Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2019

Nghiên cứu về vai trò của giới qua tư liệu khảo cổ học


Nghiên cứu về vai trò của giới qua tư liệu khảo cổ học

(Lâm Thị Mỹ Dung - Trường Đại học KHXH & NV- ĐHQG Hà Nội viết năm 1994)

Lý thuyết và Phương pháp tiếp cận
Trong một vài thập kỷ qua, đặc biệt với sự xuất hiện của trường phái “Khảo cổ học mới”, vấn đề giới/giới tính thể hiện qua các tài liệu khảo cổ học trở thành chủ đề nghiên cứu của nhiều học giả (xem Sarah Milledge Nelson và Myriam Rosen-Ayalon 2001; Kathleen M. Bolen 2004; Cheryl Claassen 2004....). Hàng loạt vấn đề về phương pháp luận, cách tiếp cận... được đặt ra cùng với những định đề và phản đề.
Trường phái “Khảo cổ học mới” lý luận rằng không thể tìm hiểu cuộc sống con người trong quá khứ nếu chỉ đặt vấn đề một cách đơn thuần  về cơ cấu xã hội hay phương thức kiếm sống. Nếu như trong những năm 60, người ta chú trọng quá mức tới cấu trúc xã hội mà điển hình là tìm hiểu loại hình  cư trú hay mộ táng, thì các nhà khảo cổ học của những thập kỷ 70, 80 với thái độ kiên trì bền bỉ đã tìm cách để giải giới (de-gendered) và giải hoá (de-cultured) quá khứ. Đại diện tiêu biểu của kiểu tiếp cận này là Barbara Bender, người đã nhắc chúng ta từ năm 1985 (1985:52) rằng chúng ta đã loại bỏ “cả tính riêng biệt của lịch sử  và cả những điểm cốt yếu của cấu trúc xã hội để ủng hộ cho một mẫu số sinh thái chung được cho là đúng”.
Động thái chung  của  những hoạt động giải-giới, thậm chí giải- cư trú được tiến hành bởi ba nguyên nhân: 1. Bản thân vấn đề giới của mỗi cá nhân không phải là vấn đề quan trọng trong nghiên cứu. 2. Sự thừa nhận về giới xem ra không có lý do xác đáng và 3. Người điều tra nghiên cứu tin rằng tất cả mọi (hay cả hai) giới của xã hội đều thực hiện các hoạt động xã hội như nhau.
Từ góc độ phương pháp luận có hai vấn đề nổi bật. Thứ nhất là sự hiểu biết chung của chúng ta về sự khác nhau giữa khảo cổ học về giới và khảo cổ học theo thuyết nam nữ bình quyền, thứ hai là mức độ nhận thức khác nhau xét từ góc độ khảo cổ học về giới.
Đối với đa số những người theo thuyết nam nữ bình quyền thì sự khảo sát địa vị của giới “nam” hay “nữ” trong quá khứ .được xem là vấn đề chính, trong khi vấn đề giới tính- điều kiện sinh học, và giới- điều kiện văn hoá (một sự phân chia đã được nhiều nhà nhân học chấp nhận xét từ khía cạnh khảo cổ học) thì lại được nhận biết khá khác nhau.
Nghiên cứu về giới trong khảo cổ học nói riêng và nhân học nói chung xuất phát từ  những vấn đề cơ bản sau: Chức năng xã hội của giới; vai trò xã hội của giới; mối quan hệ của giới, phân công lao động của giới và lý thuyết “đàn ông-săn bắt- người chế tạo công cụ”, “đàn bà-hái lượm-người mẹ”. Sự phức tạp và đa dạng của văn hoá nhân loại đã làm đảo lộn nhiều kết luận và định đề từng được coi là kinh điển, đặc biệt là quan điểm thô sơ và rất rạch ròi về phân định giới cho tất cả mọi xã hội, gắn giới/giới tính với từng hoạt động kinh tế văn hóa với từng loại công cụ lao động và từ đó là các mối quan hệ trong lao động.
 Sự phát triển trên thực tế cực kỳ phức tạp , đa dạng, đa tuyến, và không thể áp dụng cho tất cả một hoặc vài mô hình cứng nhắc, những mô hình dù được xem là lý tưởng thưòng dẫn đến hiện tượng thấy cây mà không thấy rừng hoặc ngược lại.
Theo R.Lowie, những nghiên cứu so sánh nhân học cho thấy sự phân công lao động theo giới tính, trong một chừng mực lớn mang tính ước lệ, nghĩa là nó không gắn chút nào với đặc điểm sinh lý của hai giới. Tùy vào những quy tắc hiện hành ở các bộ lạc (thậm chí hai bộ lạc sống gần nhau cũng rất khác nhau và ngược lại) và luôn luôn có những ngoại lệ (Lowie 2001: 102-103). Tuy vậy một cách khái quátưngời ta vẫn có thể chấp nhận quan điểm lâu đời và phổ biến mà theo đó phụ nữ sáng tạo ra nghề làm vườn còn đàn ông thuần hóa gia súc. Vấn đề duy nhất mà người ta cần lưu ý là sự phân công theo quy ước các công việc cho từng giới. Sự phân công còn phụ thuộc vào vô số các yếu tố khác như lớp tuổi (đối với những người độc thân), theo tâm lý, theo khả năng đặc biệt của từng cá nhân cụ thể, theo niềm tin, theo thói quen, theo truyền thống... Cũng thế, đôi khi người ta nói quá nhiều đến vai trò của kinh tế mà không hiểu rằng nhân tố kinh tế chỉ là một trong những nguyên nhân tác động đối với cương vị giới. Cũng theo những nghiên cứu so sánh văn hóa ( cross cultural researches), có những bộ tộc hoàn toàn khác biệt nhau lại có chung những quan niệm giống nhau về phụ nữ.  
Xã hội loài người từ thời nguyên thủy đến nay không phải là một trạng thái đồng nhất buồn tẻ, mà là một khối đa dạng nhiều màu sắc. Dòng chảy của bước vận động văn hóa, quả thực, không tùy thuộc vào một yếu tố duy nhất, mà là từ  cả phức hệ những yếu tố gắn liền với nhau và bởi vì những yếu tố này không phải là đều là một, và không thể là như thế khi biết rằng sự khác biệt của những trung tâm văn hóa, một khi có trước vận động nào đó nảy sinh, hầu như không tránh khỏi dẫn đến những biến dạng. 
Nghiên cứu về giới trong khảo cổ học sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau như tiếp cận so sánh dân tộc học, nghiên cứu xương của mộ táng, văn bản cổ, nghệ thuật và huyền/thần thoại và nghiên cứu so sánh sinh lý học và động vật học...
Mỗi cách tiếp cận trên đây đều có hai mặt tích cực và hạn chế và  trong sự phát triển của xã hội loài người luôn luôn tồn tại những ngoại lệ. Xét từ góc độ hiện vật khảo cổ học mà nói, trên đại thể rìu và mũi tên có thể gắn với đàn ông, làm gốm bằng tay, dệt có thể liên quan chặt chẽ hơn với giới nữ. Nhưng không phải đơn giản như vậy, nếu chúng ta tính đến những hoàn cảnh bất bình thường như chiến tranh chẳng hạn thì cái bình thường sẽ trở nên bất bình thường và ngược lại, theo kiểu thời bình đàn ông cày ruộng, đàn bà cấy hái còn thời chiến đàn bà sẽ phải thực hiện mọi công đoạn từ cày bừa đến cấy hái. Do vậy cái cày không chỉ là công cụ của nam theo tiêu chuẩn phân công lao động theo giới. Đấy là chưa tính đến những công cụ trung tính được cả hai giới và nhiều lớp tuổi sử dụng như dao hay kéo chẳng hạn. Đôi khi các nhà khảo cổ học rất ấu trĩ khi áp dụng tư duy hiện đại để giải thích sự khác biệt giới của chủ nhân một số mộ táng qua số lượng và loại hình đồ trang sức. Trong xã hội nguyên thủy, đồ trang sức không chỉ đơn thuần để làm đẹp mà chúng thường đa chức năng (trang sức, ma thuật, khác người...), trong đó chủ yếu để thể hiện vị thế xã hội của chủ nhân. Nhiều trường hợp, người nam được chôn theo nhiều đồ trang sức cả về số lượng và chất lượng hơn người nữ.  Sẽ thật sai lầm nếu áp dụng một cách máy móc sự phân công lao động theo giới dựa vào kiểu dáng công cụ đối với những nghệ nhân thủ công. Trong trường hợp đặc biệt này vai trò chung của giới tính, sự khác biệt tầng lớp, hay thậm chí những lĩnh vực hoạt động chuyên biệt, chứ không phải sự khác nhau về giới sẽ là những yếu tố quyết định. 
Cách tiếp cận so sánh dân tộc học đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu vai trò của giới trong xã hội quá khứ. Tuy vậy, các xã hội lại cực kỳ đa dạng và mỗi xã hội cũng có những qui luật riêng biệt. Có sự biến đổi rất lớn từ phương Đông sang phương Tây, từ xã hội chăn nuôi là ngành kinh tế chủ đạo sang xã hội mà hái lượm là hoạt động kinh tế chính, từ những xã hội công nghiệp sang xã hội nông nghiệp, hay ngay cả bên trong những xã hội cùng chủng loại. Những tư  liệu khảo sát gần đây nhất của chúng tôi tại thôn Cổ Lũy, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, một thôn cửa sông ven biển và cư dân có nghề khai thác thủy/hải sản sống ở vùng nước lợ quanh năm rất nổi tiếng là don và hến cho thấy có sự chuyên hóa nhất định ngay cả trong chỉ một ngành đánh bắt/hái lượm sản vật tự nhiên và vai trò nắm giữ kinh tế gia đình của phụ nữ. Do đặc điểm của việc khai thác nên đàn ông gắn chặt với công cụ nhủi don, còn đàn bà thì đi cào hến, cả hai loại công cụ làm bằng chất liệu thực vật này đều do đàn ông đan lát. Việc buôn bán tuy vậy nằm trong tay đàn bà và như thế họ dĩ nhiên đóng vai trò tay hòm chìa khóa trong gia đình.
 
Giới qua nghiên cứu Nghệ thuật thời Tiền sử:
Khái niệm tiền sử (prehistory) dùng để chỉ một thời kỳ rất dài trong diễn trình văn hóa nhân loại khi chưa có chữ viết, bao gồm hai thời đại đá cũ và đá mới từ cách đây vài triệu năm đến khoảng thiên niên kỷ 2 trước công nguyên.
Trước khi Homo Sapiens và Nghệ thuật xuất hiện, loài người đã trải qua 4 triệu năm tiến hóa. Như vậy nghệ thuật mới chỉ tồn tại trong khoảng 1% gần đây của kỷ nguyên loài người. Ngay từ đầu, cần phải xua tan những quan niệm sai lầm về nguồn gốc của nghệ thuật. Nghệ thuật không sinh ra từ một trực cảm bất chợt mà là kết quả của sự phát triển dần từng bước các năng lực nhận thức của con người. Nguồn gốc của nghệ thuật lại ít nhiều trùng hợp với những biểu hiện đầu tiên của một số năng lực đặc bệt của con người: tư duy trừu tượng và hình tượng hóa, truyền tin, và ý thức về bản thân. So với thủy tổ của con người trước kia, đây không chỉ là một sự tiến hóa mà là một cuộc cách mạng thực sự-cuộc cách mạng nghệ thuật, bước ngoặt lớn trong tiến hóa tư duy con người. Mặc dù có  một số người đã cố chứng minh rằng loài khỉ và vượn người đều có khả năng sản sinh ra nghệ thuật, song những giả thuyết này đều không có căn cứ khoa học. Sự hình thành các bản sắc Homo Sapiens của loài người chúng ta theo các nhà nhân học đòi hỏi phải có được toàn bộ những chức năng chuyên môn hóa và những thuộc tính riêng như: biết nhìn, nghe và cảm nhận với một sự minh mẫn và một cách thức hoàn toàn đặc biệt của những sapiens (người tinh khôn), tất nhiên trí tuệ của những sapiens cũng đã được di truyền theo ký ức từ phân bộ người đến người.
Dường như về mặt trí tuệ, Homo Sapiens khi sinh ra đã có năng lực sản sinh ra văn hóa và từ đó là dạng đặc biệt của văn hóa tức là nghệ thuật. Do vậy một số người đã đề nghị thay khái niệm Homo Sapiens, Homo Sapiens Sapiens (tức hai lần tinh khôn) thành Homo Cultural (con người văn hóa) hay Homo intellectualis (con người có trí tuệ) cho chính xác hơn.    
Đặc điểm của nghệ thuật thời tiền sử theo các nhà nghiên cứu là sự thống nhất của chủ đề và kỹ thuật với tính đa dạng đáng kinh ngạc về biểu tượng trong những nền văn hóa và thời kỳ khác nhau (Denis Vialou 1998: 17). Tính thống nhất về chủ đề và kỹ thuật của các nền nghệ thuật tiền sử đã phản ánh sự giống nhau tương đối của những lối sống và các nền kinh tế tiền sử hoàn toàn hướng về thiên nhiên, tuy nhiên điều này không thể che lấp tính đa dạng tuyệt diệu về hình tượng.
Nghệ thuật thời tiền sử có mặt hầu như ở khắp mọi vùng trên Trái đất, từ miền nhiệt đới cho đến Bắc cực, trên những địa hình cực kỳ đa dạng, từ hang động dưới lòng đất cho đến đỉnh núi cao. Nghệ thuật thời này gắn liền với ma thuật, tín ngưỡng...Theo các nhà nghiên cưú, nghệ thuật thời đại băng giá cuối cùng phục vụ cho các hoạt động ma thuật, gắn liền với săn bắt và sinh sản. Sau thời kỳ này nghệ thuật đi theo đường hướng "nhân văn" và cảm hứng bắt nguồn từ một quan niệm thần bí về các mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.
Việc giải thích ý nghĩa biểu tượng của các hình tượng nghệ thuật thời tiền sử trên thực tế cực kỳ phong phú đa dạng và hầu như không khác tình hình phê bình nghệ thuật đương đại mà chúng ta gặp trong sách báo hiện nay. Ví dụ về nghệ thuật hang động thời đá cũ hậu kỳ chẳng hạn:  Một số người gắn nền nghệ thuật này với ma thuật săn bắn/bắt, số khác cho rằng đây là một phần của nghi lễ khai tâm, cũng có nhà nghiên cứu lại xác định đó là một phần của toàn thể thế giới kết hợp những nguyên lý đực cái, theo kiểu nguyên lý âm dương sau này; trong khi đó vẫn tồn tại quan điểm những hình tượng đó thể hiện vật tổ của những bộ tộc và thủ lĩnh giàu có (B. Hayden 1993: 8).
Trong nghệ thuật đá cũ, phổ biến là những hình tượng giống cái, hình tượng phụ nữ. Đa phần các diễn giải truyền thống về các "Vệ nữ" nguyên thủy đều gắn với phồn thực, tình dục. Tuy vậy, có thể chấp nhận quan điểm hiện nay rằng hầu hết các "Vệ nữ" này không chỉ chuyển tải ý nghĩa về tình dục, mà hợp lý và biện chứng hơn là chúng thể hiện ý tưởng cơ bản về sự sinh sản, về tính liên tục của cuộc sống, ngoài ra sự phổ biến của hình tượng này ở nhiều vùng trên thế giới còn thể hiện quan điểm của con người trước hiện tượng mang thai, sinh sản, nuôi con như một hiện tượng tự nhiên kỳ bí. Theo Rice, những "Vệ nữ" châu Âu nguyên thủy thể hiện phụ nữ trong chu kỳ sống của họ. Hình tượng người nữ - người mẹ phóng chiếu qua bốn nhóm lớp tuổi sinh sản tức một dạng "tái sản xuất"theo trình tự sau: Tiền - Sinh sản Sinh sản và mang thai; Sinh sản và không mang thai; Hậu- Sinh sản (Rice1981).
Hình tượng Bà Mẹ -Đất phổ biến khắp thế giới trong nghệ thuật thời đại đá mới thường được cho là liên quan đến mẫu hệ-mẫu quyền mặt khác gắn bó chặt chẽ một cách hữu cơ với tín ngưỡng nông nghiệp được hình thành một cách đa dạng ngay từ khởi đầu của cuộc cách mạng đá mới. Những hình tượng nữ thần phổ biến rộng khắp bán đảo Ban Căng thời Đá mới được diễn giải như là những hình tượng về vị thế quan trọng và quyền lực của người phụ nữ. Tuy vậy, lại có ý kiến phản bác điều đó, theo phái này có sự không nhất quán giữa thực tế kinh tế- xã hội với những đề tài huyền thoại- lý tưởng chính. Đôi khi chính năng lực sinh sản thần bí của con người và tự nhiên quyết định những biểu tượng văn hóa mà không liên quan trực tiếp đến vị thế của bất cứ một giới sinh học rạch ròi nào. Sự  vượt trội về số lượng nữ thần trong lịch sử trung đại Việt Nam có lẽ cũng cần được xem xét một cách cẩn trọng hơn là cách diễn giải đơn giản về sự tái hồi nguyên lý Mẹ của văn hóa Việt Nam bản địa.

Thay kết luận
Tất cả những diễn giải lý thuyết và cụ thể nói trên hầu như chưa đề cập đến những khác biệt mang tính sinh học bẩm sinh giữa nam và nữ. Theo các nhà sinh học xã hội sự khác biệt giới cơ bản trong chiến lược sinh sản và giao phối mang tính di truyền. Trong khi các nhà khoa học xã hội ngược lại khá bi quan về sự tồn tại của khác biệt giới do di truyền, họ cho rằng những khác biệt về giới hiện tồn là kết quả từ những giá trị văn hóa. Dù chấp nhận hay chối bỏ bất cứ khuynh hướng nào trong cả hai kể trên, để giải quyết  chúng ta cần để ngỏ những điều nói trên cho những khảo sát thực nghiệm và thể nghiệm.   
Thiên hướng bẩm sinh của mỗi giới cũng cần được tính đến cùng vơí xu hướng chính trị của mỗi xã hội và liệu ngoài hai chế độ mẫu / phụ hệ trong lịch sử còn có chế độ thứ ba trung gian nào không và liệu chỉ hiện nay chúng ta mới có phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữ hay không. Đó là những vấn đề  mà khảo cổ học cần tham khảo tư liệu của nhiều các ngành khoa học khác nếu muốn đạt được kết quả khách quan (ở mức độ có thể).
Riêng đối với khảo cổ học Việt Nam, cho tới nay giới chưa bao giờ được đặt ra để nghiên cứu, thậm chí chỉ ở mức độ điểm qua về tên gọi hay khái niệm.

Tài liệu tham khảo

Sarah Milledge Nelson và Myriam Rosen-Ayalon 2001. In Pursuit of Gender: Worldwide Archaeological Approaches. Gender and Archaeology Series. Walnut Creek: AltaMira Press.
Kathleen M. Bolen 2004. Prehistoric Construction of Mothering. Html
Cheryl Claassen 2004. Gender in Archaeology. Html
Lowie R. 2001. Luận về xã hội học nguyên thủy. NXB ĐHQG. Hà Nội
Barbara Bender 1986. The Roots of Inequality. Paper presented at the World Archaeology Conference. Southampton, England
Denis Vialou 1998. Nghệ thuật của bóng tối, nghệ thuật của ánh sáng. Tạp chí Người đưa tin UNESCO số 4.
B. Hayden 1993. Archaeology-the science of once and future things. W.H. Freeman and Company.
Patricia Rice1981. Prehistoric Venuses: Symbols of Motherhood or Womanhood? Journal of Anthropological Research 37.






Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2019

TÀI NGUYÊN DI SẢN VĂN HÓA TRONG BỐI CẢNH ĐƯƠNG ĐẠI (Thách thức, Khó khăn trong Bảo tồn và Phát huy Giá trị)


TÀI NGUYÊN DI SẢN VĂN HÓA TRONG BỐI CẢNH ĐƯƠNG ĐẠI
 (Thách thức, Khó khăn trong Bảo tồn và Phát huy Giá trị)

Lâm Thị Mỹ Dung, Chu Lâm Anh
(Trường ĐHKHXHNV, ĐHQG Hà Nội)
Nguyễn Anh Thư
(Đại học Văn hoá Hà Nội)
HTKH Hội nhập Quốc tế về Bảo tồn – Cơ hội và Thách thức cho các giá trị Di sản Văn hoá, 30.11.2018.
Bài đã in trong Kỷ yếu HTKHQT Hội nhập Quốc tế về Bảo tồn Cơ hội và Thách thức cho các giá trị Di sản Văn hóa, Nxb ĐHQG Thành phố HCM. ISBN : 978-604-73-6535-7. Tr.15-26

Tóm tắt
Coi Di sản Văn hóa là nguồn Tài nguyên xuất phát từ quan điểm đa giá trị của di sản và từ sự mở rộng nội hàm của khái niệm tài nguyên, không chỉ thiên nhiên mà cả văn hóa… Mọi thứ có thể thành tài nguyên cho mục đích nào đó trong những điều kiện nhất định và xu hướng trên thế giới hiện nay sử dụng khái niệm tài nguyên hay nguồn lực thay cho di sản hay tài sản và phát triển những cách tiếp cận/phương pháp mới để khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên này một cách bền vững cho hiện tại và tương lai và biến tài nguyên của mỗi dân tộc, tộc người trở thành nguồn tài nguyên chung của nhân loại cho phát triển hiện tại và tương lai.
Bối cảnh Đương đại trong bài viết, một mặt dùng theo nghĩa rộng để chỉ bối cảnh chung thế giới và Việt Nam trong đó bao hàm những vấn đề, những xu hướng hiện hành mà tất cả các tài nguyên di sản đang đối mặt như HIỆN ĐẠI HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ, TOÀN CẦU HOÁ, ĐÔ THỊ HOÁ, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, KINH TẾ THỊ TRƯỜNG..., mặt khác tuỳ từng bối cảnh cụ thể theo nghĩa hẹp hơn, mà trong đó, một hay vài những thứ trên tác động tích cực hay tiêu cực đến di sản ở các mức độ khác nhau.
Tài nguyên Di sản ở Việt Nam phong phú và đa dạng phản ánh diễn trình lịch sử và văn hoá của nhiều cộng động người theo thời gian, theo không gian. Những tài nguyên di sản này hiện đang được bảo tồn và phát huy về mặt lý thuyết theo các công ước, hiến chương quốc tế và luật quốc gia. Tuy nhiên, giống như nhiều nước đang phát triển khác, tài nguyên di sản trong bối cảnh đương đại phải đối mặt với những: Xung đột lợi ích; Sự thiếu hụt kiến thức đa ngành của cả ba nhóm: người nghiên cứu, người quản lý và người thực hành; Sự bất cập giữa luật, công ước và thực tiễn thực thi; Sự không đồng bộ giữa nghiên cứu đánh giá giá trị với bảo tồn; Sự thiếu thống nhất trong quan điểm về triết lý bảo tồn, đánh giá giá trị.... dẫn đến nhiều tài nguyên di sản biến mất trước khi được biết đến, nhiều tài nguyên khác chưa được quan tâm đúng mức và vì vậy chưa được phát huy giá trị một cách hữu hiệu và bền vững.
Từ khóa: Bảo tồn, Bối cảnh Đương đại, Tài nguyên, Tài nguyên Di sản, Phát huy giá trị, Phát triển Bền vững…

Bài viết toàn văn
1.     Tài nguyên di sản
1.1. Tính đa diện, đa dạng, đa loại của tài nguyên di sản
Di sản văn hoá là những tài sản chắt lọc từ quá khứ, là kết quả của các hoạt động sống vật chất và tinh thần của con người. Di sản thiên nhiên môi trường là kết quả thành tạo của địa chất, tự nhiên kết hợp tác động của con người. Do vậy, về bản chất di sản có tính đa dạng rất lớn. Quan điểm hiện nay về di sản rộng hơn và sâu hơn so với trước đây, trước hết di sản không chỉ là những tài sản do thế hệ trước để lại chủ yếu mang ý nghĩa tinh thần và tâm linh, mà di sản được xác định là nguồn lực, là tài nguyên đa giá trị cả về tự nhiên, văn hóa, xã hội, con người… đối với phát triển xã hội. Tài nguyên di sản chứa đựng cả những giá trị quá khứ, giá trị hiện hành và tương lai. Theo Hiệp hội Nghiên cứu Tài nguyên Văn hóa Nhật Bản: “Tài nguyên văn hóa là dữ liệu quan trọng giúp chúng ta hiểu xã hội và văn hóa của xã hội ấy một cách tốt hơn tại một thời điểm nhất định. Tài nguyên văn hóa bao gồm cả vật thể và phi vật thể, cả những thứ không thể cất giữ trong các bảo tàng như công trình lịch sử, phong cảnh đô thị, nghệ thuật trình diễn truyền thống, lễ hội… Đáng tiếc, nhiều những tài nguyên văn hóa này đã không được phát huy đúng cách. Chúng ta cần phải biến những tài nguyên này thành những nguồn lực cho hiện tại và cho tương lai. Nghiên cứu tài nguyên văn hóa mở ra một lĩnh vực mới phát huy tài nguyên văn hóa trong phát triển văn hóa của con người và cho nghiên cứu khoa học”[1]
Theo cách nhìn về di sản hiện nay như trong Chiến lược EU 2020: ″Di sản được coi là khái niệm phức hợp, liên tục phát triển qua thời gian và kết hợp không chỉ những chiều kích lịch sử, văn hoá, thẩm mỹ, biểu trưng, tinh thần mà cả kinh tế, xã hội và chính trị” [2]. Theo nội hàm mở rộng như thế di sản bao gồm một chuỗi rộng những địa điểm khảo cổ, công trình, hiện vật, truyền thống và văn hoá, nhưng không chỉ là những di tích, di chỉ, di vật kế thừa từ quá khứ mà còn là những khía cạnh khác của sáng tạo và biểu hiện của con người thậm chí như ảnh, tư liệu, ký ức, sách, dụng cụ, thị trấn và những địa điểm thiên nhiên, cả vật thể và phi vật thể, thì nghiên cứu đánh giá di sản không chỉ để bảo quản, khai quật, trưng bày hay phục hồi tu bổ hay bảo tồn và bảo vệ biểu trưng, tinh thần và ký ức quá khứ… mà nghiên cứu di sản hiện nay được xác định như những hoạt động liên ngành mang lại những tác động đáng kể về kinh tế và xã hội. Ngày nay, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm mới về bảo tồn di sản – gọi là “bảo tồn tích cực”, nghĩa là đưa di sản vào phục vụ cuộc sống. Các di sản phải được bảo vệ, tôn tạo và tổ chức giới thiệu rộng rãi cho công chúng biết[3].
1.2. Giá trị đa diện của của tài nguyên di sản
Những năm gần đây đã có những thay đổi đáng kể trong tư duy về phát triển, bên cạnh ba trụ cột kinh tế, môi trường và xã hội, càng ngày người ta càng nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hoá như nhân tố quan trọng đảm bảo trường tồn tính bền vững, văn hoá được xem là nền tảng của phát triển bền vững. ″Về mặt nhận thức, phát triển bền vững được hiểu là khả năng phát triển kinh tế liên tục và lâu dài mà không làm cạn kiệt, không gây hậu quả tai hại tới môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá – xã hội. Mục tiêu đó quy định, trong quá trình phát triển, chúng ta cùng một lúc/đồng thời quan tâm tới việc duy trì, tái tạo, bảo vệ và phát huy hai loại tài nguyên/hai nguồn vốn của phát triển là thiên nhiên và văn hoá″[4]. Bảo tồn, phát huy giá trị của di sản, coi di sản như nguồn tài nguyên vô giá và vô tận (nếu biết cách gìn giữ và khai thác một cách khoa học) được coi là giải pháp cơ bản phục vụ phát triển bền vững.
Sự khác biệt văn hoá luôn có sức hút và ở nhiều quốc gia trên thế giới, di sản không chỉ đem lại nguồn lợi không nhỏ trong tổng thu nhập, mà còn có vai trò lớn trong việc quảng bá hình ảnh quốc gia. Tổ chức Du lịch Thế giới ước tính 37% du lịch toàn cầu xuất phát từ động lực mong muốn tìm hiểu văn hóa. Mối liên hệ quan trọng giữa xã hội và di sản văn hóa được thể hiện rõ nét trong du lịch di sản văn hóa. Khách du lịch di sản văn hóa đi thăm nhiều nơi hơn gấp 2 lần những khách du lịch khác, ở lại mỗi nơi lâu hơn 2,5 lần và họ cũng chi tiêu nhiều hơn[5]. Có nhiều ví dụ trên thế giới về những quốc gia mà phát huy giá trị di sản đóng góp trên dưới 10% GDΡ hàng năm, Italia là một trong những thí dụ điển hình về du lịch di sản, mỗi năm nước này thu hút trên 50 triệu khách quốc tế và chỉ riêng ngành du lịch đã đem lại nguồn thu gần 170 tỷ USD (xấp xỉ 85% tổng GDΡ của Việt Nam năm 2016)[6].
Bảo tồn di sản đem lại nhiều giá trị: văn hóa, thẩm mỹ, giáo dục, môi trường, xã hội, lịch sử cùng nhiều giá trị khác như kinh tế, phúc lợi xã hội…. Europa Nostra, Liên minh các nhóm Bảo tồn Di sản châu Âu, trong một tài liệu mang tên Cultural Heritage Counts for Europe đã ghi chú: “Di sản văn hóa mang lại nhiều lợi ích cho châu Âu ngày nay”, nhiều lợi ích trong số đó thuộc về kinh tế. Ở châu Âu, phục hồi di sản tạo ra nhiều hơn 16,5% việc làm so với xây dựng mới, và mỗi công việc trực tiếp trong lĩnh vực di sản văn hóa tạo ra 26,7 việc làm gián tiếp khác. Con số này trong ngành công nghiệp xe hơi chỉ là 6,3:1[7]. Ρhát huy giá trị di sản trên nguyên tắc ″sẻ chia văn hoá″ từ năm 1991 đến nay, bắt nguồn từ Ρháp, “Những ngày Di sản châu Âu” đã được tổ chức hàng năm vào tuần thứ ba của tháng 9 với các mục đích mở rộng khả năng tiếp cận di sản cho mọi đối tượng, đẩy mạnh khía cạnh sự kiện trong đời sống văn hóa và phân quyền trong thực hiện các chính sách văn hóa. Trong mỗi đợt tổ chức, bên cạnh những hoạt động thu hút công chúng đến với các loại hình di sản, các cuộc thảo luận về vấn đề di sản được tổ chức đồng thời, không chỉ đề cập đến vấn đề lịch sử mà về cả các khía cạnh pháp lý hoặc kỹ thuật (chẳng hạn như vấn đề trùng tu, hiện đại hóa hay chuyển đối công năng). “Những ngày Di sản châu Âu” mang lại hiệu quả hết sức đa dạng: kinh tế, xã hội và cộng đồng. Sự kiện này đặc biệt có tác động tới sự phát triển cảm giác gắn bó của cộng đồng với các địa danh ở nhiều cấp độ khác nhau (khu vực, thành phố, vùng, quốc gia). Hiện chưa có nghiên cứu đánh giá tác động được thực hiện nhưng một nghiên cứu được tiến hành năm 2009 về hiệu quả kinh tế của di sản đã phân biệt rõ những hiệu quả trực tiếp (bán vé, việc làm…), gián tiếp và đi kèm (các dịch vụ đi kèm như kinh doanh nhà hàng quanh các địa danh, du lịch văn hóa…). Quả thực di sản tạo thuận lợi cho cả một “hệ sinh thái” rộng hơn lĩnh vực du lịch với tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư rất tốt. Tại Pháp, người ta ước tính với 900 triệu Euro mà Bộ Văn hóa chi phí cho di sản sẽ cho phép thu về từ 500 triệu đến 2 tỷ Euro[8].
1.3. Tài nguyên di sản Việt Nam
Việt Nam có kho tàng di sản văn hóa khổng lồ (gần 40 ngàn di sản vật thể, 60 ngàn di sản phi vật thể, trong số đó UNESCO công nhận 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới[9], 7 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại[10], 2 di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp[11], 4 di sản tư liệu[12], gần 3000 di tích được xếp hạng quốc gia, 7.500 di tích cấp tỉnh cùng gần 8.000 lễ hội, trong đó hơn 3.000 lễ hội dân gian thể hiện rõ bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Luật Di sản Văn hoá Việt Nam khẳng định ″Di sản văn hoá Việt Nam là một bộ phận của Di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta″[13]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá VIII đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiệm vụ thứ 4 là bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá ″Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá.″[14]. Những giá trị to lớn mà di sản đem lại không chỉ làm phong phú đời sống tinh thần cho con người và xã hội mà còn chứa đựng các tiềm năng kinh tế, các giá trị vật chất. Sức hấp dẫn của di sản đã tạo động lực cho phát triển du lịch mang lại nhiều lợi ích về thu nhập, việc làm và phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Thật vậy, di sản ngày nay đã trở thành tài sản, tài nguyên đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và trở thành một bộ phận của ngành công nghiệp sáng tạo (công nghiệp văn hoá). Những hoạt động phát huy giá trị di sản các loại đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, xã hội[15]. Chỉ từ năm 2014 đến 2015 ngành du lịch đã đóng góp 6% GDΡ của cả nước, trong đó phải kể đến vai trò chủ đạo của các di sản văn hóa và di sản thiên nhiên ở Việt Nam[16]. Với những vai trò của mình, việc nhận diện đúng đắn các giá trị di sản cũng như tổ chức thực hành di sản, giúp cho giá trị di sản trở nên hữu dụng, đáp ứng nhu cầu xã hội, và yêu cầu phát triển bền vững là vô cùng cấp thiết nhằm tạo lập sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
2.     Bối cảnh Đương đại và Tài nguyên Di sản
2.1. Biến đổi Xã hội với Di sản
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đầy thách thức đối với các nước đang phát triển trong vấn đề phát triển kinh tế bên cạnh việc bảo tồn văn hóa truyền thống, di sản văn hóa của dân tộc. Trong mối quan hệ đa chiều về văn hóa ngày càng mạnh mẽ giữa các quốc gia, di sản văn hóa Việt Nam chịu nhiều tác động cả bên trong lẫn bên ngoài.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trước hết, giúp tăng cơ hội tiếp cận, trao đổi, giao lưu và làm giàu vốn hiểu biết sâu rộng về các nguồn tài nguyên văn hóa, tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia, mỗi khu vực,. Thêm vào đó, sự nổi lên của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 khiến cho việc tìm hiểu, đánh giá về tài nguyên di sản của các quốc gia vượt qua những ranh giới địa lý với nhiều loại hình và cách tiếp cận thông tin sống động và đa dạng.
Những quá trình trên đồng thời làm nảy sinh các thách thức nhất định trong việc duy trì bản sắc quốc gia, dân tộc trước những nguy cơ tiềm tàng của việc du nhập và lai căng văn hóa cũng như khai thác vượt quá ngưỡng chịu đựng các nguồn tài nguyên văn hoá và thiên nhiên từ các hoạt động du lịch, phát triển kinh tế không bền vững. Sản xuất nông nghiệp kiểu thâm canh và sản xuất hàng hóa nông nghiệp, chuyển đổi mô hình nhà ở nông thôn gây biến hình phong cảnh cùng với đô thị hoá bùng nổ kéo theo, di cư tăng nhanh và sự phân phối không đồng đều các nguồn lực tạo nên áp lực ngày càng tăng của xã hội dân sự đối với di sản[17]. Bài học từ Bali (Indonesia) là một dẫn chứng cụ thể và là lời cảnh báo về sự biến mất gần như hoàn toàn văn hóa bản địa nếu phát triển du lịch không kiểm soát; hay vấn đề Di sản văn hóa thế giới Cố đô Authaya (Thái Lan) đang phải đối mặt trong bối cảnh du lịch tấn công và làm biến đổi các giá trị căn bản của di tích khiến chính phủ Thái Lan buộc phải lựa chọn giữa bảo tồn di sản văn hóa hay phát triển kinh tế… Vịnh Hạ Long (Việt Nam) cũng đã nhiều lần đứng trước nguy cơ vượt khỏi tầm kiểm soát theo tiêu chí và tiêu chuẩn của Công ước Bảo tồn Di sản thế giới bởi các hạng mục kinh tế và du lịch phát triển ồ ạt làm thay đổi cảnh quan và môi trường nghiêm trọng ở Hạ Long… Điều này đòi hỏi những định hướng, giải pháp trong việc quản lý và khai thác giá trị di sản văn hóa ở mỗi địa phương. Quan trọng hơn cả là cần nhận biết được giá trị di sản, xác định được vai trò của di sản trong đời sống đương đại và có ứng xử phù hợp với nó.
Tại hội nghị của ICOMOS Dublin 2010, bốn vấn đề lớn về quan hệ giữa di sản với biến đổi xã hội hiện nay đã được đặt ra, đó là i. Di sản của những cộng đồng đang biến đổi, đang phát triển; ii. Di cư, di dân và di sản bản địa; iii. Di sản tôn giáo; iv. Các tác động xã hội của biến đổi khí hậu toàn cầu. ″Khi các cộng đồng trên thế giới nhận ra tầm quan trọng của di sản văn hoá, những phân tích cho thấy một số kết quả bất ngờ, gồm sự xuất hiện của các tiêu chí mới về di sản, sự hội tụ ngày càng tăng giữa di sản phi vật thể và phi vật thể, và nhu cầu ngày càng lớn đối với các chuyên gia bảo tồn truyền thống để chia sẻ thẩm quyền ra quyết định với những cá nhân và nhóm có mối quan hệ chặt chẽ với một địa điểm di sản cụ thể. Các nhiệm vụ bảo tồn còn phức tạp hơn do các hiện tượng toàn cầu hoá về văn hoá và kinh tế, đô thị hoá bùng nổ, các đợt di cư và sự phân phối không đồng đều các nguồn lực cùng với ảnh hưởng ngày càng tăng của xã hội dân sự đối với di sản″[18].
Những thay đổi trong quan điểm về di sản mà trong đó đặc biệt là mối liên quan giữa di sản với những thay đổi về môi trường, xã hội và chính trị cả mặt tích cực và cả mặt hạn chế dẫn đến những thay đổi trong cách thức bảo tồn và phát huy giá trị và nhu cầu cấp thiết của nghiên cứu liên ngành tìm ra những giá trị cốt lõi và những biến đổi mang tính thời đại để đưa ra chính sách và công cụ thực hành thích hợp đối với di sản trong thế kỷ 21.
2.2. Tài nguyên Di sản Việt Nam trong bối cảnh xã hội đương đại:
Đối với Việt Nam, nguồn tài nguyên di sản đang đứng trước những thách thức lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ chế thị trường. Quá trình đổi mới đất nước, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ chế thị trường, toàn cầu hoá, biến đổi khí hậu tác động ngày càng mạnh mẽ đến các di sản văn hoá, đặt di sản văn hoá đứng trước những thử thách khốc liệt. Điều đó thể hiện qua sự xuống cấp của nhiều di sản văn hoá vật thể; Nhiều di sản phi vật thể bị mai một lãng quên trong khi nhiều loại hình nghệ thuật mới được du nhập vào nước ta, thu hút ngày càng nhiều sự quan tâm của công chúng, nhất là giới trẻ; Không gian cảnh quan kiến trúc di sản bị xâm hại do những yếu kém, tồn tại cố hữu trong quá trình trùng tu, tôn tạo di tích; Việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên di sản thiên nhiên trong khi chưa quan tâm đầy đủ đến tính hài hòa và bền vững về mặt môi trường và xã hội. Những điều này đã và đang đặt ra các thách thức cho việc phát triển các nguồn tài nguyên di sản một cách bền vững, đặc biệt là trong công tác quản lí, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Việt Nam - quốc gia có đa dạng các nguồn tài nguyên di sản từ vật thể, phi vật thể và tự nhiên.
Có thể khái quát về những huỷ hoại của từng loại hình di sản trên những mặt sau:
Đối với di sản vật thể: Xuống cấp, huỷ hoại hoàn toàn hay từng phần do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân khách quan khí hậu, môi trường thời tiết khắc nghiệt, khó lường, chiến tranh, xung đột tôn giáo, tín ngưỡng, đứt gãy truyền thống do những quan điểm sai lầm của một giai đoạn lịch sử, nhiều công trình tôn giáo bị phá huỷ một cách cố ý. Hiện nay mức độ huỷ hoại nhanh hơn do chưa có quy hoạch đồng bộ giữa cái cần bảo tồn với xây dựng mới. Môi trường thiên nhiên truyền thống của một số khu di sản bị biến dạng, Nhiều không gian hoạt động tại di sản văn hóa, không gian lễ hội bị phá vỡ, hoặc thu hẹp lại (đình, chùa bị phá hoại trong chiến tranh, các con đường hành lễ, các địa điểm sinh hoạt lễ hội, không gian văn hóa bị chia cắt do việc xây dựng mở mang các đô thị, khu công nghiệp…). Bên cạnh đó, bảo tồn không đúng cách dẫn đến làm mới di tích, hiện tượng hoành tráng hoá di tích làm mất di tích... Quan điểm bảo tồn trái ngược nhau, kinh phí bảo tồn ít và chi tiêu chưa hợp lý, thất thoát, lãng phí và có cả những trường hợp tham những... Chưa có đội ngũ làm công tác trùng tu chuyên nghiêp và đồng bộ.
Đối với di sản phi vật thể: Nhiều di sản đang bị mai một, thất truyền, xu hướng bị pha tạp gia tăng, nghệ nhân dân gian giữ bí quyết và truyền bá văn hóa dân tộc cũng chưa được đề cao và tạo điều kiện phát huy một cách đúng mức, đặc thù của di sản văn hóa phi vật thể là tồn tại trong trí nhớ, được lưu truyền chủ yếu bằng con đường truyền miệng và biến đổi rất nhanh. Đối với di sản phi vật thể, những biến đổi thường nhanh hơn, mạnh hơn nhưng lại rất khó nhận biết cả bằng cách định tính và định lượng[19]. Chủ thể của di sản có nhiều thay đổi do di dân, do đô thị hoá và công nghiệp hoá... dẫn đến mối tương tác và tình yêu và trách nhiệm đối với di sản suy giảm, nhiều tri thức bản địa biến mất hoàn toàn.
Đối với di sản thiên nhiên: Tác động của gia tăng dân số, của khai thác vô tội vạ môi trường tự nhiên, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học và đặc biệt là chưa có nghiên cứu đánh giá một cách khoa học về tác động của biến đổi môi trường tự nhiên đến các di sản thiên nhiên để từ đó có những sách lược ứng phó phù hợp và khả thi.
Trong bối cảnh hiện nay của Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, Đô thị hoá, Toàn cầu hoá và Biến đổi Khí hậu thì những thách thức chính đối với bảo tồn và phát huy giá trị Di sản có thể liệt kê như sau:
1.      Xung đột lợi ích, trước hết là xung đột lợi ích trong cách đánh giá giá trị của di sản. Di sản đang tồn tại trong một xã hội có rất nhiều xung đột lợi ích diễn ra. Những lợi ích này nhiều khi trái ngược nhau đến mức một bên lựa chọn di sản thì bên kia lựa chọn loại bỏ di sản (được biện minh bằng thuật ngữ phát triển). Có thể thấy để xây dựng và phát triển, nhiều tập đoàn kinh tế lớn, nhỏ cả của tư nhân, cả của nhà nước, trong nước và nước ngoài đã bất chấp Luật Di sản hiện hành và Công ước Quốc tế, xây dựng những công trình mới mà không có bất cứ khảo sát điều tra nào. Bằng cách đó di sản vật thể biến mất, môi trường di sản biến mất, di sản phi vật thể hoặc bị biến dạng hoặc cũng dần bị triệt tiêu. Xung đột không chỉ giữa kinh tế với văn hoá, mà xung đột còn hiện hữu giữa cộng đồng chủ thể của di sản với các nhà quản lý, với các nhà nghiên cứu.... Có một nghịch lý càng ngày càng có nhiều những khu đô thị, thương mại lớn do các tập đoàn lớn như Vin Group, FLC, Sun Group... xây dựng nhưng ngày càng ít những khu vực được khảo sát khai quật khảo cổ học thực thi luật Di sản trước khi xây dựng. Đây là thực trạng chung không chỉ ở Việt Nam mà phổ biến ở các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Sự bành trướng của các tập đoàn kinh tế giàu có, sức cám giỗ của các dự án bất động sản hứa hẹn những món lợi nhuận khổng lồ khiến nhiều địa phương bất chấp các giá trị văn hóa và tài nguyên cảnh quan thiên nhiên cần được bảo tồn, giữ gìn tính nguyên vẹn. Xung đột lợi ích trong mỗi cộng đồng cư dân ở ngay trong di sản thế giới hay quốc gia cũng đặt ra rất nhiều thách thức, việc di chuyển dân cư cũng như hình thành những cụm dân cư mới và sự thay đổi không gian sinh sống của các tộc người, các nhóm người đã có tác động không nhỏ đế biến đổi những di sản phi vật thể. Ngay như ở Hội An, nơi được coi là điển hình tiên tiến của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản thì những thay đổi về khía cạnh phi vật thể thực sự đáng để chúng ta quan tâm giải quyết... Xung đột giữa ba nhóm người nghiên cứu di sản- người quản lý - và người thụ hưởng tức cộng đồng ngày càng gia tăng phản ánh qua ví dụ đòi trả lại danh hiệu như ở Đường Lâm...
2.   Triết lý về bảo tồn không nhất quán, đặc biệt là sự tranh cãi về tính chân thực của di sản. Với khái niệm này, một số học giả quốc tế, đặc biệt ở các nước nói tiếng Anh, như Herbert, Tunbridge và Ashworth, Hitchcock,… không cho rằng tính chân thực của di sản, trong đó có những di sản văn hóa phi vật thể, lại quá quan trọng trong việc quản lý và phát huy di sản trong khi đối với nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam khái niệm chân thực và khái niệm gốc còn được hiểu một cách cứng nhắc. Sự không nhất quán này dẫn đến những quan điểm trái ngược trong bảo tồn, quản lý và phát huy giá trị di sản. Mặc dù coi văn hoá là động lực phát triển xã hội nhưng do sự không nhất quán trong triết lý bảo tồn, không chấp nhận giá trị kinh tế của di sản, không nhận thức được về các mục đích đa dạng của phát huy giá trị di sản và chỉ nhìn nhận di sản ở góc nhìn văn hóa dẫn đến những sai lầm trong cách thức quản lý và phát huy di sản.
3.   Thiếu hụt kinh phí, bảo tồn trùng tu và phát huy di sản hầu như chỉ dựa vào ngân sách nhà nước, kinh phí ít và nhiều trường hợp không được sử dụng một cách hiệu quả. Công tác xã hội hoá phụ thuộc vào lợi ích của các tập đoàn kinh tế, của các nhóm tổ chức xã hội vì thế xảy ra hiện tượng ″nước chảy chỗ trũng″, bên cạnh đó khi đã nhận kinh phí xã hội hoá thì thường sẽ phải đáp ứng những yêu cầu của người cấp tiền và những yêu cầu đó không phải lúc nào cũng đúng Luật Di sản, cũng phù hợp với các tiêu chí khoa học.
4.     Mặc dù quá trình toàn cầu hoá có những tác động tích cực đối với làm giàu giá trị văn hoá, làm phong phú thêm loại hình và tính chất của di sản và kích thích sự phát triển các hoạt động bảo tồn di sản như một nhu cầu gìn giữ quá khứ ngày một lớn, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế lẫn tăng cường hình ảnh văn hóa quốc gia nhưng trên thực tế, do chưa có những chiến lược tổng thể và dài hơi về đề kháng văn hoá nên chưa chắt lọc được những cái hay từ bên ngoài và gạt bớt những cái dở. Tại những di sản mang danh hiệu Di sản Thế giới, tác động của Toàn cầu hóa mạnh hơn và tạo ra nhiều thách thức hơn. Môi trường phát huy di sản thay đổi do cần có nhiều phương thức thu hút du khách, thực hành di sản kiểu của khách du lịch, sân khấu hóa, thương mại hóa… dẫn đến di sản dễ bị biến dạng, biến đổi.
5.     Nhà nước có nhiều chính sách và giải pháp tháo gỡ những bất cập và khó khăn trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị tài nguyên di sản, tuy vậy trong một số trường hợp, sự can thiệp của chính quyền và sự thụ động của cộng đồng địa phương đã dẫn đến di sản bị tách ra khỏi cộng đồng và biến thành xa lạ, cộng đồng nghiễm nhiên coi những công việc liên quan đến di sản là việc của nhà nước, của chính quyền. Hiện tượng di sản hóa di sản, hội chứng “Di sản Thế giới”  cũng dẫn đến sự biến dạng tính chất của di sản.
6.     Cũng như vậy đối với tác động của biến đổi khí hậu, mặc dù nhận thức của chúng ta rất rõ ràng rằng Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu nhưng những chiến lược và chính sách đưa ra mới chỉ chú ý đến khía cạnh kinh tế, chưa thực sự chú ý đến xây dựng kế hoạch và chiến lược từ góc độ văn hoá đối phó với biến đổi khí hậu, toàn cầu hoá ...[20].
7.     Đội ngũ người làm di sản từ nghiên cứu đến quản lý đến thực hành vẫn được đào tạo theo các chương trình đơn lẻ, nội dung chương trình đào tạo ít đổi mới, câp nhật những vấn đề hiện nay và cách xử lý vấn đề. Trong tất cả các bài viết, các nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực di sản, chương trình đào tạo, cách thức đào tạo, quan điểm đào tạo... đều được đánh giá là chưa đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay. Nguồn nhân lực vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chuyên môn và đặc biệt là tầm nhìn đơn ngành, những kiến thức được đào tạo chưa đủ để người thực hành di sản có những cách ứng xử thích hợp trong những hoàn cảnh biến đổi cụ thể. Đó cũng là lý do mà chính sách, chiến lược di sản không được triển khai một cách đầy đủ và đúng hướng.
8.     Công tác nghiên cứu đánh giá và thu thập thông tin chưa thực sự đi vào thực chất, còn nặng về giấy tờ, thủ tục... Chưa có những tiếp cận liên ngành đồng bộ trong đánh giá giá trị tài nguyên di sản để đưa ra những phương thức bảo tồn và phát huy giá trị phù hợp và khoa học.
*
*    *
Trước tác động bối cảnh đương đại toàn cầu hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa, biến đổi khí hậu, gia tăng xung đột… đối với các tài nguyên di sản, nhu cầu về nghiên cứu liên ngành và chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị bền vững các tài nguyên di sản này ngày bức thiết. Do đó, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và gìn giữ bản sắc văn hóa là vấn đề mang tính toàn cầu, được quan tâm ở hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam có thể học hỏi những bài học kinh nghiệm của các quốc gia để chọn lựa cách đi và hướng đi phù hợp.
Tất cả các nguồn tài nguyên di sản đều rất nhạy cảm trước/trong những hoàn cảnh chính trị, xã hội, kinh tế… đặc biệt. Việc khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên và văn hóa có thể khác nhau ở cách thức, công nghệ, mức độ… nhưng đều giống nhau, đặc biệt ở chỗ, nếu không có môi trường phù hợp sẽ dẫn đến hoang hóa, cạn kiệt. Tài nguyên văn hóa và thiên nhiên không phải “nồi cơm Thạch Sanh” để chỉ khai thác mà không tái tạo và sáng tạo những giá trị mới[21]. Để di sản tài nguyên phát huy trong phát triển bền vững trước hết cần nghiên cứu đánh giá trữ lượng, tìm hiểu những nhân tố tác động tới hiện trạng và tương lai của những tài nguyên từ cả góc độ khách quan và chủ quan, qua đó xây dựng kế hoạch bảo tồn và phát huy, đồng thuận nhiều mặt giữa bộ ba: đào tạo/nghiên cứu – quản lý- bảo tồn phát huy.  
Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2011 - 2020, Đảng ta nhấn mạnh: trong quá trình phát triển kinh tế xã hội phải coi trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Tài nguyên di sản trong bối cảnh xã hội đương đại sẽ trở nên vô tận và liên tục tái tạo nếu có những chiến lược thích hợp và nhiệm vụ của những người nghiên cứu, những người quản lý và cộng đồng là chung tay vì một xã hội “đa văn hóa” để tiến tới xã hội ‘sẻ chia văn hóa”.














Tài liệu tham khảo

Chu Lâm Anh (2017), Tác động của danh hiệu Di sản Văn hóa Thế giới đến bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Khóa luận Tốt nghiệp ngành Việt Nam học, Đại học Thăng Long, Hà Nội.
Đặng Văn Bài (2017), Ρhát triển bền vững hay phát triển cân đối/ hài hoà từ góc nhìn di sản văn hoá, in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội
Donovan D. Rypkema (2015), Bảo tồn di sản là cơ hội phát triển kinh tế, https://dothivietnam.org/2015/07/03/bao-ton-di-san-la-phat-trien-kinh-te/ truy cập ngày 4.10.2018.
ICOMOS (2010), Changing World, View of Heritage: Heritage and social change, Proceedings of the ICOMOS Scientific Symposium, Dublin, Ireland.
JeanPhilippe Rousse (2016), Những ngày Di sản châu Âu, DI SẢN VÀ DU LỊCH Bảo tồn di sản đồng hành cùng phát triển kinh tế, tọa đàm ngày 27/04/2016, Sở Quy hoạch – Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh.
Lâm Thị Mỹ Dung (2015), Tài nguyên Văn hóa – nguồn tài nguyên không vô tận, không tái tạo? (Một vài suy nghĩ về quản lý/phát huy giá trị tài nguyên Champa ở Khánh Hòa), in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam “Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản Lịch sử-Văn hóa phục vụ phát triển Du lịch” Nxb STQG, Hà Nội, tr. 148-162.
Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá năm 2009 (2017), https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-di-san-van-hoa-2009-sua-doi-32-2009-QH12-90620.aspx
Nghị quyết 03/NQ-TW Hội nghị lần thứ Năm, BCH TW Đảng khoá VIII
Nguyễn Quốc Hùng (2007), Tác động của thay đổi khí hậu đối với di sản văn hoá và thiên nhiên – những vấn đề đặt ra, tạp chí Di sản Văn hoá số 4 (21), tr. 21-27.
Nguyễn Văn Tuấn (2015), Du lịch Việt Nam hành trình 55 năm thành lập và phát triển, Tạp chí Du lịch của Tổng cục Du lịch, số 7/2015, tr.6-7.
Rizzo và Mignosa cb (2013), Hanbook on the economics of cultural heritage, Edward Elgar Ρublishing.
Shinji Yamashita (2010), Cultural Heritage in the Age of Globalization: A Pespective from the Anthropology of Cultural Resource, in trong Working Papers “Cultural Resource Studies Asian Linkage Building Seminar 2010”, Kanazawa University, Japan, tr. 7.
Tổng cục Du lịch (2015), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản phục vụ chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 20130, in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam “Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản Lịch sử-Văn hóa phục vụ phát triển Du lịch” Nxb STQG, Hà Nội, trang 23.
Vũ Minh Giang (2017), Bảo tồn và Ρhát huy giá trị di sản văn hoá trong chiến lược phát triển bền vững: Những vấn đề đặt ra, in trong in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội.


Thông tin tác giả:
1.     GS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung
Chủ nhiệm Bộ môn Khảo cổ học Khoa Lịch sử
Giám đốc Bảo tàng Nhân học
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam.
Email. bebimkch@gmail.com, đt 01239038292.
2.     TS. Nguyễn Anh Thư
Giảng viên Khoa Di sản Văn hóa – Đại học Văn hóa Hà Nội
418 La Thành, Đống Đa, Hà Nội
ĐT: 0977867337
3.     CN. Chu Lâm Anh
Cán bộ nghiên cứu, Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội
Tầng 3,4 nhà D, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Học viên Sau đại học chương trình: “Cultural Resource Management”, Đại học Kanazawa, Nhật Bản.


[1] Shinji Yamashita (2010), Cultural Heritage in the Age of Globalization: A Pespective from the Anthropology of Cultural Resource, In Working Papers “Cultural Resource Studies  Asian Linkage Building Seminar 2010”, Kanazawa University, Japan, pp. 7.
[2] Rizzo và Mignosa cb (2013), Hanbook on the economics of cultural heritage, Edward Elgar Ρublishing. 
[3] Tổng cục Du lịch (2015), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản phục vụ chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2030, in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam “Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản Lịch sử-Văn hóa phục vụ phát triển Du lịch” Nxb STQG, Hà Nội, tr. 23.
[4] Đặng Văn Bài (2017), Ρhát triển bền vững hay phát triển cân đối/ hài hoà từ góc nhìn di sản văn hoá, in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội
[6] Vũ Minh Giang (2017), Bảo tồn và Ρhát huy giá trị di sản văn hoá trong chiến lược phát triển bền vững: Những vấn đề đặt ra, in trong in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội.
[7]Donovan D. Rypkema  (2015),  Bảo tồn di sản là cơ hội phát triển kinh tế,
[8]JeanPhilippe Rousse (2016), Những ngày Di sản châu Âu,  DI SẢN VÀ DU LỊCH - Bảo tồn di sản đồng hành cùng phát triển kinh tế, tọa đàm ngày 27/04/2016, Sở Quy hoạch kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh.
[9]Bao gồm: Quần thể di tích Cố đô Huế (1993), Vịnh Hạ Long (1994, 2000), Đô thị cổ Hội An (1999), Khu đền tháp Mỹ Sơn (1999), Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (2003), Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long (2010), Thành nhà Hồ (2011) và Quần thể danh thắng Tràng An (2014).
[10]Bao gồm: Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Huế (2008), Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2008), Quan họ Bắc Ninh (2009), Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (2010), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ (2012), Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ (2013), Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh (2014).
[11]Bao gồm: Ca trù (2009) và hát Xoan Phú Thọ (2011)
[12]Bao gồm: Mộc bản triều Nguyễn (2009), bia đá các khoa thi tiến sỹ triều Lê và Mạc (2011), Mộc bản kinh phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm (2012) và Châu bản triều Nguyễn (2014).
[13] Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá năm 2009 (2017), https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-di-san-van-hoa-2009-sua-doi-32-2009-QH12-90620.aspx
[14] Nghị quyết 03/NQ-TW Hội nghị lần thứ Năm, BCH TW Đảng khoá VIII
[15] Chỉ tính riêng năm 2017, Quần thể di tích cố đô Huế, đón 3 triệu lượt khách du lịch, trong đó 1,8 triệu khách du lịch quốc tế, thu được 320 tỷ đồng riêng từ vé tham quan; Phố cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng riêng từ vé tham quan. Tổng thu du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ năm 2010 lên 510.000 tỷ năm 2017, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp (Nguồn: http://cinet.vn/di-san/di-san-van-hoa-voi-phat-trien-du-lich-353248.html)
[16] Nguyễn Văn Tuấn (2015): Du lịch Việt Nam hành trình 55 năm thành lập và phát triển, Tạp chí Du lịch của Tổng cục Du lịch, số 7/2015, tr.6-7.
[17] ICOMOS (2010): Changing World, View  of Heritage: Heritage and social change,  Proceedings of the ICOMOS Scientific Symposium, Dublin, Ireland.
[18] ICOMOS (2010): Changing World, View  of Heritage: Heritage and social change,  Proceedings of the
ICOMOS Scientific Symposium, Dublin, Ireland.
[19] Chu Lâm Anh (2017), Tác động của danh hiệu Di sản Văn hóa Thế giới đến bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Khóa luận Tốt nghiệp ngành Việt Nam học, Đại học Thăng Long, Hà Nội.
[20] Nguyễn Quốc Hùng (2007), Tác động của thay đổi khí hậu đối với di sản văn hoá và thiên nhiên – những vấn đề đặt ra, tạp chí Di sản Văn hoá số 4 (21), tr. 21-27.
[21] Lâm Thị Mỹ Dung (2015), Tài nguyên Văn hóa – nguồn tài nguyên không vô tận, không tái tạo? (Một vài suy nghĩ về quản lý/phát huy giá trị tài nguyên Champa ở Khánh Hòa), in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam “Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản Lịch sử-Văn hóa phục vụ phát triển Du lịch” Nxb STQG, Hà Nội, tr. 161.