo đã trở thành thực phẩm
chính. Nhưng những tiến bộ cải tiến giống đã qua là con dao hai lưỡi nhằm tạo
thuận lợi cho an ninh lương thực và giảm nghèo trong một thời gian ngắn, nhưng
vô tình làm chất xúc tác để tăng dân số. Gần đây, con đường rõ ràng để tăng sản lượng
lúa gạo là thông qua việc áp dụng các giống năng suất cao hiện đại, cùng với việc
mở rộng hệ thống tưới tiêu và sử dụng nhiều hơn các hóa chất - phân bón, thuốc
diệt cỏ, thuốc trừ sâu. Điều này đã dẫn đến cuộc cách mạng được gọi là cuộc
cách mạng xanh ở Châu Á, khi Châu Á bị đe dọa bởi một vụ bùng nổ dân số sau Thế
chiến Tuy nhiên, một phần là do những lo ngại về sự nóng lên toàn cầu, hiện nay
người ta chú ý đến các giống sẽ hoạt động tốt trong các môi trường đa dạng như đã được tìm thấy trong các khu vực chưa được
tưới nước, chiếm khoảng một nửa diện tích trồng lúa Châu Á. Các giống được tìm
thấy trong những khu vực này được gọi là vùng cao. Chúng đang tiếp xúc với nhiều
yếu tố bất lợi như căng thẳng phi sinh
được nêu ở trên. Tưởng là nghịch lý, nhưng điều này đưa chúng ta đến câu chuyện
về cây lúa Champa đã xảy ra hàng thế kỷ trước.
Thời
nhà Tống Trung Quốc (960-1279AD)
Công nghệ nông nghiệp ở
Bắc Trung Quốc phát triển đi trước các khu vực khác của Trung Quốc. Thực tế là
từ thế kỷ thứ 4 trở đi, đã có một cuộc di cư về phía nam, đặc biệt là vào khu vực
Dương Tử (Hồ 1956). Sự mở rộng nhanh chóng của canh tác lúa ở phía đông nam
Trung Quốc được hỗ trợ bởi việc sản xuất các dụng cụ bằng sắt. Các nhân tố quan
trọng cho việc mở rộng và cải thiện canh tác lúa là kiểm soát nước, nông cụ, động
vật kéo, phương pháp trồng trọt, kiểm soát cỏ dại và côn trùng, tuyển chọn giống,
và trên hết là đổi mới con người (Chang 2000).
Sự phát triển liên tục
của diện tích trồng lúa đã dẫn tới một cuộc cách mạng trong nông nghiệp không
giống như cuộc cách mạng xanh hiện đại. Đối mặt với tình trạng gia tăng dân số
gây áp lực lên đất, các vị hoàng đế nhà Tống thời kỳ đầu đã nhắc nhở người dân
nhiều lần để cải thiện cây lương thực và thử nghiệm những cây mới (Ho 1956). Có
một đợt hạn hán nghiêm trọng ở khu vực thung lũng sông Dương Tử và sông Hoài và
ở khu vực lúa gạo phía đông và tây Chiết Giang vào năm 1012. Hoàng đế Zhenzong
(992-1022) biết rằng gạo Champa có khả năng chịu hạn, chín sớm và không nhạy cảm
với ánh sáng mặt trời (Sharma 2010) (có nghĩa là, sự chín của lúa không được
xác định bởi ngày dài hoặc thời gian của ánh sáng mặt trời). Các phái viên đặc
biệt đã được gửi tớiTỉnh Phúc Kiến để mua 30.000 giạ hạt giống và phân phát cho
nông dân trong các vùng hạn hán cùng với các hướng dẫn của chính phủ về phương
pháp canh tác thích hợp (Ho 1956). Lúa này đã đến Trung Quốc từ Vương quốc
Chămpa tại miền trung Việt Nam. Không ai biết được chính xác khi nào lúa gạo
Champa đến Phúc Kiến. Một số người nói đó là vào đầu thế kỷ thứ tám, nhưng từ
năm 1012 trở lại đây, lúa gạo Champa bắt đầu nhận được sự quan tâm rộng rãi ở
Trung Quốc (Hồ 1956).
Giống lúa Champa, vì không giống như các giống
phổ biến thời đó, nên lúc đầu cho năng suất thấp hơn hầu hết các giống truyền
thống của Trung Quốc. Tuy nhiên, nông dân đã lựa chọn và phát triển các giống
có năng suất cao để trồng ở những cánh đồng đất thấp được tưới tiêu tốt (Bray
1986).
Vương
quốc Champa (từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XV)
Cư dân Champa là con
cháu của những người định cư Malayo-Polonyesian đến lục địa từ Borneo vào khoảng
thế kỷ thứ hai trước Công nguyên (Thurgood 1999). Ngôn ngữ của họ là một phần của
nhóm ngôn ngữ Austronesian Nam Đảo và theo một nghiên cứu họ có liên quan gần
nhất với nhóm người Achenese hiện đại (Thurgood 1999). Họ cũng là những người
buôn bán trên biển.
Có rất nhiều cuộc thảo
luận trong văn liệu về ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Champa, những vương quốc được
gọi là Ấn Độ Hoá như Champa và các quốc
gia khác ở Đông Nam Á. Hall (1981) cảnh báo, tuy nhiên, sự truyền bá của ngôn
ngữ và tôn giáo thường được giới hạn trong tầng lớ vương triều và không ảnh hưởng
nhiều đến văn hóa bản địa. Các vua và hoàng gia Chama đã tiế nhân Phạn ngữ và
Hindu giáo và sau đó là các tôn giáo Phật giáo. Nhưng những gì được ghi lại bởi
các nhà sư hoặc được phát hiện bởi các nhà khảo cổ học phải được coi là một mẫu
thiên vị. Cuộc sống trần tục của nông dân, bao gồm làm thế nào để dân số tự kiếm
sống, không phải là một chủ đề được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, như thường nói,
thông qua thương mại hoặc bằng các phương tiện khác, công nghệ lúa gạo do người
nông dân phát triển trong nhiều thế kỷ ở miền Nam Trung Quốc lan một phần vào
Đông Nam Á (Ho 1956). Vào những năm 1960, hầu hết nông dân trồng lúa Philippine
đều sử dụng bừa nhiều răng của Trung Quốc
để làm đất ruộng cấy lúa. Bừa bằng trâu nước kéo về cơ bản giống hệt nhau, bừa được sử dụng
trong triều đại nhà Tống giống thời Hậu Hán (từ 200 TCN đến 220 AD) (xem Bray
1984).
Lúa Champa là giống aus (Sweeney et al.2007, xem bản đồ
e133). Ho (1956) ghi nhận rằng có một câu hỏi đáng kể trong văn liệu về việc liệu
lúa Champa có nguồn gốc vùng cao hoặc vùng đất thấp. Ông nói rằng vấn đề phức tạp
đến nỗi "bất kỳ câu trả lời rõ ràng nào cũng có vẻ" không thể. Lúa
vùng cao có nhiều yếu tố bất lợi có thể không tìm thấy ở đồng bằng, trong điều
kiện đồng ruộng. Chúng bao gồm các áp lực phi sinh học như hạn hán, lũ lụt, đất
xấu và nhiệt độ (IRRI 1975). Một số giống vùng cao đã thích ứng với những điều
kiện bất lợi này.
Vài tháng trước, tôi đã
hỏi Susan McCouch, nhà trồng trọt và nhà nhân giống cây trồng ở Cornell, xem cô
có biết về lúa Champa. Cô ấy nói sẽ tìm trong ngân hàng gen của cô. Một vài
ngày sau, cô nói rằng đã tìm thấy một giống
lúa Champa, chạy thử DNA, và nói rằng đó là một giống aus. Aus là một trong năm
quần thể nhỏ của Oryza sativa - Bốn
loài khác là indica, japonica ôn đới,
japonica nhiệt đới, và thơm
(Kovach và cộng sự, 2007). Trong khi tương tự như indica, các giống aus có
các đặc điểm khác rõ ràng như khả năng chịu hạn và không nhạy cảm với ánh sáng
mặt trời.
Việc phát hiện ở trên
trả lời hai câu hỏi quan trọng. Thứ nhất, di truyền học hiện đại đã trả lời câu
hỏi mà học giả Ho nửa thế kỷ trước đó đã không thể trả lời. Nghĩa là lúa Champa
là một giống lúa vùng cao. Thứ hai, sự phân bố của aus có nguồn gốc từ vùng cao của vùng Đông Ấn Độ, Bangladesh và
Myanmar (Sweeney et al.2007). Những loại lúa Champa này hầu như chắc chắn phải
được phát triển lần đầu tiên ở miền đông Ấn Độ rồi tìm đường về phía đông vào
những vùng đồi núi thuộc miền Trung Việt Nam ngày nay và sau đó là phía bắc đến
Phúc Kiến và sau đó là khu vực Dương Tử của Trung Quốc.
Ảnh
hưởng của lúa chín sớm ở Trung Quốc
Theo Ho (1956), việc
đưa giống lúa Champa vào Trung Quốc và mối quan tâm của hoàng đế nhà Tống về việc
tiếp nhận giống lúa này đã khiến cho những giống lúa chín sớm này trở nên phổ
biến. Perkins (1969) và Zeng (1998) đặt ra câu hỏi về ván đềnày, Zeng cho rằng
các giống hsien (indica) trong nước
không phổ biến rộng rãi phù hợp hơn với vùng đồng bằng trong khi lúa Champa phù
hợp hơn với vùng cao nguyên. Ho (1956) thừa nhận rằng sự khác biệt giữa lúa giống
hsien bản xứ và lúa giống champa mới đưa vào ngày càng giảm theo
thời gian, đến độ rằng vào thời Minh (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII), thì các
thuật ngữ (tên gọi các giống lúa) đã trở nên giống nhau.
Tuy nhiên, có một sự nhất
trí chung là tăng sản lượng gạo thông qua cả ở việc tạo ruộng bậc thang ở vùng
cao và mở rộng canh tác hai vụ ở vùng đất thấp được tưới nước giải quyết được vấn
đề an ninh lương thực một cách cấp thời, nhưng lại khuyến khích di cư và tăng
dân số ở các vùng trồng lúa ở miền Nam Trung Quốc.
Phần
cuối
Không cần nói quá lên về
tầm quan trọng của các tính trạng có trong các giống lúa aus như chín sớm. Garris và
cộng sự (2005) lưu ý rằng mặc dù các chủng loại aus đã nhận được ít sự chú ý hơn so với japonica hoặc indica
trong các chương trình nhân giống, Chịu hạn và chín sớm là những đặc điểm thích
nghi có thể hữu ích trong các ứng dụng sinh trưởng.
Trong nửa thế kỷ qua,
cuộc cách mạng xanh đã dẫn tới sự gia tăng sản xuất lúa gạo một cách nhanh
chóng, đặc biệt là ở các vùng đất thấp được tưới tiêu tốt, ít nhất là tạm thời
giải quyết vấn đề an ninh lương thực ở Châu Á. Giống đầu tiên trong số các giống
cây trồng 100 ngày trưởng thành của vùng đất thấp nhiệt đới IR36 đã được Viện
nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IAEA) công bố năm 1976. Trong khi một số người hoan
nghênh việc IR 36 đã được áp dụng rộng
rãi, các nhà khoa học khác lo ngại rằng việc thiếu sự đa dạng trong các tế bào
chất gây ra một nguy cơ về sự bùng phát dịch bệnh và côn trùng. Ngoài ra có một
nghịch lí, vì công nghệ này đã bị khai thác triệt để nên an ninh lương thực lại
trở thành mối quan tâm.
Vì những lý do trên và
khi chúng ta bước vào kỷ nguyên khan hiếm nước ở nhiều nước Châu Á và đang quan
tâm đến sự thay đổi khí hậu, các nhà khoa học đang chú ý nhiều đến sự phát triển
của các giống tốt trong điều kiện môi trường bất lợi. Hiện nay, việc nghiên cứu
các gen có thể cho phép các giống gạo chịu đựng được các áp lực phi sinh học
như hạn hán, lũ lụt và nhiễm mặn. Các giống vùng cao như những loài được tìm thấy
trong quần thể aus cho thấy một nguồn
tiềm năng cho các gen như vậy. Nói tóm lại, những đặc điểm của lúa gạo ngày nay
mà những người nhân giống hiện nay tìm kiếm cũng giống như những người nông dân
và hoàng đế thời Tống Trung Quốc từng tìm kiếm.
References
Tài liệu dẫn
Bray F. Agriculture.
Vol. VI Part 2. In: Needham J, editor. Science and civilization in China.
Cambridge: Cambridge University Press; 1984.
Bray F. The rice
economies: technology and development in Asian Societies. Oxford: Basil
Blackwell Ltd.; 1986.
Chang T-T. Rice,
economic and biological importance. In: Kiple KF,Ornelas KC, editors. The
Cambridge world history of food. Cambridge: Cambridge University Press; 2000.
Garris AJ, Tai TH,
Coburn J, Kresovich S, McCouch S. Genetic structure and diversity in Oryza
sativa L. Genetics. 2005;169:1631–8.
Hall DGE. History of
South-East Asia. New York: St. Martin’s Press; 1981.
Ho P-T. Early-ripening
rice in Chinese history. Economic History Review New series. 1956;9(2):200–18.
International Rice
Research Institute. Major research in upland rice. Annual report. Los Banos:
IRRI; 1975.
Kovach MJ, Sweeney MT,
McCouch SR. New insights into the history of rice domestication. Trends Genet.
2007;23(11):578–87.
Perkins D. Agricultural
development in China 1368–1968. Chicago: Aldine; 1969.
Sharma SD. Rice:
origin, antiquity, and history. Enfield: Science Publishers; 2010.
Sweeney MT, Thompson
MJ, Chou YG, Park YJ, Williamson SH, Bustamante CB, McCouch SR. Global
dissemination of a single mutation conferring white pericarp in rice. PLoS
Genet. 2007;3 (8):e133.
Thurgood G. From
ancient cham to modern dialects. Honolulu: University of Hawaii Press; 1999.
Zeng X. Huang-lu rice
in Chinese history. Agric Archaeol. 1998;3:292– 311.
Lâm Thị Mỹ Dung dịch
Khi đọc và dịch bài này, có mấy vấn đề không rõ cần suy nghĩ
1. Đó là mẫu của giống
lúa Champa, mà nhà di truyền học Susan McCouch ở Cornell chạy thử DNA và xác định thuộc giống aus được thu thập thời gian nào và vùng nào của Champa để đưa ra kết luận giống lúa Champa là lúa vùng cao khi mà địa hình của vương quốc này rất đa dạng và không thiếu những đồng bằng màu mỡ và có hệ thống tưới tiêu tốt.
2. Lúa vụ Chiêm của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ được tin là do nhập của Champa và vì thế nên có tên gọi Chiêm gắn với Chiêm Thành có đặc tính chín sớm và ít nhạy cảm với ánh sáng hay không