Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011

Reading the Past (Đọc quá khứ) Ian Hodder (Phần 7)

Current Approaches to Interpretation in Archaeology.
Second Edition. Cambridge University Press 1991.
Prof. Ian Hodder

Bản dịch của TS. Hà Hữu Nga (Hà Nội năm 2005) (số trang đánh trong bài dịch đồng thời cũng là số trang của bản gốc)

Khảo cổ học và Lịch sử

(Tr. 80) Chương này sẽ tập trung vào vấn đề KCH nên tái dựng lại mối gắn bó truyền thống với lịch sử (Deetz 1988; Young 1988). Nhưng không may là thuật ngữ “lịch sử” lại mang những ý nghĩa rất khác nhau đối với những con người khác nhau. Nhưng trước hết cần phải xác định những gì mà ý tôi muốn nói và muốn nói bằng thuật ngữ đó trong cuốn sách này. Tôi không có ý định lý giải sự thay đổi bằng việc qui chiếu vào những sự kiện về trước; nếu chỉ là việc mô tả một loạt sự kiện để hướng câu chuyện tới một điểm thời gian nào đó thì chỉ là một trò nhại lại phương pháp lịch sử mà thôi. Ý tôi cũng không phải là giai đoạn n thì phụ thuộc vào giai đoạn n-1. Có nhiều loại KCH bao hàm cả những chiều kích như vậy. Vì vậy nhiều lý thuyết tiến hoá xã hội hy vọng vào một sự phụ thuộc nào đó trong các chuyển đổi giữa các nhóm, các bộ lạc, các vùng hoặc các nhà nước, hoặc vào việc phát triển (Woodburn 1980). Khi sử dụng các lý lẽ Darwinian ấy, thì việc chọn lọc một hình thức xã hội phải được giới hạn bởi sự tồn tại của “vốn-gene”. Trong lý thuyết các hệ thống thì “quĩ đạo” của một hệ thống phụ thuộc vào những điều kiện có trước và vào các trạng thái của hệ thống. Mỗi quĩ đạo có thể là duy nhất về phương diện lịch sử và riêng biệt về nội dung, nhưng lại có thể áp dụng các qui luật vận hành hệ thống phổ quát. Đối với chủ nghĩa Marxism việc giải quyết mâu thuẫn và xung đột đã xuất hiện trong hệ thống có trước, như là một bộ phận của quá trình biện chứng của lịch sử.

Lịch sử trong toàn bộ các công trình ấy, đều có một phương đặc thù luận, nhưng nó cũng tham gia vào việc lý giải sự vận động từ thời đoạn n-1 đến n dựa trên một tập hợp các qui luật phổ quát. Vậy là sử gia chỉ còn biết đứng ngoài cuộc các sự kiện, như một nhà khoa học tự nhiên ghi chép các dữ liệu thực nghiệm vậy. Nhưng lịch sử lại can dự vào việc trở thành trong cuộc của các sự kiện, trong những ý định và khái niệm mà các chủ thể tính của các tác nhân hành động được tạo thành. Sử gia kể về các “hành động”, chứ không phải là hành vi, vận động, hoặc các sự kiện. Collingwood (1946: 213) đã đưa ra một ví dụ. Các sử gia không chỉ ghi rằng Caesar đã vượt qua con sông có tên là Rubicon vào một ngày nào đó – mà họ còn kể về sự thách thức của Caesar đối với luật pháp của Cộng hoà La Mã.

(Tr.81) Cuốn sách này bắt đầu với câu hỏi làm thế nào để chúng ta có thể nắm bắt được ý nghĩa của văn hoá quá khứ? Chúng ta đã đi tới, rồi lại đi lui trong khuôn khổ duy vật luận. Rốt cuộc, cốt lõi của các công trình phục hồi quá khứ ấy là một cái “ism” bất kỳ nào đó nhưng ý nghĩa văn hoá của nó thì mới chỉ phát triển rất èo uột. Trong cách tiếp cận hệ thống – quá trình duy vật luận, người ta cho rằng mộ táng là để phô bày xã hội khiến cho những chuẩn mực táng thức luôn luôn phản ánh sự ganh đua vị thế (Tr. 25). Để lý giải chức năng của các mộ táng theo cách này, chúng ta cần phải đưa ra một số định đề về những gì có ý nghĩa đối với con người thời đó. Tương tự như vậy, một chiếc mũ đội đầu có thể chỉ để ghi dấu về vị thế quan hệ (Tr. 25) để những người có liên quan hiểu được ý nghĩa của các hiện vật đó. Cũng có thể phản bác lại rằng dù các hiện vật ấy có những ý nghĩa bất kỳ nào đó thì chúng vẫn thể hiện những chức năng. Nhưng khó mà nhận ra được một hiện vật có thể có những chức năng xã hội như thế nào (chẳng hạn như mộ táng là để phô bày về phương diện xã hội), nếu việc gán ý nghĩa không phù hợp với chức năng đó (chẳng hạn như khi chết mà tích luỹ của cải thì bị coi là “bẩn” hoặc “không văn hoá”).

Kết quả của việc tiếp cận còn thiếu đối với ý nghĩa ấy khiến ta phải quay trở lại chương 3 với cấu trúc luận, nhưng ở đây rõ ràng là nội dung ý nghĩa thường được áp đặt một cách bất cẩn. Các đơn vị phân tích được xác định một cách tiên thiên, các biểu tượng được gán ý nghĩa (đàn ông hay đàn bà chẳng hạn) và những vật bất đối xứng thì được lý giải (là có tính chất “hữu cơ” chẳng hạn). Tự thân phương pháp cấu trúc luận đưa lại cho chúng ta một số gợi ý chẳng hạn như làm thế nào mà người ta có thể phục dựng ý nghĩa mang tính chủ quan để tạo thành các cấu trúc.

Vậy là chúng ta đã quay lại với chủ nghĩa duy vật. Chương 4 cũng đã chỉ ra rằng hầu hết các phân tích Marxist về văn hoá vật chất chính là việc xem xét các chức năng (che dấu thực tại xã hội, ...vv) chứ không phải là nội dung ý nghĩa. Ngay cả cách tiếp cận bằng một lý thuyết phi chức năng tinh vi về hành động xã hội và thực tiễn vật chất cũng vẫn bị thất bại khi dùng các dữ liệu KCH để xem xét một cách đầy đủ nội dung ý nghĩa.

Có một số cách tiếp cận không đề cập trong cuốn sách này đã gán ý nghĩa chủ quan cho những con người đã chết từ lâu. Chẳng hạn như hoạt động kinh tế của một di chỉ thường được phục dựng dựa vào xương thú còn sót lại (chương 1: 14). (Tr. 82) Nhưng việc khẳng định số xương bỏ lại trên một di chỉ có mối quan hệ nào đó về phương diện kinh tế thì lại chỉ dựa vào giả định là con người đã hiểu rõ về những con vật, về xương cốt, về việc thải rác ...vv. Trong nhiều xã hội, người ta gán những ý nghĩa xã hội phức tạp cho động vật thuần dưỡng, cho xương cốt và phân. Việc khẳng định rằng xương động vật không thay đổi về phương diện văn hoá là khẳng định rằng “họ” có những thái độ không quá khác với “chúng ta”. Thêm một ví dụ nữa, nếu tôi nói rằng dân số của một di chỉ nào đó có lẽ vào khoảng “x” người, thì đã ẩn dấu trong tuyên bố đó một sự phục dựng các ý nghĩa trong tư duy của những con người đã chết từ lâu rồi. Vì tôi không thể trực tiếp “thấy” dân số trong quá khứ nên tôi phải suy luận ra nó, chẳng hạn như dựa vào không gian của di chỉ. Tất nhiên tôi có thể biện hộ cho lý lẽ của mình bằng những chứng cớ so sánh văn hoá. Nhưng ngay cả khi tôi có thể chỉ ra rằng tất cả các xã hội ngày nay đều có những mối liên hệ có thể đoán định giữa qui mô dân số và diện tích di chỉ (điều đó chúng ta không thể – xem Hodder 1982d) thì việc sử dụng những thông tin như vậy để lý giải quá khứ vẫn là việc đặt giả định về thái độ của các dân tộc đối với không gian trong cái ngữ cảnh lịch sử đặc thù đó. Vấn đề các nhóm hoặc các cá nhân cần hoặc họ nghĩ rằng họ cần phải có khoảng không gian rộng bao nhiêu cho một hoạt động nào đó, chí ít về mặt nào đó vẫn là một câu hỏi về biểu tượng, ý nghĩa và ý định. Như Collingwood (1939: 133) và Taylor (1984) đã lưu ý, chúng ta hầu như không thể mô tả ngay cả các dữ liệu KCH mà không có một số thuật ngữ lý giải ám chỉ tới mục đích, chẳng hạn như “tường”, “gốm”, “dụng cụ”, “bếp”. Trong thời đại đá mới, những chiếc rìu đá mài được cho là những lưỡi tầm sét mà các chức năng sử dụng của chúng (để chặt cây trong thời Đá mới) không thể được làm sáng tỏ bằng sự phân tích thuần tuý. Việc chúng ta đưa ra những giả định về những ý nghĩa chủ thể tính trong tư duy của những người chết đã lâu chỉ có thể là cái cách mà chúng ta bắt đầu làm KCH.

Toàn bộ các tiếp cận được mô tả trong cuốn sách đã thể hiện một sự né tránh phải đối mặt trực tiếp với tình trạng không mấy vui vẻ này. Các nhà KCH đã mong muốn tránh đối đầu với vấn đề đó, và đã nắm bắt được sự tiện ích của khoa học kinh nghiệm, một cái mặt tiền đã rạn vỡ. Gìơ đây chúng ta phải đối mặt trực tiếp với tính chủ quan của ý nghĩa.

Tôi coi vai trò của lịch sử là tìm hiểu hành động của con người chứ không phải là sự kiện. Hiểu được hành động là hiểu được ý nghĩa chủ quan tính từ bên trong của các sự kiện. Vì vậy có một mối liên hệ chặt chẽ giữa lịch sử và duy tâm luận. Bằng duy tâm luận tôi không (Tr. 83) định nói rằng thế giới vật chất không tồn tại: hơn thế, như đã định nghĩa ở trang trước (tr. 19), thuật ngữ này coi thế giới vật chất chính như nó thể hiện. Điều đó phải được nhận thức rồi mới có thể được làm theo. Vì vậy chủ nghĩa duy tâm lịch sử là việc nghiên cứu cách thức đề xuất các ý nghĩa chủ quan đó trong ngữ cảnh lịch sử như thế nào; nhưng vì tự thân lịch sử được xác định trong khuôn khổ của việc nhận thức hành động (là cái liên quan đến niềm tin) và bên trong của các sự kiện, nên thuật ngữ chủ nghĩa duy tâm lịch sử là thừa trong ngữ cảnh hiện tại. Tôi không nói rằng bằng cách đạt tới nhận thức bên trong của sự kiện chúng ta sẽ khẳng định rằng chúng ta có thể tiếp cận được với các ý nghĩa chủ quan là thứ có thể được bộc lộ nếu chúng ta trò chuyện được với những con người trong quá khứ. Hơn thế, mục đích là lý giải những ý nghĩa chủ quan dưới góc độ cấu trúc các khái niệm và ý tưởng được sử dụng để tổ chức những thực tiễn vật chất tái diễn đều đặn của các nhóm. Những ý tưởng công khai và mang tính xã hội này được sử dụng để tạo thành chủ quan tính và cần phải xem xét để nhận ra chúng đã bắt đầu biến đổi như thế nào về phương diện lịch sử thông qua các thực tiễn xã hội và vật chất và thông qua cả hành động cá nhân và sự lý giải.

Có hai khía cạnh lịch sử tôi muốn thảo luận trong chương này. Trước hết tôi muốn xem xét những cung cách tái tạo những ý nghĩa chủ quan trong một thời gian dài liên quan đến thực tiễn. Thứ hai, tự thân phương pháp lịch sử cần phải được xem xét.

Lịch sử Dài hạn

Cung cách thông thường mà nhà KCH sử dụng để thảo luận về những phát triển dài hạn là chia tách các dữ liệu thành các giai đoạn và xem xét các nguyên do thay đổi của các giai đoạn đó. Vì vậy lịch sử là một quá trình đứt đoạn, cho dù cách tiếp cận được sử dụng là văn hoá- lịch sử (khi những đứt đoạn là những cuộc xâm lược...vv), là quá trình (biến đổi hệ thống, thích nghi), hoặc Marxist (biến đổi vì mâu thuẫn và khủng hoảng). Như chúng ta đã thấy (tr. 50), cấu trúc luận không có khả năng đương đầu với biến đổi.

Khi chúng ta chứng kiến các nỗ lực tiếp cận để xoá bỏ gianh giới giữa các giai đoạn (xem ví dụ Higgs và Jarman 1969), thì lại ít thấy quan niệm về lịch sử như là một quá trình liên tục (Tr. 83), và ít nhà KCH cố thử phục dựng những ý nghĩa ngữ cảnh chủ quan gắn liền với thực tiễn trong một thời gian dài. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu các định hướng chủ quan của con người trong một giai đoạn, để tìm hiểu xã hội của họ (hay của chúng ta), thì chúng ta phải lùi về quá khứ bao xa? Có phải các ý nghĩa thay đổi, nhưng luôn luôn gắn liền với cái đã vượt lên trước, như là một quá trình liên tục?

Hầu như bằng định nghĩa, những người quan tâm đến tính liên tục của các ý nghĩa văn hoá dài hạn đều có khuynh hướng quan tâm đến cái đặc thù. Nếu mỗi giai đoạn được lý giải một cách tách biệt bằng việc so sánh với các xã hội khác, thì cuộc chơi phát triển một lịch sử duy nhất đã đến ngày tàn. Nhưng vì những người đó quan tâm đến các ý nghĩa văn hoá, nên các phổ biến tính so sánh văn hoá phải được chứng minh chứ không phải là giả định, vì vậy cần tập trung vào việc tìm hiểu cái đặc thù trong những khuôn khổ riêng của nó. Chúng ta đã thấy rằng (tr. 84) toàn bộ KCH quan tâm đến ngữ cảnh lịch sử đặc thù trong một chừng mực nào đó, và mặt khác, Trigger (1978) đã chỉ ra rằng lịch sử đòi hỏi sự khái quát hoá. Nhưng trong cả các nghiên cứu KCH và không KCH thì các nghiên cứu đặc thù luận kết hợp với mối quan tâm đến cái bên trong của các sự kiện đã đưa tới những nhận định sâu xa nhất về thực chất của các mối quan hệ giữa ý nghĩa và thực tiễn.

Một nghiên cứu quan trọng về các mối quan hệ dài hạn ấy là phân tích của Max Weber (1976; xuất bản đầu tiên năm 1904-5) về mối liên hệ giữa đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù đây không phải là một ví dụ KCH, nhưng tôi muốn đề cập đến nó hơi dài một chút vì những nguyên do sẽ được làm rõ dưới đây. Weber bắt đầu bằng một vấn đề đặc thù và một câu trả lời đặc thù. Câu hỏi của ông là “Tại sao chủ nghĩa tư bản lại xuất hiện ở Tây Âu chứ không phải ở những nơi khác của thế giới?” Ông cho rằng một hình thức nào đó của chủ nghĩa tư bản đã tồn tại ở Trung Quốc, Ấn Độ, Babylon, nhưng cái ethos – tinh thần – đặc thù của nó được phát hiện ở châu Âu, đặt cơ sở cho đạo đức tư bản hiện đại thì lại không có ở các nơi đó. Weber xác định đạo đức này là bổn phận của “ai đó” khi hành nghề, bất chấp đó là nghề gì. Phẩm cách duy lý dựa trên ý niệm nghề nghiệp như vậy được gắn liền với đặc thù của chủ nghĩa duy lý (Tr. 85) được phát hiện trong văn hoá phương Tây, như đã thấy trong âm nhạc, luật pháp, hành chính cũng như trong hệ thống kinh tế.

Weber gợi ý rằng đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản phương Tây được gắn liền với, (mặc dù không theo nghĩa trực tiếp là tạo ra bởi) sự xuất hiện của những hình thức khác nhau của đạo Tin lành khổ hạnh, đặc bịêt là Tin lành Calvinism. Các dữ liệu được trích dẫn cho thấy các thủ lĩnh kinh doanh, các chủ tư bản và các tầng lớp lao động có kỹ thuật hoặc tay nghề cao hầu hết đều là những người Tin lành ở các nước Tây Âu có cấu trúc tôn giáo hỗn hợp. Chủ nghĩa truyền thống Công giáo thì độc đoán và không thừa nhận việc theo đuổi làm giàu bằng chi phí của người khác; tính chất “thế giới bên kia” lớn hơn của nó đã ức chế kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Trong khi đó, Chủ nghĩa Calvinism lại ủng hộ chủ nghĩa khổ hạnh “trần thế”. Các cá nhân được sinh ra trong những trật tự bất biến của sự vật và sự tiền định đã bắt người ta phải làm các công việc của người đã đem nó cho anh ta, chừng nào vẫn còn cái ngày đó” (Weber 1976: 156).

Trong phân tích của mình, Weber đặc biệt chống lại chủ nghĩa duy vật lịch sử Marxist trong đó các lực lượng sản xuất và các mối quan hệ sản xuất là tiên quyết. Không phải là ông phớt lờ những yếu tố như vậy, hoặc thậm chí nghĩ rằng chúng không quan trọng, nhưng ông muốn đưa ra một đối trọng ngang bằng với một quan niệm duy tâm, rằng một tập hợp các ý niệm riêng biệt về phương diện lịch sử luôn ảnh hưởng đến việc tổ chức xã hội và nền kinh tế của mình. Mối quan tâm của ông là xem xét phức hợp ý nghĩa chủ quan của hành động và nhấn mạnh rằng “tính duy lý” là chủ quan gắn liền với những “chung cục” hoặc “tất định” đặc thù. Ông gợi ý rằng mỗi hiện vật chỉ có thể hiểu được trong khuôn khổ cái ý nghĩa mà việc sản xuất và sử dụng nó đã hoặc sẽ vì hành động của con người.

Chủ nghĩa khổ hạnh Tin lành vẫn đang phát triển trong những khoảng thời gian dài và vẫn đang tái tạo việc nhập văn hoá đến nỗi nó được coi là dĩ nhiên. Cuối cùng thì sự hình thành của môn luật học duy lý kế thừa từ bộ luật La Mã đã có vai trò trong sự phát triển của một loại hình duy lý đặc biệt của phương Tây. Các nguồn gốc của tinh thần tư bản có thể được lần ngược trở lại đến trước khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản (tr. 54) và việc nhấn mạnh mang tính chất Tin lành vào lao động tinh thần hoặc thể xác một cách liên tục một phần có nguồn gốc từ một thực tế là “lao động là...một kỹ thuật thực hành khổ hạnh đã được phê chuẩn, vì nó luôn luôn tồn tại trong Giáo hội phương Tây (Tr. 86) đối lập quyết liệt không chỉ với phương Đông, mà còn hầu như với tất cả mọi luật tắc tu viện trên trần thế” (tr. 163).

Nhưng Weber không coi tập hợp ý tưởng này phát triển chỉ dựa vào riêng bản thân nó. Hơn thế, duy tâm và duy vật phải hợp nhất sao cho việc lý giải mỗi hành động hoặc sản phẩm xã hội là cần thiết để xem xét cả ngữ cảnh lịch sử của ý nghĩa chủ quan lẫn thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Những tư tưởng tôn giáo thay đổi cục bộ thông qua trận chiến giữa các lãnh tụ tôn giáo, nhưng cũng liên quan đến, dù không phải là thống trị bởi, tổng thể tính của các điều kiện xã hội, đặc biệt là các điều kiện kinh tế (tr. 183). Richard Baxter, một tác giả viết về đạo đức Tin lành “đã điều chỉnh liên tục các kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động mục sư của ông” đến mức là tín điều của ông đã thay đổi liên quan đến hoạt động thực tiễn (tr. 156). Weber tiếp tục lưu ý về sự khác biệt giữa các nhà triết học và những lý tưởng tôn giáo chống lại “người thế tục”, “người thực tiễn” và “người trung lập”. Đối với chủ nghĩa Calvinism thì “Phẩm hạnh đạo đức của người trung lập vì vậy mà thiếu đi cái đặc trưng không hệ thống và phi kế hoạch của nó (cái đó cũng có trong Công giáo) và tuỳ thuộc vào một phương pháp kiên định đối với đức hạnh như một toàn thể (tr. 117).

Tinh thần của chủ nghĩa tư bản được sinh ra từ tinh thần của chủ nghĩa khổ hạnh Thiên chúa giáo. Cái tín điều đó ăn sâu vào cuộc sống hàng ngày, bắt đầu thống trị đạo đức trần thế và can dự vào việc tạo dựng trật tự kinh tế hiện đại. Tuy nhiên các kết quả thực tiễn lại không như mong muốn. Vì vậy những người cải cách tôn giáo của Giáo phái Calvinism và những hệ phái Tin lành khác đều tham gia vào việc cứu rỗi các linh hồn; cuộc rượt đuổi những tài sản trần thế không phải là một chung cục tự thân. Các động cơ tôn giáo thuần tuý có những hậu quả xã hội và văn hoá không thể dự kiến trước và thậm chí không hề mong muốn (tr. 89-90). Các kết quả thường vượt xa khỏi và ngay cả sự mâu thuẫn với toàn bộ những gì mà các nhà cải cách tôn giáo đã cố gắng đạt được.

Vì vậy chúng ta thấy trong lập luận của Weber những mối quan hệ biện chứng giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa duy tâm và duy vật, và cùng nhấn mạnh vào hành động xã hội (hành vi mang tính mục đích) những hậu quả ngoài ý muốn và những mâu thuẫn được xác định trong chương trước. Tuy nhiên ở đây đã đưa ra một ngữ cảnh lịch sử dài hạn, nên những đóng góp tương tự về các lý tưởng và các giá trị đã được xác định. Nói một cách vắn tắt, trong thời khắc hành động, các phương thức phát triển của Bourdieu có vẻ như được thống trị bởi (Tr. 87) các điều kiện của tồn tại, nhưng phải trong một khoảng thời gian dài và trái ngược với những trật tự lịch sử khác thì các điều kiện kinh tế và xã hội tự thân chúng được coi là nảy sinh từ các tập hợp ý nghĩa văn hoá.

Qua thời gian, Weber ghi nhận sự thống trị tương đối của các tư tưởng tôn giáo và nền kinh tế xã hội phải biến đổi. Đầu tiên khuynh hướng khổ hạnh của đạo Tin lành đã dẫn tới hành động xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển thêm của một hệ thống kinh tế, của những hình thức đã có trong tồn tại. Các thuộc tính bất kỳ của việc tổ chức kinh doanh tư bản chủ nghĩa lâu đời hơn nhiều so với cuộc Cải cách Tôn giáo (tr. 91) nhưng đó là những thay đổi tôn giáo tạo điều kiện cho một trật tự kinh tế mới phát triển. Hơn nữa Tin Lành là một giáo phái “chống độc tài” dẫn đến sự đối lập cuồng tín của những người Tin lành với những nghi lễ của nền quân chủ Anh quốc (tr. 167).

Vậy là đầu tiên “những người Tin Lành muốn làm việc bằng một nghề nhất định” và tôn giáo đã hướng dẫn cho công việc kinh doanh tư bản chủ nghĩa, nhưng giờ đây “chúng ta bị buộc phải làm như vậy” (tr. 181). Qua thời gian, trật tự duy lý bắt đầu hạn chế vào các điều kiện kinh tế và kỹ thuật của việc sản xuất bằng máy móc. Ngày nay các điều kiện vật chất này “đã quyết định cuộc đời của tất cả mọi cá nhân sinh ra trong cái cơ chế đó” (tr. 181), và cơ sở kinh tế đã bị mất đi.

Tôi đã thảo luận khá dài dòng về lý lẽ của Weber, vì trong khi tôi không thể nhớ được là đã từng thấy một sự tham khảo nào về Weber trong các văn liệu KCH không (tự nó là bất bình thường nếu nó phản ánh một khiếm khuyết thực sự các tham khảo như vậy) thì công trình của ông lại chứa đựng nhiều khía cạnh lý giải lịch sử hữu ích cho những gì mà cuốn sách này tìm kiếm. Có một sự xem xét đầy đủ về các ý nghĩa ngữ cảnh và chủ thể tính, một lý lẽ về cách thức mà những ý nghĩa này phát triển và có thể hiểu được bằng các thuật ngữ lịch sử riêng của chúng, và vị trí của cá nhân trong xã hội. Weber đã phản bác lại những mối liên hệ quyết định luận về phương diện chức năng, và coi hành động cá nhân là việc xây dựng các khối tổng thể tính xã hội. Tổng thể xã hội là toàn bộ những căng thẳng, phân chia và mâu thuẫn và những cá nhân lý giải khác nhau về cái (những) thế giới mà trong đó họ sống.

Mặc dù nhấn mạnh vào cái chủ thể và cái riêng biệt, Weber vẫn không sa vào tương đối luận hoài nghi và chủ nghĩa đặc thù - ông nghĩ rằng có thể hiểu được chủ thể tính của những người khác (Tr. 88). Không nhất thiết cứ phải là Caesar mới hiểu được Caesar. Tư duy có thể nắm bắt được các ngữ cảnh khác và các ý nghĩa khác chừng nào nó gắn kết lại với nhau thành “tinh thần” của những thời đại khác từ những chi tiết đơn lẻ của thực tại lịch sử chứ không phải là áp đặt các công thức từ bên ngoài (tr. 47). Tương tự, khi tiến hành lý giải chi tiết như vậy thì có thể khái quát hoá dựa vào mối liên hệ giữa các ngữ cảnh lịch sử lẫn trong chính một ngữ cảnh.

Như Gidden (1976) đã chỉ ra, nhiều dữ liệu và lý giải của Weber đã bị đặt thành vấn đề. Trong trường hợp này tôi không quan tâm đến việc thể hiện giá trị các lý giải của Weber, mà chỉ sử dụng ví dụ để chỉ rõ việc xem xét các ý nghĩa lịch sử trong một khoảng thời gian dài và trái ngược với những phát triển lịch sử tại những nơi khác trên thế giới đã chỉ ra mức độ thiếu sót của các lý giải khách quan và duy vật và nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cái chủ quan và cái đặc thù.

Trong khi lý giải của Weber đã cung cấp sự chỉ dẫn nào đó về mối quan hệ giữa tư tưởng và thực tiễn thì có lẽ Sahlins (1981) mới là người đem đến cho chúng ta một ví dụ rõ ràng nhất về những loại tiếp cận do Bourdieu và Giddens vạch ra (xem chương 4) có thể được áp dụng vào một khoảng thời gian dài hạn. Trước khi đưa ra một ví dụ dân tộc-lịch sử của riêng tôi ở chương 6, chúng ta cần xem xét vắn tắt cái cách mà Sahlins đã thể hiện những mối liên kết giữa cấu trúc, tập quán và thực tiễn.

Tại Hawaii, Sahlins đã nhận thấy các tập hợp tiền khái niệm và các tư tưởng như là một bộ phận của hành động. Chẳng hạn mana là một lực lượng sáng tạo có khả năng hiện hình hoặc biến đi, chính là cái cung cấp ý nghĩa cho thiện tính và sự sùng kính. Cái sức mạnh mana thiêng liêng của các thủ lĩnh là hiện thân sự quang minh lỗi lạc như mặt trời của họ. ở cấp độ hàng ngày thì những khái niệm như vậy định hướng cho các hành động như là thói quen, nhưng chúng lại bị thay đổi trong thực tiễn, trong “các cấu trúc của sự kết hợp”. Chưa có ai đã từng biết đích xác một sự kiện, hoặc một cuộc họp đặc biệt sẽ kết thúc như thế nào trong thực tiễn. Những kết quả mong muốn và không mong muốn của hành động dẫn tới việc tái hệ thống các tập quán và cấu trúc xã hội.

Rõ ràng hơn, trong các thời điểm tiếp xúc văn hoá, như khi Cook đến Hawaii, hai tập quán đối lập nhau đã dẫn đến xung đột trong thực tiễn và có thể dẫn đến tình trạng thay đổi mang tính quyết định. Sahlins đã chỉ ra khi đặt chân đến Hawaii, Cook và những người Châu (Tr. 89) Âu đã nhận thức như thế nào bằng các khuôn khổ truyền thống của mình khi họ chứng kiến là có mana. Nhưng trong việc chứng kiến các cảnh thật từ những quan điểm khác nhau (Hawâiin và Châu Âu) thì các hậu quả không mong đợi lại tái giới hạn vào những cách hiểu đó, tạo nên những mâu thuẫn và xung đột. Cuối cùng Cook đã bị giết chết như một phần của các quá trình đó, và mana bắt đầu được truyền vào tất cả các đồ vật của người Anh, dẫn đến tái lập trật tự xã hội ở Hawaii.

Trong ví dụ này có nhiều thứ liên quan đến các lý giải của Weber, nhưng một công trình chi tiết hơn và việc nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề mối quan hệ giữa cấu trúc và thực tiễn đã dẫn đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về cách thức gán cho xã hội và kinh tế những ý nghĩa chủ quan, mà chúng vẫn có thể tác động ngược và thay đổi những ý nghĩa đó.

Sự khác biệt giữa công trình của Weber và Sahlins có thể giống như Trường phái Biên niên sử Pháp đang bắt đầu có một ảnh hưởng trực tiếp đến KCH. Braudel (1973) đã hình thức hoá nghiên cứu các qui mô lịch sử khác nhau bằng cách bao gồm cả a) mentalité – (thần tính, tâm tính) có những đặc điểm vĩnh hằng, vận động chậm hoặc hồi qui; b) lịch sử xã hội và cấu trúc của các nhóm và c) sự kiện và ước đoán – lịch sử của những nam nữ cá nhân. Định nghĩa của Dumezil (1977) về một cấu trúc ba chức năng (tăng lữ, chiến binh, người sản xuất/tái sản xuất) trong thần thoại và xã hội Ấn - Âu là một ví dụ thú vị về việc đi tìm cái mentalité ấy.

Một công trình dài hạn như vậy đã không giải quyết ổn thoả các mối quan hệ giữa những qui mô lịch sử và giữa các tư tưởng, thực tiễn và quyền lực khác nhau. Tuy nhiên mới đây, một loạt nghiên cứu qui mô nhỏ đã xem xét mối liên hệ giữa cấu trúc dài hạn, chiến lược xã hội và các sự kiện riêng biệt (chẳng hạn Ladurie 1980; Le Goff 1985). George Duby (1980) đã coi mô hình ba chức năng như một hệ tư tưởng kéo dài hàng nghìn năm qua suốt và sau cả thời Trung cổ Pháp. Cái mentalité đó tồn tại theo những cách khác nhau, trong những thời gian khác nhau, với tầm quan trọng lớn nhỏ khác nhau và xuất hiện đúng lúc giành cho sự cai trị và sự phân cấp xã hội chính thống. Tuy nó không được sáng tạo ra ở thời Trung cổ, nhưng dần dần nó đã được phát huy tác dụng, được tái mô hình hoá, và được thay đổi để sẵn sàng sử dụng và (Tr. 90) lại chuyển đổi nữa trong tương lai để bênh vực cho cả nhóm thống trị lẫn nhóm đối kháng.

Trong KCH chúng ta có thể tìm ở đâu để phát hiện được bất cứ khía cạnh nghiên cứu nào như vậy? Chúng ta khó phát hiện được ảnh hưởng trực tiếp từ Weber (hoặc từ công trình mới đây của Sahlins về Hawaii) trong các nghiên cứu KCH. ảnh hưởng của trường phái Biên niên Pháp cũng chỉ mới đây (các bài viết trong Hodder 1987b; 1990a). Nhưng vào đầu thế kỷ XX, Childe đã mường tượng mục đích của ông trong công trình Buổi bình minh của nền văn minh Châu Âu (xuất bản lần đầu năm 1925) là tìm hiểu bản chất đặc thù của văn hoá Châu Âu, và xác định nguồn gốc của cái tinh thần độc lập và tính sáng tạo đã dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp đó. Thực ra thì mục đích của ông rất giống với mục đích của Weber. Ông cho rằng tinh thần đặc trưng Châu Âu đó đã bắt đầu từ Thời đại Đồ đồng.

Childe khẳng định rằng mặc dù được truyền bá từ phương Đông, nhưng Châu Âu đã chấp nhận và cải tiến các phương pháp và các kỹ thuật một cách sống động, trái ngược với chủ nghĩa truyền thống và chủ nghĩa độc đoán của các nền Văn minh phương Đông. Đảo Crete trong thời đại đồ đồng có một tầm nhìn đặc biệt hiện đại: “Tinh thần Menoa là thuần Châu Âu, và không hề có chút phương Đông nào” (1925: 2). Không giống Ai cập và Lưỡng Hà, ở Crete không có những cung điện hoành tráng, những đền tháp, lăng mộ khổng lồ, và sự vắng mặt ấy cho thấy sự vắng mặt của chế độ chuyên quyền, độc đoán. Tương tự như vậy, nghệ thuật Crete vừa không mang tính hình thức, vừa không bảo thủ, nhưng lại có một thứ chủ nghĩa tự nhiên hiện đại, có cảm hứng thực sự ngẫu nhiên đối với đời sống và tự nhiên, những đặc trưng làm nổi bật các bức tranh tường, các bức phù điêu và những hoạ phẩm trên đồ đựng Menoa. Khi nhìn ngắm những cảnh trí mê hồn của các trận đấu và các đám rước, những con vật, cá, hoa và cây cối chúng ta đã được hít thở một bầu không khí hoàn toàn châu Âu. Tương tự như vậy, trong công nghiệp, việc không có tình trạng bóc lột sức lao động vô hạn tuỳ thích theo nhu cầu nên người ta tập trung vào sáng tạo và chau chuốt công cụ và vũ khí. Điều đó đã tiên liệu một đặc trưng độc đáo nhất của nền văn minh châu Âu” (ibid, tr.29).

Trong khi lý giải của Childe dường như không mang tính phê phán, và trong khi (Tr. 91) khao khát một nền văn minh châu Âu độc đáo có thể gắn kết với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và các đế quốc châu Âu (Rowlands 1984) thì Childe lại phải vật lộn với những vấn đề đặc thù chẳng hạn như tại sao sự phát triển văn hoá và kinh tế châu Âu lại độc đáo; và xuất phát từ đâu mà nó có được những “phong cách” kinh tế và văn hoá đặc thù ấy. Ngay cả trong lần xuất bản muộn nhất của “Buổi bình minh” (1957) thì những mối bận tâm như vậy vẫn còn, và Man Makes Himself (Con người tạo ra bản thân mình) (1936) đã thể hiện một quan niệm biện chứng về sự tiến bộ. Phát triển là tích luỹ và diễn ra thông qua một quá trình đối lập liên tục giữa các yếu tố tiến bộ và bảo thủ.

Một nghiên cứu mới đây (Lechtman 1984) đã thể hiện một số quan tâm tương tự. Mối quan tâm ở đây tập trung vào đặc trưng công nghệ riêng biệt trong kỹ thuật luyện kim của Tân Thế giới và Cựu Thế giới, bằng cách chỉ ra, như Childe đã làm, những cấu trúc tinh vi của công cụ và vũ khí ở châu Âu. Lechtman lưu ý rằng việc vắng mặt của thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt trong Tiền sử Tân Thế giới có thể nảy sinh từ tầm quan trọng của các kim loại dùng trong chiến tranh, giao thông và nông nghiệp châu Âu, trong khi đó ở khu vực núi Andes chẳng hạn kim loại chỉ có một vai trò biểu tượng trong cả đời sống trần thế lẫn tôn giáo.

Vì vậy Lechtman quan tâm đến tính đặc trưng của một trật tự văn hoá ở Tân Thế giới, và bà đã rút ra một tập hợp đặc thù các giá trị văn hoá tập trung xung quanh ý nghĩa chính trị và nghi lễ của các màu vàng và bạc. Đồng thau là một phát triển muộn màng ở dãy núi Andes – những kim loại khác được sử dụng để tạo ra những màu đáng mong ước khác. Tuy nhiên một tập hợp các giá trị văn hoá khác đã cản trở các nhà luyện kim Andes không pha thêm các màu vàng và bạc lên trên bề mặt của các sản phẩm kim loại. Một phương pháp phức hợp kỹ thuật cao đã được phát triển nhằm làm cho màu sắc ở mặt ngoài của một hiện vật lại có nguồn gốc từ bên trong. “Cơ sở của hệ thống làm giàu kim loại ở Andes là cho thêm một thành phần cơ bản – vàng hoặc bạc vào toàn bộ một hiện vật. Bản chất của hiện vật, biểu hiện ra bên ngoài cái vẻ thực của nó, chính là cái chất bên trong của nó” (ibid., tr. 30).

Lechtman biện hộ cho luận điểm này bằng cách qui chiếu vào việc sản xuất vải, là công việc có cùng một “cấu trúc” như sản xuất kim loại (mẫu hoa văn trang trí được đưa vào vải), và bà (Tr. 92) đã chỉ ra cách thức mà các giá trị văn hoá có chức năng hệ tư tưởng trong việc chính thống hoá sự thống trị trong Nhà nước Inca. Nhưng dạng đặc thù của hệ tư tưởng đó, và của công việc làm vải lẫn quá trình kỹ thuật đặc thù của việc thay thế và khử bằng điện hoá chỉ có thể được hiểu rõ bằng những thuật ngữ riêng, gắn liền với sự thực hành nhưng không qui giản vào nó. Cuối cùng chúng ta sẽ chỉ có thể “lý giải” hệ thống của các giá trị văn hoá bằng cách lùi sâu về quá khứ, với một hành trình vô hạn định.

Những người khác, chẳng hạn như Coe (1978) đã quan tâm đến việc khảo sát tính chất đặc thù của văn hoá Tân Lục địa bằng cách đối sánh nó với Cựu Lục địa. Bằng việc gắn kết các nghiên cứu ngôn ngữ và khảo cổ học, Flannery và Marcus (1983) đã khẳng định rằng trong hàng ngàn năm, các nền văn hoá Trung Mỹ đã thích ứng với các điều kịên địa phương và đã thực hiện những thay đổi xã hội một cách quyết định bằng một tập hợp ý nghĩa có cấu trúc, bao gồm việc phân chia thế giới thành bốn phần theo mã màu, và một “tinh thần” được gọi là pe. Mặc dù chưa thật sự nỗ lực để xem xét cấu trúc, ý nghĩa và sự kiện được thống nhất với nhau như thế nào, nhưng điều quan trọng là họ đã chỉ rõ lĩnh vực tạo dựng hệ tư tưởng có một ảnh hưởng lâu dài. Hơn nữa, lĩnh vực đó không gây nên, không cản trở hoặc phải qui giản vào kết quả của hành động thực tiễn; đúng ra nó được coi là trung gian cho hành động.

KCH Cựu lục địa luôn luôn có triển vọng bằng cách quay trở lại một khoảng dài hạn để phát hiện ra cơ sở văn hoá chung cho sự phát triển của các xã hội Châu Âu và các nền văn hoá đã phát triển - đây là mối quan tâm của các nhà ngôn ngữ học và khảo cổ học liên quan đến vấn đề văn hoá ấn - Âu. Nhưng chúng ta cũng có thể thực hiện một phân tích chi tiết bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng các khu vực khác nhau của châu Âu đã hình thành, chia tách và phát triển như thế nào. Vài lần Christopher Hawkes đã lưu ý đến việc hạn chế táng thức có đồ tuỳ táng – hoặc là táng thức tập thể tất cả với nhau” (Hawkes 1972: 110) dẫn đến thiếu phân biệt vị thế trong các táng thức tại Anh (xem thêm 1972: 113; 1976: 4). Những thái độ như vậy, hoặc chí ít các mô tả hành vi liên quan đến táng thức như vậy xuất hiện liên tục trong một khoảng thời gian dài, và Hawkes đã chú ý đến sự thay đổi tích luỹ như trong thảo luận của ông về “tính cách Celtic tích luỹ vậy” (Tr. 93) (1976), trong đó phong cách Celtic được truy tìm nguồn gốc đến tận thời Đồ đồng. Năm 1954, Hawkes gợi ý rằng cách tiếp cận vùng, trong đó các nhà KCH sử dụng một phương pháp lịch sử lùi lại xuyên suốt các diễn trình văn hoá để phát hiện “các vật chung cho tất cả mọi người với tư cách một loài, kế thừa từ dung lượng - văn hoá (culture-capacity) từ thời khởi thuỷ” (1954: 167). “Nó vận hành giống như người ta bóc vỏ củ hành; vì vậy mà khi đi tới được đến tận cùng của vấn đề thì có phải củ hành có hạch ở giữa hay củ hành chính là một tổng thể những lớp vỏ đã được bóc đi?” (ibid., tr. 168).

Một vài nhà KCH cố tận dụng lợi thế tư liệu – bao trùm những khoảng thời gian dài - để góp phần vào những vấn đề đó. Vẫn còn ít thấy các nghiên cứu lịch sử chi tiết về các trật tự vùng bao gồm cả việc lý giải ý nghĩa chủ quan. Chúng ta đã thảo luận (Tr. 29) về công trình thú vị của Flannery và Marcus (1976; 1983) trong khi Isbell (1976) đã xác định được một quá trình liên tục 3000 năm trong cấu trúc cư trú ở vùng Andes Nam Mỹ, ngoại trừ những đứt đoạn chủ yếu trong các hệ thống kinh tế và xã hội. Một loại công trình quan trọng khác gồm có lý giải của W. Davis (1982) về các nguyên tắc hoặc “tiêu chuẩn” nghệ thuật có thể xác định qua suốt lịch sử Ai Cập, định nghĩa của Hall (1977) về các nguyên tắc ý nghĩa làm cơ sở cho các quá trình Hopewellian trong các tương tác và thay đổi kinh tế xã hội, lý giải của Lathrap (1977) về tính liên tục dài hạn và phổ biến trong các thực hành táng thức vùng Đông Bắc Mỹ. ở Châu Âu, nhiều nhà KCH đã nhận thức được các mô hình liên tục tính đáng kể gắn liền quá khứ xa xôi với hiện tại, đặc biệt là ở Scandinavia, nhưng ít người đưa các vấn đề như vậy thành trung tâm điểm nghiên cứu. Tương tự như vậy, giờ đây quá trình truyền bá ít được nghiên cứu như là một cấu phần phát triển văn hoá. Truyền bá bị giảm giá trị vì các nhà KCH quá trình thiên về mô tả đã quá nhấn vào những trật tự thích nghi địa phương. Nhưng trong khuôn khổ các vấn đề được đặt ra trong tập này thì truyền bá thực sự có năng lực giải thích. Nó có thể giúp giải thích ma trận văn hoá đặc thù. Các đối tượng hoặc các phong cách xuất phát từ những nhóm khác được gán những ý nghĩa nhất định trong ngữ cảnh mới của chúng, nhưng những ý nghĩa mới này có thể dựa trên và có thể chứa đựng trong chúng những ý nghĩa từ ngữ cảnh cũ. Những đặc điểtm mới được chọn lọc và được đặt vào trong hệ thống đang tồn tại, (Tr. 94) bằng cách thay đổi chúng. Mục đích của chúng ta không hẳn là phân loại các kiểu loại truyền bá (Clarke 1968), mà là nhận ra, chẳng hạn những truyền bá kích thích như là một quá trình xã hội năng động hoạt động dựa trên và trong các hệ thống ý nghĩa phát triển trong một giai đoạn dài (chẳng hạn xem Kehoe 1979).

Có một bất trắc, đó là các nhà KCH sẽ phải bằng lòng với những liên tục mơ hồ trong nguyên tắc xử thế văn hoá bằng cách quay trở về dựa trên cơ sở của các dữ liệu tản mạn mà không quan tâm đầy đủ đến vấn đề là bằng cách nào các ý nghĩa nội tại có cấu trúc can dự một cách năng động vào xã hội và sự biến đổi xã hội và bằng cách nào chúng phải thay đổi chính bản thân mình. Trong công trình của Weber, và đặc biệt hơn là Sahlins, là hai ví dụ mà chúng ta sử dụng để bắt đầu xem xét các nhà KCH có thể bao hàm cả cấu trúc và quá trình vào các lý giải của họ về quá khứ như thế nào, và cuối cùng chúng ta phát hiện ra những cách tiếp cận từ Collingwood đến nhân học hiện đại, là những người coi văn hoá là cấu tạo ý nghĩa, là cá nhân năng động và là ngữ cảnh lịch sử. Nhưng vẫn còn một chặng đường dài phải đi trước khi chúng ta có thể khẳng định được rằng tính chất phong phú của cách tiếp cận ấy, đặc biệt là liên quan đến nội dung các ý nghĩa lịch sử gắn liền với thực tiễn xã hội đã được áp dụng một cách đầy đủ vào KCH. Vật cản chủ yếu chính là vấn đề phương pháp luận.

Nếu các nhà KCH cần quan tâm nhiều hơn nữa đến ý nghĩa nội tại, “cái bên trong” của sự kiện thì họ sẽ phải làm như thế nào? Chúng ta phục hồi mana, tinh thần Celtic, Đaọ đức Tin lành, tính sáng tạo Châu Âu, các thái độ đối với phải hoặc trái như thế nào từ các bằng chứng KCH? Vấn đề đó phát triển như sau: nếu chúng ta từ chối chủ nghĩa duy vật, chúng ta có thể không còn dự báo được “các tư tưởng” có cơ sở duy vật nữa. Vì vậy những loại hình suy luận mang tính dự báo so sánh văn hoá sẽ bị loại bỏ. Nếu mỗi ngữ cảnh lịch sử là duy nhất và đặc thù thì chúng ta có thể lý giải nó như thế nào? Trong phần tiếp theo tôi sẽ tập trung vào câu trả lời của Collingwood đối với những câu hỏi như vậy. Việc phê phán lập trường của Collingwood và một câu trả lời đương đại đầy đủ hơn được gọi là khoa chú giải cổ bản có tính chất phê phán, sẽ được mô tả ở chương 7.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét