Nghiên
cứu về vai trò của giới qua tư liệu khảo cổ học
(Lâm Thị Mỹ Dung - Trường Đại học
KHXH & NV- ĐHQG Hà Nội viết năm 1994)
Lý thuyết và Phương pháp tiếp cận
Trong một vài thập kỷ qua, đặc biệt
với sự xuất hiện của trường phái “Khảo cổ học mới”, vấn đề
giới/giới tính thể hiện qua các tài liệu khảo cổ học trở thành chủ đề nghiên
cứu của nhiều học giả (xem Sarah Milledge Nelson và Myriam Rosen-Ayalon 2001;
Kathleen M. Bolen 2004; Cheryl Claassen 2004....). Hàng loạt vấn đề về phương
pháp luận, cách tiếp cận... được đặt ra cùng với những định đề và phản đề.
Trường phái “Khảo cổ học mới” lý luận
rằng không thể tìm hiểu cuộc sống con người trong quá khứ nếu chỉ đặt vấn đề
một cách đơn thuần về cơ cấu xã hội hay
phương thức kiếm sống. Nếu như trong những năm 60, người ta chú trọng quá mức
tới cấu trúc xã hội mà điển hình là tìm hiểu loại hình cư trú hay mộ táng, thì các nhà khảo cổ học
của những thập kỷ 70, 80 với thái độ kiên trì bền bỉ đã tìm cách để giải giới
(de-gendered) và giải hoá (de-cultured) quá khứ. Đại diện tiêu biểu của kiểu
tiếp cận này là Barbara Bender, người đã nhắc chúng ta từ năm 1985 (1985:52)
rằng chúng ta đã loại bỏ “cả tính riêng
biệt của lịch sử và cả những điểm cốt
yếu của cấu trúc xã hội để ủng hộ cho một mẫu số sinh thái chung được cho là
đúng”.
Động thái chung của
những hoạt động giải-giới, thậm chí giải- cư trú được tiến hành bởi ba
nguyên nhân: 1. Bản thân vấn đề giới của mỗi cá nhân không phải là vấn đề quan
trọng trong nghiên cứu. 2. Sự thừa nhận về giới xem ra không có lý do xác đáng
và 3. Người điều tra nghiên cứu tin rằng tất cả mọi (hay cả hai) giới của xã
hội đều thực hiện các hoạt động xã hội như nhau.
Từ góc độ phương pháp luận có hai
vấn đề nổi bật. Thứ nhất là sự hiểu biết chung của chúng ta về sự khác nhau
giữa khảo cổ học về giới và khảo cổ học theo thuyết nam nữ bình quyền, thứ
hai là mức độ nhận thức khác nhau xét từ góc độ khảo cổ học về giới.
Đối với đa số những người theo
thuyết nam nữ bình quyền thì sự khảo sát địa vị của giới “nam” hay “nữ” trong quá
khứ .được xem là vấn đề chính, trong khi vấn đề giới tính- điều kiện sinh học, và giới- điều kiện văn hoá (một sự phân chia đã được nhiều nhà nhân
học chấp nhận xét từ khía cạnh khảo cổ học) thì lại được nhận biết khá khác
nhau.
Nghiên cứu về giới trong khảo cổ học
nói riêng và nhân học nói chung xuất phát từ
những vấn đề cơ bản sau: Chức năng xã hội của giới; vai trò xã hội của
giới; mối quan hệ của giới, phân công lao động của giới và lý thuyết “đàn ông-săn bắt- người chế tạo công cụ”,
“đàn bà-hái lượm-người mẹ”. Sự phức
tạp và đa dạng của văn hoá nhân loại đã làm đảo lộn nhiều kết luận và định đề
từng được coi là kinh điển, đặc biệt là quan điểm thô sơ và rất rạch ròi về
phân định giới cho tất cả mọi xã hội, gắn giới/giới tính với từng hoạt động
kinh tế văn hóa với từng loại công cụ lao động và từ đó là các mối quan hệ
trong lao động.
Sự phát triển trên thực tế cực kỳ phức tạp ,
đa dạng, đa tuyến, và không thể áp dụng cho tất cả một hoặc vài mô hình cứng
nhắc, những mô hình dù được xem là lý tưởng thưòng dẫn đến hiện tượng thấy cây
mà không thấy rừng hoặc ngược lại.
Theo R.Lowie, những nghiên cứu so
sánh nhân học cho thấy sự phân công lao động theo giới tính, trong một chừng
mực lớn mang tính ước lệ, nghĩa là nó không gắn chút nào với đặc điểm sinh lý
của hai giới. Tùy vào những quy tắc hiện hành ở các bộ lạc (thậm chí hai bộ lạc
sống gần nhau cũng rất khác nhau và ngược lại) và luôn luôn có những ngoại lệ
(Lowie 2001: 102-103). Tuy vậy một cách khái quátưngời ta vẫn có thể chấp nhận
quan điểm lâu đời và phổ biến mà theo đó phụ nữ sáng tạo ra nghề làm vườn còn
đàn ông thuần hóa gia súc. Vấn đề duy nhất mà người ta cần lưu ý là sự phân
công theo quy ước các công việc cho từng giới. Sự phân công còn phụ thuộc vào
vô số các yếu tố khác như lớp tuổi (đối với những người độc thân), theo tâm lý,
theo khả năng đặc biệt của từng cá nhân cụ thể, theo niềm tin, theo thói quen,
theo truyền thống... Cũng thế, đôi khi người ta nói quá nhiều đến vai trò của
kinh tế mà không hiểu rằng nhân tố kinh tế chỉ là một trong những nguyên nhân
tác động đối với cương vị giới. Cũng theo những nghiên cứu so sánh văn hóa ( cross cultural researches), có những bộ
tộc hoàn toàn khác biệt nhau lại có chung những quan niệm giống nhau về phụ
nữ.
Xã hội loài người từ thời nguyên
thủy đến nay không phải là một trạng thái đồng nhất buồn tẻ, mà là một khối đa
dạng nhiều màu sắc. Dòng chảy của bước vận động văn hóa, quả thực, không tùy
thuộc vào một yếu tố duy nhất, mà là từ
cả phức hệ những yếu tố gắn liền với nhau và bởi vì những yếu tố này
không phải là đều là một, và không thể là như thế khi biết rằng sự khác biệt
của những trung tâm văn hóa, một khi có trước vận động nào đó nảy sinh, hầu như
không tránh khỏi dẫn đến những biến dạng.
Nghiên cứu về giới trong khảo cổ học
sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau như tiếp cận so sánh dân tộc học, nghiên
cứu xương của mộ táng, văn bản cổ, nghệ thuật và huyền/thần thoại và nghiên cứu
so sánh sinh lý học và động vật học...
Mỗi cách tiếp cận trên đây đều có
hai mặt tích cực và hạn chế và trong sự
phát triển của xã hội loài người luôn luôn tồn tại những ngoại lệ. Xét từ góc
độ hiện vật khảo cổ học mà nói, trên đại thể rìu và mũi tên có thể gắn với đàn
ông, làm gốm bằng tay, dệt có thể liên quan chặt chẽ hơn với giới nữ. Nhưng
không phải đơn giản như vậy, nếu chúng ta tính đến những hoàn cảnh bất bình
thường như chiến tranh chẳng hạn thì cái bình thường sẽ trở nên bất bình thường
và ngược lại, theo kiểu thời bình đàn ông cày ruộng, đàn bà cấy hái còn thời
chiến đàn bà sẽ phải thực hiện mọi công đoạn từ cày bừa đến cấy hái. Do vậy cái
cày không chỉ là công cụ của nam theo tiêu chuẩn phân công lao động theo giới.
Đấy là chưa tính đến những công cụ trung tính được cả hai giới và nhiều lớp
tuổi sử dụng như dao hay kéo chẳng hạn. Đôi khi các nhà khảo cổ học rất ấu trĩ
khi áp dụng tư duy hiện đại để giải thích sự khác biệt giới của chủ nhân một số
mộ táng qua số lượng và loại hình đồ trang sức. Trong xã hội nguyên thủy, đồ
trang sức không chỉ đơn thuần để làm đẹp mà chúng thường đa chức năng (trang
sức, ma thuật, khác người...), trong đó chủ yếu để thể hiện vị thế xã hội của
chủ nhân. Nhiều trường hợp, người nam được chôn theo nhiều đồ trang sức cả về
số lượng và chất lượng hơn người nữ. Sẽ
thật sai lầm nếu áp dụng một cách máy móc sự phân công lao động theo giới dựa
vào kiểu dáng công cụ đối với những nghệ nhân thủ công. Trong trường hợp đặc
biệt này vai trò chung của giới tính, sự khác biệt tầng lớp, hay thậm chí những
lĩnh vực hoạt động chuyên biệt, chứ không phải sự khác nhau về giới sẽ là những
yếu tố quyết định.
Cách tiếp cận so sánh dân tộc học
đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu vai trò của giới trong xã hội quá khứ.
Tuy vậy, các xã hội lại cực kỳ đa dạng và mỗi xã hội cũng có những qui luật
riêng biệt. Có sự biến đổi rất lớn từ phương Đông sang phương Tây, từ xã hội
chăn nuôi là ngành kinh tế chủ đạo sang xã hội mà hái lượm là hoạt động kinh tế
chính, từ những xã hội công nghiệp sang xã hội nông nghiệp, hay ngay cả bên
trong những xã hội cùng chủng loại. Những tư
liệu khảo sát gần đây nhất của chúng tôi tại thôn Cổ Lũy, xã Nghĩa Phú,
huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, một thôn cửa sông ven biển và cư dân có nghề
khai thác thủy/hải sản sống ở vùng nước lợ quanh năm rất nổi tiếng là don và
hến cho thấy có sự chuyên hóa nhất định ngay cả trong chỉ một ngành đánh
bắt/hái lượm sản vật tự nhiên và vai trò nắm giữ kinh tế gia đình của phụ nữ.
Do đặc điểm của việc khai thác nên đàn ông gắn chặt với công cụ nhủi don, còn đàn
bà thì đi cào hến, cả hai loại công cụ làm bằng chất liệu thực vật này đều do
đàn ông đan lát. Việc buôn bán tuy vậy nằm trong tay đàn bà và như thế họ dĩ
nhiên đóng vai trò tay hòm chìa khóa trong gia đình.
Giới qua nghiên cứu Nghệ thuật thời
Tiền sử:
Khái niệm tiền sử (prehistory) dùng
để chỉ một thời kỳ rất dài trong diễn trình văn hóa nhân loại khi chưa có chữ
viết, bao gồm hai thời đại đá cũ và đá mới từ cách đây vài triệu năm đến khoảng
thiên niên kỷ 2 trước công nguyên.
Trước khi Homo Sapiens và Nghệ thuật
xuất hiện, loài người đã trải qua 4 triệu năm tiến hóa. Như vậy nghệ thuật mới
chỉ tồn tại trong khoảng 1% gần đây của kỷ nguyên loài người. Ngay từ đầu, cần
phải xua tan những quan niệm sai lầm về nguồn gốc của nghệ thuật. Nghệ thuật
không sinh ra từ một trực cảm bất chợt mà là kết quả của sự phát triển dần từng
bước các năng lực nhận thức của con người. Nguồn gốc của nghệ thuật lại ít
nhiều trùng hợp với những biểu hiện đầu tiên của một số năng lực đặc bệt của
con người: tư duy trừu tượng và hình tượng hóa, truyền tin, và ý thức về bản
thân. So với thủy tổ của con người trước kia, đây không chỉ là một sự tiến hóa
mà là một cuộc cách mạng thực sự-cuộc cách mạng nghệ thuật, bước ngoặt lớn
trong tiến hóa tư duy con người. Mặc dù có
một số người đã cố chứng minh rằng loài khỉ và vượn người đều có khả
năng sản sinh ra nghệ thuật, song những giả thuyết này đều không có căn cứ khoa
học. Sự hình thành các bản sắc Homo Sapiens của loài người chúng ta theo các
nhà nhân học đòi hỏi phải có được toàn bộ những chức năng chuyên môn hóa và
những thuộc tính riêng như: biết nhìn, nghe và cảm nhận với một sự minh mẫn và
một cách thức hoàn toàn đặc biệt của những sapiens (người tinh khôn), tất nhiên
trí tuệ của những sapiens cũng đã được di truyền theo ký ức từ phân bộ người
đến người.
Dường như về mặt trí tuệ, Homo
Sapiens khi sinh ra đã có năng lực sản sinh ra văn hóa và từ đó là dạng đặc
biệt của văn hóa tức là nghệ thuật. Do vậy một số người đã đề nghị thay khái
niệm Homo Sapiens, Homo Sapiens Sapiens (tức hai lần tinh khôn) thành Homo
Cultural (con người văn hóa) hay Homo intellectualis (con người có trí tuệ) cho
chính xác hơn.
Đặc điểm của nghệ thuật thời tiền sử
theo các nhà nghiên cứu là sự thống nhất của chủ đề và kỹ thuật với tính đa
dạng đáng kinh ngạc về biểu tượng trong những nền văn hóa và thời kỳ khác nhau
(Denis Vialou 1998: 17). Tính thống nhất về chủ đề và kỹ thuật của các nền nghệ
thuật tiền sử đã phản ánh sự giống nhau tương đối của những lối sống và các nền
kinh tế tiền sử hoàn toàn hướng về thiên nhiên, tuy nhiên điều này không thể
che lấp tính đa dạng tuyệt diệu về hình tượng.
Nghệ thuật thời tiền sử có mặt hầu
như ở khắp mọi vùng trên Trái đất, từ miền nhiệt đới cho đến Bắc cực, trên
những địa hình cực kỳ đa dạng, từ hang động dưới lòng đất cho đến đỉnh núi cao.
Nghệ thuật thời này gắn liền với ma thuật, tín ngưỡng...Theo các nhà nghiên
cưú, nghệ thuật thời đại băng giá cuối cùng phục vụ cho các hoạt động ma thuật,
gắn liền với săn bắt và sinh sản. Sau thời kỳ này nghệ thuật đi theo đường
hướng "nhân văn" và cảm
hứng bắt nguồn từ một quan niệm thần bí về các mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên.
Việc giải thích ý nghĩa biểu tượng
của các hình tượng nghệ thuật thời tiền sử trên thực tế cực kỳ phong phú đa
dạng và hầu như không khác tình hình phê bình nghệ thuật đương đại mà chúng ta
gặp trong sách báo hiện nay. Ví dụ về nghệ thuật hang động thời đá cũ hậu kỳ
chẳng hạn: Một số người gắn nền nghệ
thuật này với ma thuật săn bắn/bắt, số khác cho rằng đây là một phần của nghi
lễ khai tâm, cũng có nhà nghiên cứu lại xác định đó là một phần của toàn thể
thế giới kết hợp những nguyên lý đực cái, theo kiểu nguyên lý âm dương sau này;
trong khi đó vẫn tồn tại quan điểm những hình tượng đó thể hiện vật tổ của
những bộ tộc và thủ lĩnh giàu có (B. Hayden 1993: 8).
Trong nghệ thuật đá cũ, phổ biến là
những hình tượng giống cái, hình tượng phụ nữ. Đa phần các diễn giải truyền
thống về các "Vệ nữ" nguyên
thủy đều gắn với phồn thực, tình dục. Tuy vậy, có thể chấp nhận quan điểm hiện
nay rằng hầu hết các "Vệ nữ"
này không chỉ chuyển tải ý nghĩa về tình dục, mà hợp lý và biện chứng hơn là
chúng thể hiện ý tưởng cơ bản về sự sinh sản, về tính liên tục của cuộc sống,
ngoài ra sự phổ biến của hình tượng này ở nhiều vùng trên thế giới còn thể hiện
quan điểm của con người trước hiện tượng mang thai, sinh sản, nuôi con như một
hiện tượng tự nhiên kỳ bí. Theo Rice, những "Vệ nữ" châu Âu nguyên thủy thể hiện phụ nữ trong chu kỳ sống
của họ. Hình tượng người nữ - người mẹ phóng chiếu qua bốn nhóm lớp tuổi sinh
sản tức một dạng "tái sản xuất"theo
trình tự sau: Tiền - Sinh sản Sinh sản và mang thai; Sinh sản và không mang
thai; Hậu- Sinh sản (Rice1981).
Hình tượng Bà Mẹ -Đất phổ biến khắp
thế giới trong nghệ thuật thời đại đá mới thường được cho là liên quan đến mẫu
hệ-mẫu quyền mặt khác gắn bó chặt chẽ một cách hữu cơ với tín ngưỡng nông
nghiệp được hình thành một cách đa dạng ngay từ khởi đầu của cuộc cách mạng đá
mới. Những hình tượng nữ thần phổ biến rộng khắp bán đảo Ban Căng thời Đá mới
được diễn giải như là những hình tượng về vị thế quan trọng và quyền lực của
người phụ nữ. Tuy vậy, lại có ý kiến phản bác điều đó, theo phái này có sự
không nhất quán giữa thực tế kinh tế- xã hội với những đề tài huyền thoại- lý
tưởng chính. Đôi khi chính năng lực sinh sản thần bí của con người và tự nhiên
quyết định những biểu tượng văn hóa mà không liên quan trực tiếp đến vị thế của
bất cứ một giới sinh học rạch ròi nào. Sự
vượt trội về số lượng nữ thần trong lịch sử trung đại Việt Nam có lẽ
cũng cần được xem xét một cách cẩn trọng hơn là cách diễn giải đơn giản về sự
tái hồi nguyên lý Mẹ của văn hóa Việt Nam bản địa.
Thay kết luận
Tất cả những diễn giải lý thuyết và
cụ thể nói trên hầu như chưa đề cập đến những khác biệt mang tính sinh học bẩm
sinh giữa nam và nữ. Theo các nhà sinh học xã hội sự khác biệt giới cơ bản
trong chiến lược sinh sản và giao phối mang tính di truyền. Trong khi các nhà
khoa học xã hội ngược lại khá bi quan về sự tồn tại của khác biệt giới do di
truyền, họ cho rằng những khác biệt về giới hiện tồn là kết quả từ những giá
trị văn hóa. Dù chấp nhận hay chối bỏ bất cứ khuynh hướng nào trong cả hai kể
trên, để giải quyết chúng ta cần để ngỏ
những điều nói trên cho những khảo sát thực nghiệm và thể nghiệm.
Thiên hướng bẩm sinh của mỗi giới
cũng cần được tính đến cùng vơí xu hướng chính trị của mỗi xã hội và liệu ngoài
hai chế độ mẫu / phụ hệ trong lịch sử còn có chế độ thứ ba trung gian nào không
và liệu chỉ hiện nay chúng ta mới có phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữ hay
không. Đó là những vấn đề mà khảo cổ học
cần tham khảo tư liệu của nhiều các ngành khoa học khác nếu muốn đạt được kết
quả khách quan (ở mức độ có thể).
Riêng đối với khảo cổ học Việt Nam,
cho tới nay giới chưa bao giờ được đặt ra để nghiên cứu, thậm chí chỉ ở mức độ
điểm qua về tên gọi hay khái niệm.
Tài liệu tham khảo
Sarah Milledge Nelson và Myriam
Rosen-Ayalon 2001. In Pursuit of Gender: Worldwide Archaeological
Approaches. Gender and Archaeology Series. Walnut Creek: AltaMira Press.
Kathleen M. Bolen 2004. Prehistoric
Construction of Mothering. Html
Cheryl Claassen 2004. Gender in
Archaeology. Html
Lowie R. 2001. Luận về xã hội học
nguyên thủy. NXB ĐHQG. Hà Nội
Barbara Bender 1986. The Roots of
Inequality. Paper presented at the World Archaeology Conference.
Southampton, England
Denis Vialou 1998. Nghệ thuật của
bóng tối, nghệ thuật của ánh sáng. Tạp chí Người đưa tin UNESCO số 4.
B. Hayden 1993. Archaeology-the
science of once and future things. W.H. Freeman and Company.
Patricia Rice1981. Prehistoric
Venuses: Symbols of Motherhood or Womanhood? Journal of Anthropological
Research 37.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét