Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010

Reading the Past (Đọc quá khứ) Ian Hodder (Phần 5)

Current Approaches to Interpretation in Archaeology.
Second Edition. Cambridge University Press 1991.
Prof. Ian Hodder

Bản dịch của TS. Hà Hữu Nga (Hà Nội năm 2005) (số trang đánh trong bài dịch đồng thời cũng là số trang của bản gốc)

3. Khảo cổ học cấu trúc
(Tr. 35). Khi Edmund Leach (1973) gợi ý rằng KCH chuyển từ chức năng luận sang cấu trúc luận bằng cách đi theo con đường của nhân học xã hội, rõ ràng ông đã không ý thức được rằng KCH cấu trúc đã tồn tại. Đặc biệt là công trình của Leroi – Gourhan (1965) cũng như một vài khía cạnh trong công trình của Levi-Strauss đã được tranh luận rộng rãi. Chắc chắn rằng cấu trúc luận đã chưa bao giờ thống trị bộ môn này, nhưng sức hấp dẫn to lớn của nó thì không thể chối cãi được (Bintliff 1984; Deetz 1983; Huffman 1981; 1984; Kent 1984; Leone 1978; Miller 1982a; Muller 1971; Richard and Thomas 1984; Schnapp 1984; Small 1987; Sorensen 1987; Van de Velde 1980; Yates 1989). Những bài viết được đề cập ở chương này gợi ý rằng giờ đây người ta đã có thể nói về một KCH cấu trúc.

Nhưng tại sao mãi mà KCH chưa đạt tới trình độ phân tích về “các tập hợp khác biệt có cấu trúc” và tại sao ảnh hưởng của nó lại mờ nhạt đến như vậy? Tại sao cấu trúc luận lại chưa bao giờ tạo nên một sự chọn lựa rõ ràng trong KCH?
Câu trả lời đầu tiên đối với những câu hỏi này là ở chỗ cấu trúc luận tự thân nó không phải là một cách tiếp cận mạch lạc, vì nó bao trùm những tập hợp rất đa dạng, từ ngôn ngữ cấu trúc của Saussure, Ngữ pháp tạo sinh của Chomsky đến Tâm lý học phát triển của Piaget và Phân tích ý nghĩa “chiều sâu” của Levi Strauss. Trong KCH, tính chất đa dạng này được phản ánh trong những khác biệt giữa các phân tích hình thức của Washburn (1983) và Hillier et al (1976), cách lý giải theo trường phái Piaget của Wynn (1979); xem thêm Paddaya 1981), và loại phân tích Levi-Strauss được Leroi- Gourhan thực hiện (1965; 1982).
Câu trả lời thứ hai liên quan đến tính chất khác biệt đó. Một vài cách tiếp cận cấu trúc luận trong KCH có thể phù hợp với KCH quá trình, thì hầu như lại không được lưu ý và kết cục cũng như vậy đối với KCH Mới. Fritz (1978) chẳng hạn, đã thảo luận về giá trị thích nghi của các mã biểu tượng và không gian. Thực ra thì có rất nhiều mối tương đồng gần gũi giữa phân tích hệ thống và cấu trúc luận và dưới đây chúng ta sẽ thấy là cả hai đều bị phê phán như nhau. Sự tương đồng rõ ràng nhất giữa hai phương pháp là ở chỗ cả hai đều quan tâm đến “tính hệ thống”.Tiêu điểm là mối liên hệ giữa các thực thể: mục đích của cả phân tích hệ thống lẫn phân tích cấu trúc là đưa ra một lối tổ chức nào đó cho phép chúng ta kết hợp tất cả các bộ phận vào một tổng thể mạch lạc. Trong phân tích hệ thống thì cấu trúc đó là một lưu đồ, đôi khi có các phương trình toán mô tả các mối liên hệ giữa các phụ hệ thống, mà hệ thống thì rộng lớn hơn, hoặc nhiều hơn các bộ phận cấu thành, nhưng nó lại tồn tại trong cùng một cấp độ phân tích. Mặc dù trong cấu trúc luận, các cấu trúc tồn tại ở một cấp độ sâu hơn, nhưng các bộ phận lại liên kết với một tổng thể bằng những đối lập nhị phân, bằng các qui tắc tạo sinh...vv. Trong cả hai cách phân tích và cấu trúc thì mối liên hệ giữa các bộ phận là quan trọng nhất.

Một tương đồng nữa giữa lý thuyết các hệ thống và cấu trúc luận là cả hai đôi khi vẫn được khẳng định là liên quan đến sự phân tích nghiêm nhặt các dữ liệu có thể quan sát. Trong một vài loại KCH cấu trúc (nhất là loại mà tôi mô tả là phân tích hình thức) thì các cấu trúc và các liên tưởng khái niệm được coi là kinh nghiệm chủ nghĩa và có thể đo lường. Trong lý thuyết hệ thống thì có sự gắn kết chặt chẽ với chủ nghĩa thực chứng, trong đó bằng cách đo lường sự đồng biến giữa các biến số có thể quan sát trong thế giới thực tại thì hệ thống có thể được xác định và phân biệt. Trong khi chủ nghĩa thực chứng là một “hệ tư tưởng” được thể hiện bởi một số nhà phân tích hình thức và cấu trúc trong KCH, chúng ta sẽ thấy rằng khi phân tích các hệ thống thì không thể đảm bảo được “tính chất cứng” hiển nhiên của dữ liệu và tính nghiêm nhặt của phương pháp.

Câu trả lời thứ ba cho câu hỏi về việc tại sao cấu trúc luận lại không bao giờ đưa ra được một tập hợp các phương án rõ ràng trong KCH là ở chỗ khi một vài loại cấu trúc luận (chẳng hạn như phân tích hình thức) được cho là nghiêm nhặt và “cứng”, thì những loại khác (nhất là công trình mô hình hoá của Levi-Strauss) lại “mềm” và phi khoa học. Đặc biệt người ta còn cho rằng không thể phân biệt được các giả thuyết về các cấu trúc ý nghĩa, nhất là vì phần nhiều các phân tích cấu trúc bên ngoài KCH lại quan tâm đến các huyền thoại. KCH với sự nhận thức thống trị tự thân là (Tr. 37) thực chứng và duy vật hiếm khi có đủ tự tin để dấn thân vào bất cứ một vũ đài nào như vậy. Như Wylie (1982) đã chỉ rõ tất cả các loại KCH đều vượt lên khỏi tư liệu để lý giải chúng, và cấu trúc luận thì cũng không khác về phương diện này. Nhưng viễn cảnh khoa học thống trị của KCH thì lại là phản đề của cấu trúc luận.

Trong KCH ba nguyên do trên, liên quan đến phản ứng hoài nghi về các quan điểm của Leach thì loại cấu trúc lụân là thứ dễ được xếp vào KCH quá trình và sẽ được thảo luận trước tiên, chính là việc phân tích hình thức có nghĩa là miêu tả thế giới thực tại hơn là tiên đoán các bản chất bên trong.

Phân tích Hình thức và Ngữ pháp Tạo sinh
Với ngôn ngữ cấu trúc của Saussure, ký hiệu tự thân nó là có tính võ đoán và có tính qui ước. Nói cách khác bất cứ biểu tượng nào (chuỗi hạt, con vịt, mũi tên) có thể được sử dụng để biểu nghĩa cho một vị thủ lĩnh; không nhất thiết phải có mối liên hệ giữa vật biểu nghĩa (chuỗi hạt) và vật được biểu nghĩa (cương vị thủ lĩnh). Vì tính chất võ đoán đó, phân tích ý nghĩa của Saussure tập trung vào các tập hợp khác biệt tạo thành cấu trúc. Vì vậy chuỗi hạt biểu thị “cương vị thủ lĩnh” được đối lập với tình trạng thiếu hoặc không có chuỗi hạt, hoặc sự có mặt của một loại hiện vật khác, biểu thị “không phải cương vị thủ lĩnh”. Phân tích là thuộc về hình thức chứ không phải là nội dung.

Các phân tích hình thức trong KCH được minh hoạ tốt nhất bằng công trình của Washburn (1983) là người tập trung vào các qui luật đối xứng có thể được xác định và được so sánh trong một văn hoá và giữa các văn hoá với nhau. Việc nghiên cứu mẫu hoa văn gốm chẳng hạn, vẫn có thể phân loại mà không dựa vào các motif trang trí, nhưng lại dựa vào các motifs được sắp xếp, tổ chức đối xứng. Các loại đối xứng chủ yếu được nhận ra ở Fig. 2. Vì vậy vấn đề cần quan tâm không phải là các hình dấu phảy, tam giác hay ngôi sao được sử dụng làm thành motif trang trí, vì nghiên cứu dân tộc học (chẳng hạn Hardin 1970) đã chỉ ra rằng nội dung trang trí không phải là một chỉ số tốt biểu hiện các mối liên hệ nhóm. Người ta cho rằng để tập hợp thành nhóm văn hoá thì cấu trúc mẫu trang trí là phép đo lường chắc chắn hơn.

(Tr. 38). Về nhiều phương diện, phân tích đối xứng là phi tạo sinh. Nó liên quan đến việc xem xét mô hình như nó tồn tại, tĩnh, trên bề mặt chiếc bình, và liên quan đến việc xác định cấu trúc cơ sở. Mặt khác, đối xứng có thể coi là một qui luật tạo ra các mô thức. Chomsky nhấn mạnh đến tính sáng tạo “qui tắc-thống trị”, và trong một phân tích về việc trang trí quả bí của người Nuba nước Sudan, chúng tôi đã khẳng định về một loại ngữ pháp tạo sinh (Hodder 1982a) theo những phân tích do Faris công bố (1972).

Việc nói về một ngôn ngữ hoặc một ngữ pháp trang trí chính là lưu ý tới các nguồn gốc phân tích cấu trúc trong ngôn ngữ cấu trúc của Saussure. Trong trường hợp người Numba thì ngữ pháp của họ bắt nguồn từ một motif chéo (Fig. 3:1). Cả các “từ” và các “qui tắc ngữ pháp” đều được gợi ý và được chứng minh là có thể tạo ra hàng loạt trang trí trên quả bí, từ những mẫu thiết kế được tổ chức cao (Fig.3:10) đến những mẫu thiết kế rõ ràng là “ngẫu nhiên”. Vì vậy dải motif cái nơ ở Fig.3:15 có thể được tạo ra bằng cách lấy một “từ” hình tam giác gắn vào với một từ khác bằng góc (chứ không phải bằng cạnh). Vậy là motif “cái nơ” đó theo một qui tắc khác được quay những góc 900 để tạo ra hình khác...vv. Trong tất cả các hoa văn quả bí được mô tả ở Fig. 3, thì các qui tắc phải được tuân thủ là: các từ kết hợp với nhau ở góc (chứ không phải ở cạnh...vv).

Washburn (1983: 138) cho rằng việc phân tích đối xứng cho phép so sánh và đo lường một cách khách quan và hệ thống (Tr. 39) các mẫu trang trí qua thời gian và trải trên những khu vực rộng lớn. Các phân tích hình thức về cấu trúc khu cư trú (chẳng hạn Hillier et al 1976; Fletcher 1977) có lẽ là một lời hứa hẹn tương tự. Trong toàn bộ các trường hợp đó thì dường như chúng ta có thể miêu tả các cấu trúc và kiểm tra chúng một cách nghiêm nhặt bằng dữ liệu. Có thể tiến hành các phép thử bằng thống kê (Fletcher 1977) và các loại hình ngữ pháp được mô phỏng trên computer (Hodder 1982a) để xem liệu chúng có thực sự tạo ra các mô hình có thể quan sát (Tr. 40) được không. Công trình như vậy có vẻ không bị vướng vào một chuỗi niềm tin liều lĩnh: rõ ràng là không xác định được ý nghĩa và có sự nghiêm nhặt khoa học đáng kể. Phương pháp phân tích như vậy thuần tuý là hình thức. Kết quả là một công trình như vậy có thể dễ dàng được xếp vào KHC Mới thực chứng – nó không báo trước sự bất chắc nào, đặc biệt là khi gắn kết với những lý giải các hệ thống (xem ở dưới).

Tuy nhiên có phải thực sự trường hợp phân tích hình thức không liên quan gì đến việc ấn định ý nghĩa và chúng không liên quan gì đến nội dung không? Chúng ta hãy lấy ví dụ phân tích của Washburn về mẫu trang trí vạch lon <<<<<<<<. Mối bận tâm của bà là xoá bỏ “cái nhãn hoa văn chủ quan” hình “vạch lon” đi (1983: 143), và bà đã thay bằng “Lớp 1 – 110: các thiết kế một chiều được tạo bởi phản ảnh gương theo bình tuyến”. Washburn gợi ý rằng mẫu trang trí vạch lon đã được tạo ra bằng cách đặt một trục nằm ngang qua các “vạch lon” và coi phần ở trên là một phản ánh gương của phần ở dưới:

<<<<<<<<< = ---- = phản ánh gương theo chiều ngang

Một phân tích khác lấy các đơn vị mẫu trang trí không phải là các dấu văn chéo đơn, mà là các vạch lon

<<<<<< = dịch chuyển

Washburn đã cố gắng tránh những nhập nhằng như vậy bằng cách xác định đơn vị phân tích chính xác là yếu tố bất đối xứng nhỏ nhất (chẳng hạn như dấu phẩy). Tuy nhiên những đường thẳng rõ nét và những hình tròn không thể được ghép vào một sơ đồ như vậy, và định nghĩa, tự thân nó cũng là võ đoán: trong khi nó có thể trợ giúp cho việc phân tích khách quan, thì nó cũng có thể che dấu những cấp độ liên hệ đối xứng khác như trong ví dụ về hình vạch lon ở trên. Tương tự như vậy, trục qui chiếu đối xứng được tìm ra là một lý giải chứ không phải mô tả các dữ liệu. Nhìn theo chiều góc khác thì việc phân tích đối xứng là một mô tả trong một tập những quyết định mang tính giải thích. Vậy là các phân tích đó can dự vào việc gán ý nghĩa cho nội dung – chúng không chỉ là những mô tả hình thức để trợ giúp cho việc so sánh. Việc tìm hiểu một dấu hiệu trên một chiếc bình như là một “đơn vị phân tích” hoặc như một “motif hoa văn” chính là việc gán nghĩa cho cái dấu hiệu đó, để lý giải nội dung của nó và cho dù chúng ta muốn hoặc không muốn, thì nó vẫn bao gồm cả việc cố gắng coi cái mẫu đó như chính người tiền sử nhận thức về nó.

(Tr. 41) Trong tập sách này tôi sẽ trở lại với vấn đề ấy sau, nhưng hiện giờ điều quan trọng là thừa nhận chủ quan tính nằm sau tính khách quan do Washburn đề xuất không có cách nào đưa ra khỏi công trình của bà được. Hơn nữa, một chủ quan tính như vậy là một bộ phận cần thiết cho toàn bộ một phân tích KCH. Chúng ta đã thấy tính chất lan tỏa của các vấn đề nhận thức trong triết học Hậu-thực chứng (tr. 15 – 18). Tất cả các phân tích KCH đều dựa trên những phân loại mang tính chủ quan (các loại bình, các di chỉ cư trú...vv) và những mối liên hệ hệ thống hoặc cấu trúc không thể quan sát (các hồi tiếp âm hoặc dương, những mối quan hệ trao đổi...vv). Trong việc áp đặt hình đa giác của Thiessen vào một mô hình cư trú chẳng hạn, chúng ta không bao giờ có thể đoan chắc rằng “các đơn vị phân tích của” chúng ta (di chỉ hoặc giao điểm trong mô hình cư trú) thực sự có thể so sánh hay không. Chúng ta phải gán nghĩa cho chúng (là các di chỉ cư trú, thị trấn, thành phố) trước khi chúng ta có thể gợi ý về những mối liên hệ cấu trúc và hệ thống giữa hoặc bên dưới chúng.

Vậy là thực chất “cứng” của phân tích hình thức chỉ là hão huyền. Sự phân tích đối xứng đó chẳng hạn, có thể được chèn vào KCH mà không có sự cố nào là vì tổng thể KCH được hướng dẫn bởi cùng một hệ tư tưởng của chủ nghĩa thực chứng, kết quả là có rất ít nỗ lực vượt khỏi những đối xứng trong trang trí gốm để hiểu được nội dung của các thông điệp. Việc lý giải ý nghĩa biểu tượng đã bị coi nhẹ nhằm hỗ trợ cho những mối liên hệ trực tiếp giữa tính đối xứng và các quá trình tương tác xã hội. Chẳng hạn Washburn cho răng “tính đồng nhất trong cấu trúc hoa văn trang trí dường như là chỉ số của cấu trúc văn hoá đồng nhất và sự tăng cường tương tác văn hoá” (1983: 140). Đây có thể là một giả thuyết thành công, được “thử” bằng những lý giải dân tộc học và được áp dụng thành công vào các dữ liệu KCH (ibid), nhưng bằng việc kết nối hình thức trang trí với xã hội một cách trực tiếp như vậy chúng ta đã bỏ qua cái khả năng rất thực là cấu trúc trang trí đó có thể có những ý nghĩa khác nhau trong những ngữ cảnh văn hoá khác nhau. Ở mức độ nào chúng ta có thể khẳng định rằng những cấu trúc trang trí được xác định một cách chủ quan sẽ có những ẩn ý xã hội phổ biến? Vì vậy cần phải có một sự phân tích nghiêm nhặt và khoa học để kiểm tra những ý nghĩa biểu tượng làm trung gian giữa cấu trúc (của trang trí) và các chức năng xã hội.

(Tr. 42) Khi chúng ta đòi hỏi ý nghĩa của những đối xứng hoặc những cấu trúc hình thức khác, khi chúng ta tự hỏi liệu các đối xứng trong trang trí gốm là những biến thể của những thay đổi trong việc tổ chức không gian di chỉ, hoặc trong việc thực hành tang lễ, và khi chúng ta liên hệ những cấu trúc đó với các cấu trúc trừu tượng trong tư duy, chúng ta đã bắt đầu vận động từ phân tích hình thức đến phân tích cấu trúc.

Có thể cho rằng việc qui các khái niệm vào các bộ phận hoặc các tổng thể của các cấu trúc như trong công trình của Leroi –Gourhan (1965, 1982) không hề khác với việc gán ý nghĩa cho các dấu hiệu được vạch ra trên bình khi xác định các motif trang trí. Có lẽ khác biệt duy nhất chỉ là ở chỗ việc gán ý nghĩa trong loại công trình sau như ví dụ về trường hợp các phân tích cẩn thận và thuyết phục của Washburn đã được che đậy bằng khoa học khách quan. Mặt khác, công trình trước đây của Leroi-Gourhan lại liên quan đến một cố gắng tự ý thức để ấn định ý nghĩa. Đồng thời loại công trình Leroi-Gourhan có tiềm năng “khoa học” hơn theo nghĩa nó thực sự liên quan đến việc đưa những ý nghĩa của ai đó ở bên ngoài vào một đối tượng mở chứ không phải áp dụng chúng một cách ngấm ngầm.

Tuy nhiên trong KCH chúng ta thường thấy các cấu trúc được xác định và so sánh mà không xem xét đầy đủ nội dung ý nghĩa – phê phán này có thể được khoả lấp đi chẳng hạn trong công trình về Gốm đá mới Hà Lan (Hodder 1982b). Ở đây đã xác định được sự thay đổi cấu trúc bằng những trang trí hình cây lá giới hạn trong một trật tự đối lập được bố trí theo hàng ngang và theo hàng dọc so với các chuỗi “thêm vào” được chia khu vực theo chiều ngang (Fig. 4). Những mẫu trang trí được giới hạn trước liên quan trực tiếp đến những thực thể xã hội được giới hạn (các nhóm họ hàng, nhưng cũng có thể xem Tilley 1984 để thấy một quan điểm khác), trong khi những mẫu trang trí thêm vào sau thể hiện sự kết hợp các nhóm trong các mạng lưới xã hội mở rộng. Việc lý giải như vậy vẫn chưa hợp lý, vì không có lý do gì để chúng ta đảm bảo bất cứ mối quan hệ nào giữa việc trang trí những chiếc bình và những thuộc tính tổ chức xã hội đó. Trước khi lý giải các chức năng xã hội của hoa văn chúng ta cần có một khái niệm nào đó về ý nghĩa của các mẫu trang trí và những chiếc bình. Cần phải xem (Tr. 43) liệu những chiếc bình có phải dùng ở nhà, mang tính nghi lễ hoặc thể hiện uy thế không, liệu những hoa văn trang trí có khác nhau giữa những chiếc bình có công dụng khác nhau không, liệu những hoa văn được bố trí trên những đồ vật khác thì ngữ cảnh của hoa văn trang trí là gì trong cái tổng thể văn hoá đó...vv. Khi chúng ta tiếp cận được với các ý nghĩa ngữ cảnh này thì việc kết nối các cấu trúc trang trí với các chức năng xã hội mà chúng thể hiện sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Thêm một ví dụ nữa để làm sáng tỏ vấn đề này. Arnold (1983) đã chỉ rõ những nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và sử dụng không gian xã hội và môi trường ở Qinua (Peru) thể hiện trong việc bố trí không gian trang trí trên những đồ đựng có vẽ màu. Không gian môi trường xung quanh cái cộng đồng làm gốm đó được bố trí thành một loạt khu vực sinh thái được quây bít theo chiều ngang từ đồng bằng lên đến miền núi, mà toàn bộ các khu vực đó cần phải được khai thác để cộng đồng có thể sống tự cấp tự túc. Arnold đã liên hệ việc phân chia khu vực theo chiều ngang trong môi trường của họ với các trang trí được chia ô cũng theo chiều ngang trên những chiếc bình; hơn nữa các khu vực môi trường được khai thác cố định không thay đổi đó được phản ánh trong hiện tượng không mấy biến đổi trong các motif ở các ô tương đương trên những chiếc bình. Arnold đã coi việc phân chia cắt chéo môi trường và xã hội thành hai cộng đồng gắn liền với hệ thống thuỷ lợi được phân chia là ngang bằng với việc sử dụng tính đối xứng song phương trong trang trí gốm.

Arnold đưa ra rất ít thông tin ngữ cảnh ủng hộ cho những mối liên hệ được giả thuyết hoá giữa môi trường và cấu trúc trang trí. Vấn đề là ở chỗ tại sao người ta lại phải tin rằng có một mối liên hệ giữa hai loại phân vùng đó? Đó không phải là một ví dụ về việc nhà phân tích đang chơi với các mô hình và luôn luôn phát hiện ra một cái gì đó để gán vào đấy chứ? Trước khi các lý giải này trở nên đáng tin cậy thì những cấu trúc trừu tượng (các khu vực theo chiều ngang, các đối xứng song phương) đều phải được đặt trong ngữ cảnh sử dụng và nội dung ý nghĩa trong những tình huống văn hoá riêng biệt. Arnold đã đề cập vắn tắt rằng những chiếc bình được phân tích là những bình nước có cùng một chức năng với việc bố trí không gian cộng đồng dựa trên việc phân phối nước. Tính chất hợp lý của việc lý giải như vậy nên được tăng cường bằng việc khai thác thêm những mối gắn kết và liên tưởng như vậy. Có bất cứ biểu trưng hình vẽ nào gợi ý rằng những chiếc bình, những khu vực, các motif ấy “có nghĩa” là những khu vực môi trường, cao/thấp...vv không?

(Tr. 44) Trong các ví dụ trên thì cấu trúc trang trí được liên hệ với những cấu trúc khác mà không xem xét đầy đủ đến ngữ cảnh sử dụng các hiện vật có liên quan, hoặc không xem xét đầy đủ nội dung ý nghĩa của chúng. Hầu hết những trường hợp như vậy có thể thuộc về các phân tích cấu trúc các mô hình cư trú. Chẳng hạn Fritz (1978) đã xác định những mối quan hệ đối xứng trong việc tổ chức di chỉ ở Chaco Canyon. Những đối xứng cân bằng và bất cân bằng (được sắp xếp theo phương Tây Đông, Bắc Nam) xuất hiện ở giữa và bên trong cả hai khu vực và trong khu cư trú. Vậy là một mặt, các bố trí cấu trúc được coi là thích nghi, liên quan đến cấu trúc xã hội phân cấp, mặt khác liên quan đến các mối quan hệ đối xứng về phương diện xã hội. Trong khi quan tâm đến việc gán các ý nghĩa văn hoá (chẳng hạn thiêng/tục) cho những đối lập về không gian, thì tính chất hợp lý của lý lẽ sẽ tăng lên nếu chú ý nhiều hơn đến nội dung của không gian cư trú trong bối cảnh Chaco Canyan. Chúng ta cần phải đợi thêm bằng chứng về các di chỉ khác nhau và các bộ phận khác nhau của di chỉ trong mô hình cư trú được sử dụng làm bằng chứng.

Nếu không có một quan niệm nào đó về nội dung nghĩa của các yếu tố không gian hoặc trang trí thì khó mà nhận ra được các cấu trúc (Tr. 45) ý nghĩa có thể được lý giải như thế nào khi liên hệ với các khía cạnh của cuộc sống. Nhưng các ý nghĩa được gán cho như thế nào? Trong trường hợp này chúng ta có thể quay trở lại với công trình tiên phong của Leroi-Gourhan. Chắc chắn ông đã gán nghĩa (đàn ông, đàn bà) cho những bức tranh trên các vách hang thời đá cũ, và giá trị công trình của ông đã được tranh luận dưới nhiều góc độ. Theo tôi, những khiếm khuyết trong công trình của ông không phải xuất phát từ việc cố lý giải ý nghĩa, vì như chúng ta đã thấy, việc ấn định ý nghĩa cho văn hoá vật chất là bước phân tích cần thiết. Đúng ra những thiếu sót ấy bắt nguồn từ các thông tin hạn chế của chúng ta về thời đại đá cũ và xuất phát từ một sự thiếu thiện chí trong việc phê phán tính phổ biến của những định đề riêng của chúng ta. Leroi-Gourhan có ít thông tin liên quan đến các ký hiệu được sử dụng trong nghệ thuật tranh tường. Các mẫu trang trí có thể bị hạn chế (Tr. 46) vào một mức độ nhất định thông qua sự hạn chế của những lĩnh vực văn hoá khác (mộ, hiện vật, không gian cư trú) để xác định các liên tưởng giữa chúng. Chúng ta không thể dễ dàng xác định những ý nghĩa riêng của các motif trang trí này trong bối cảnh Đá cũ Tây Nam Pháp, đơn giản là vì các dữ liệu rất hạn chế.

Để lý giải nội dung ý nghĩa, người ta cần phải quyết tâm thực hiện những trừu tượng hoá từ những liên tưởng và đối lập trong di tích KCH. Điều này có thể được thực hiện bằng cách quan tâm hơn, và nghiêm nhặt hơn ở nơi – không giống như thời đại Đá cũ – có nhiều thông tin liên tưởng hơn dưới dạng những loại dữ liệu khác nhau. Một ví dụ về việc phân tích ngữ cảnh, mang tính liên tưởng trong đó các ý nghĩa được ấn định và các mối liên hệ được thực hiện giữa các cấu trúc xuất hiện trong các hoạt động khác nhau, được McGhee (1977) đưa ra bằng việc xem xét các di tích KCH tiền sử thuộc văn hoá Thule ở Canada Bắc cực. Ngay từ đầu ông đã thấy ngà voi và xương thú biển được tập hợp cùng với các đầu mũi lao ngạnh, trong khi các đầu mũi tên lại được làm bằng gạc hươu. Khi cố gắng tìm hiểu sự phân đôi này, McGhee đã xem xét các tập hợp ngà voi và gạc hươu khác cũng thuộc văn hoá Thule. Ngà voi được sử dụng làm công cụ, vũ khí săn thú biển: kính chắn tuyết, khung xuồng kayak, vòng khoá cổ chó,...vv. Những thứ khác được làm bằng ngà voi lại liên quan đến phụ nữ và với các hoạt động trong mùa đông: hộp đựng kim, giá đê khâu, các trang sức của phụ nữ, tượng người đàn bà-con chim nhỏ. Mặt khác gạc hươu lại gắn liền với các động vật có vú trên đất liền, đặc biệt là tuần lộc caribou, đàn ông và cuộc sống mùa hạ trên đất liền. Vì vậy cấu trúc tiếp theo xuất hiện dựa trên những tập hợp ngữ cảnh sừng hươu và ngà voi:

đất liền: biển:: mùa hè: mùa đông :: phụ nữ :: gạc hươu: ngà voi

Tập hợp những khác biệt cấu trúc ấy được soi sáng thêm thêm bằng cách chỉ ra rằng không có những lý do chức năng để nhất thiết phải sử dụng ngà voi và gạc hươu làm các công cụ đi săn và các loại vũ khí khác nhau. Hơn nữa bằng chứng dân tộc học và lịch sử đã chỉ ra rằng khái niệm môi trường của người Inuit được tập trung xung quanh sự phân đôi giữa đất liền và biển cả. Thịt caribou và động vật biển có vú không thể được nấu chung trong một nồi. Da caribou không được khâu trên băng biển. Trong huyền thoại của người Inuit lịch sử cũng thấy có các liên tưởng giữa đàn bà và động vật có vú ở biển và giữa đất liền, đàn ông và cuộc sống mùa hè cũng (Tr. 47). Bằng chứng như vậy không chứng tỏ thực chất khác biệt cơ bản đối với các dữ liệu KCH; nó chỉ đơn giản cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin ngữ cảnh hơn liên quan đến cấu trúc được đặt thành giả thuyết và các ý nghĩa của chúng.

Phân tích của McGhee là một ví dụ rõ ràng về việc phân tích cấu trúc có khả năng đạt tới sự nghiêm nhặt khi kết hợp với phân tích về ngữ cảnh và nội dung (chẳng hạn như trong văn hoá Thule thì ngà voi tập hợp cùng với thú biển và phụ nữ). Điều đó dường như hữu lý giúp ta hy vọng rằng khi bản chất “cứng” của khoa học KCH trở nên sáng tỏ thì một số loại phân tích cấu trúc luận liên quan đến việc ấn định ý nghĩa sẽ trở nên bình thường và dễ chấp nhận hơn. Có những tiềm năng to lớn để công việc phân tích trở nên cẩn trọng hơn mà cho đến giờ vẫn hiếm khi được khai thác. Chẳng hạn như có thể xác định những khác biệt trong việc sử dụng các bộ phận phải/ trái, trước/ sau, trung tâm/ ngoại vi của các ngôi nhà, các khu cư trú, các nghĩa địa, mồ mả, các vị trí thực hành nghi lễ...vv. Những phân đôi khác giữa lễ thức và đời thường, cuộc sống và cái chết cũng có thể được phát hiện.Tất cả những phân tích cấu trúc như vậy bao gồm một sự áp đặt nội dung ý nghĩa nào đó.

Thêm một ví dụ nữa về việc quan tâm tiềm năng là thuần hoá/ hoang dã liên quan đến bên trong/ bên ngoài khu cư trú. Richard và Thomas (1984) đã chỉ ra rằng các khu vực “bên trong” của khu Công trình Vòng đá thuộc thời đại đồ đồng ở Anh lại không có xương của những loài động vật hoang dã tương đương với các loài được thuần dưỡng mặc dù tất cả xương của động vật hoang dã đều thấy xuất hiện ở rìa của di chỉ này. Thomas (1988) và Thorpe (1984) đã lưu ý về những tính chất qui tắc trong việc đặt xương lợn và xương bò vào các mộ và khu vực xung quanh mộ Đá mới ở Anh. Việc “sắp xếp có cấu trúc” như vậy không chỉ xuất hiện trong các ngữ cảnh nghi thức. Trong thời đại đá mới Trung Âu có một sự thay đổi theo thời gian từ việc đổ bỏ đồ phế thải vào các hố dọc theo các cạnh nhà đến việc đổ bỏ đồ phế thải cách xa nhà về phía rìa của khu cư trú (Hodder 1990a). Việc thải “cứt” đã đánh dấu những gianh giới văn hoá và xã hội quan trọng nhất giữa sạch và bẩn, giữa văn hoá và tự nhiên, giữa ta và họ. Việc thay đổi trong hành vi thải rác trong thời đại đá mới châu Âu gắn liền với việc xác định ngày càng rõ ràng các gianh giới nhóm vượt khỏi qui mô hộ gia đình. Điều đó chứng tỏ những nhóm lớn hơn ngày càng phân gianh giới rõ ràng hơn, do vậy phế thải “cứt” trước hết (Tr. 48) được sử dụng để đánh dấu các gianh giới xung quanh nhà, lại được dùng để giúp xác định các thực thể lớn hơn. (Có một công trình khác nghiên cứu biểu tượng các gianh giới khu cư trú, xem Hall 1976).


Phê phán
Mặc dù cuốn sách này muốn tìm cách lý giải đầy đủ về mối liên hệ giữa duy tâm và duy vật, trong khi đó đóng góp của Levi-Strauss trước hết là hướng tới một lý thuyết về siêu cấu trúc. Các mối liên hệ với hạ tầng cơ sở không phải là tiêu điểm nghiên cứu.

Theo cách tiếp cận ký hiệu học đối với ngôn ngữ trong công trình của Saussure, một công trình có ảnh hưởng chủ yếu đối với cấu trúc luận thì mối quan tâm nghiên cứu là xem xét việc tổ chức các ký hiệu sao cho chúng có nghĩa. Vì vậy từ “cái bình” là một vật biểu nghĩa võ đoán của khái niệm được biểu nghĩa.

Người ta nghiên cứu mối liên hệ giữa vật biểu nghĩa và vật được biểu nghĩa, nhưng lại ít quan tâm đến bản thân cái “vật” đó – trong trường hợp này thì là một chiếc bình bằng vật thật. Những cách tiếp cận như vậy không giúp cho chúng ta tìm kiếm những mối tương liên giữa duy tâm và duy vật. Cần có sự vận động từ mã “ngôn ngữ” được cấu trúc trừu tượng đến diễn ngôn hoặc việc “giao tiếp tình huống” (Ricoeur 1971; Barrett 1987; Hodder 1989a).

Việc phân tích trừu tượng các dấu hiệu và ý nghĩa đặc biệt là một vấn đề trong KCH, vì trước hết nó liên quan đến văn hoá vật chất. Chúng ta đào bới các hiện vật cũng nhiều như chúng ta đào bới các ý tưởng vậy. Và chúng ta muốn xem mỗi đối tượng vừa với tư cách là một vật, kết quả của những quá trình sản xuất và hành động, lại vừa như một ký hiệu, vì hiện vật đó (chiếc bình) tự thân nó là vật biểu nghĩa cho những khái niệm khác (chẳng hạn bộ lạc “x”, hoặc các hoạt động của phụ nữ). Việc nghiên cứu văn hoá vật chất mời gọi chúng ta bắc cây cầu qua con sông ngăn cách giữa duy tâm và (Tr. 49) duy vật, nhưng cấu trúc luận lại ít trợ giúp được cho chúng ta trong lĩnh vực này.

Khi tìm kiếm các mối quan hệ giữa cấu trúc và quá trình (có nghĩa là tính đệ qui của cấu trúc và hành động) thì cấu trúc luận đóng một vai trò cần, nhưng chưa đủ. Từ “cái bình” có thể là vật biểu nghĩa cho khái niệm về một cái bình. Nhưng cũng tương tự như vậy, bản thân hiện vật này cũng có thể là vật biểu nghĩa cho ý niệm về một cái gì đó là một chiếc bình – có những ảnh hưởng tới cả hai cách. Người ta thừa nhận các cấu trúc là trung gian cho hành động trong thế giới, nhưng chúng cũng bị biến đổi bởi những hành động đó. Bình luận mang tính phê phán như vậy có thể được thực hiện theo một cách nào đó khác. Hơn nữa trong cấu trúc luận và trong hậu cấu trúc luận (Bapty và Yates 1990) thì cá nhân chỉ là thụ động. Ngoài ra lại còn bị điều tiết bởi các qui luật thích nghi, giờ đây cá nhân bị quyết định bởi các cấu trúc và/ hoặc các qui luật phổ biến của tư duy. Sự khiếm khuyết của quan điểm này có thể thấy rõ bằng cách đặt câu hỏi “một phong cách tốt là gì?” trong mối liên hệ với mẫu trang trí hoặc bất kỳ lĩnh vực có cấu trúc nào của hành động. Tính “phong cách” không đơn giản là vấn đề tuân thủ các qui tắc một cách bền bỉ. O’Neale (1932) đã chỉ rõ những người đan giỏ Anh điêng ven biển Bắc Clifornia nói rằng các mẫu thiết kế là “tốt” nếu chúng dễ chịu và được sắp xếp hợp lý, trong khi những mẫu thiết kế có sắp xếp lộn xộn thì bị cho là “xấu”. Nhưng bằng chứng khẩu ngữ như vậy chỉ hỗ trợ cho quan niệm về một phong cách được cấu trúc tồn tại-trong cấu trúc, hoặc thậm chí vượt khỏi giới hạn của mình, nó vẫn có thể được coi là “có phong cách”. Một ngôi sao nhạc pop như Boy George có thể tạo ra một phong cách mới, và được cho là có phong độ cao, mặc dù không hề có một ngữ pháp thiết kế nào tạo ra những lựa chọn quần áo, trang sức và những ẩn ý. Hơn nữa, Boy George lại tạo ra phong cách bằng việc sử dụng, tận dụng và biến đổi các nguyên tắc cấu trúc liên quan đến việc trang sức. Anh sử dụng cấu trúc về phương diện xã hội để tạo ra cấu trúc và xã hội mới.

Vì vậy các lý thuyết của chúng ta về cấu trúc phải tạo điều kiện cho vai trò của các cá nhân năng động. Trong hầu hết KCH cấu trúc thì các vai trò có vẻ như tạo ra một tập hợp các chuẩn mực chung: mỗi cá nhân trong xã hội đều được xác định là có cùng cấu trúc để nhận ra chúng từ cùng một góc độ và để gán cho chúng cùng một ý nghĩa. Đây là một quan điểm rất định chuẩn (như đã đề cập ở chương 1) mà cuốn sách này muốn xem xét lại.

(Tr. 50) Một khía cạnh mang tính phê phán khác là cấu trúc luận là phi lịch sử theo hai nghĩa. Trước hết Saussure nhấn mạnh đến tính chất võ đoán của ký hiệu. Bất cứ từ nào cũng có thể được sử dụng để biểu thị nghĩa cho khái niệm về một chiếc bình, và bất cứ một hiện vật hoặc không gian nào cũng có thể được sử dụng để biểu nghĩa cho tính giới hạn, giới tính, nhóm bộ lạc, mùa hè và mùa đông. Rõ ràng là còn thiếu những tiếp cận như vậy trong một bộ môn có thể sử dụng cách đó để các ký hiệu trở nên có ý nghĩa, không võ đoán thông qua những chuỗi lịch sử dài hạn. Thứ hai, chúng ta chưa biết rõ các biến đổi cấu trúc đã diễn ra như thế nào. Chắc là người ta có thể dễ dàng nói rằng biến đổi liên quan đến sự chuyển hoá cấu trúc, và đây là một quan niệm quan trọng; nhưng trong các phân tích cấu trúc, tự thân chúng có ít nhu cầu biến đổi, và khó mà biết được tại sao các biến đổi ấy lại xảy ra và tại sao chúng lại xảy ra theo một đường hướng như vậy, và tại sao hoặc như thế nào mà tự thân cấu trúc có thể thay đổi một cách triệt để. Vấn đề này nảy sinh từ mối quan hệ không đầy đủ giữa cấu trúc và quá trình và từ cách đánh giá quá thấp vai trò cá nhân năng động trong việc sáng tạo ra các cấu trúc.

Một loại phê phán rất khác nữa liên quan đến hậu cấu trúc luận (chẳng hạn như Tilley 1990a và b; Bapty và Yates 1990; Derrida 1976). Trong cấu trúc luận vật biểu nghĩa có được ý nghĩa nhờ những khác biệt của chúng với các vật biểu nghĩa khác. Nhưng tự thân những vật biểu nghĩa khác đó cũng chỉ có nghĩa bằng cách đối lập với chính những vật biểu nghĩa khác trong một chuỗi biểu thị ý nghĩa vô tận. Vì vậy luôn luôn có thể giải cấu trúc bất cứ phân tích cấu trúc nào giả định một hệ thống đối lập thuần tuý chặt chẽ. Thực ra thì có thể giải cấu trúc bất cứ phân tích nào đòi hỏi một tổng thể tính, một tổng thể hoặc một ý nghĩa gốc, một chân lý, vì những “nguồn gốc” ý nghĩa này luôn luôn phải tuỳ thuộc vào những vật biểu nghĩa khác. Những cách tiếp cận như vậy có giá trị lớn trong việc phê phán những tuyệt đối tính mà người ta vẫn đòi hỏi phải có trong một bài viết về KCH. Việc phân tích nội tại bất cứ văn bản KCH nào cũng đều cho thấy cái ở bên ngoài thì cũng rất cần thiết cho cái “bên trong”. Phân tích hậu cấu trúc cũng có giá trị phổ biến các quan niệm như quyền lực và chân lý (Foucault 1979; 1981) và làm phân mảnh khái niệm văn hoá (tr. 159). Tuy nhiên hậu cấu trúc luận cũng đã cơ bản giải cá nhân trung tâm luận, vì vậy mà đánh bẫy cá nhân trong chuỗi biểu hiện ý nghĩa. Tương tự như vậy, trong nhiều phiên bản, hậu cấu trúc luận (Tr. 51) đã không quan tâm đầy đủ đến các hiệu ứng của thế giới thực tại do các diễn ngôn tạo ra (Eagleton 1983). Vì vậy mà nó không thể thoát khỏi những phê phán chủ yếu được thực hiện trong cuốn sách này.

Sự minh xác
Có lẽ sự chỉ trích chủ yếu cấu trúc luận tập trung xung quanh quan niệm về sự minh xác. Làm thế nào để có được một KCH cấu trúc luận một cách nghiêm nhặt? Cấu trúc luận liên kết một cách mật thiết với trí tưởng tượng bay bổng, với những lý lẽ không có cơ sở, vì với trí tưởng tượng thì toàn bộ dữ liệu có thể được coi như là những chuyển đổi lẫn nhau và đều thuộc vào những cấu trúc cơ sở. Nhiều phân tích cấu trúc luận tỏ ra nghiêm nhặt và đã được chấp nhận một cách rộng rãi. Việc nhận thức rằng người ta có thể điều chỉnh các phân tích cấu trúc và xác quyết một số phân tích nào đó có thể tốt hơn những phân tích khác, hàm ý rằng có thể tìm thấy các thao tác để tạo ra những lý lẽ hợp lý (Wylie 1982).

Thao tác có giá trị phổ biến nhất được KCH cấu trúc chấp nhận dường như thể hiện rằng những cấu trúc tương đồng thường ẩn sau nhiều loại khác biệt dữ liệu trong cùng một ngữ cảnh lịch sử. Càng nhiều dữ liệu có thể cài vào cùng những nguyên tắc tổ chức thì càng đạt được tính hợp lý bằng tổ chức tự thân của các nguyên tắc đó. Như với trường hợp phân tích các hệ thống, phân tích cấu trúc sẽ có sức thuyết phục nếu nó có thể tập hợp được hoặc tạo được nghĩa của những dữ liệu tản mát không liên hệ gì với nhau từ trước. Khi chúng ta đã thấy việc đơn giản tìm kiếm một mô hình (phân vùng theo chiều ngang và theo chiều dọc, đối xứng và ...vv) là chưa đủ - thì chúng ta cũng cần tạo ra một trừu tượng hoá nào đó về ý nghĩa của mô hình. Vì vậy trong một phân tích thuyết phục của Deetz (1977) về việc thải bỏ đồ thừa, về táng thức và phong cách gốm trong các di chỉ Mỹ thời lịch sử, sự đối lập về thời gian giữa các trừu tượng hoá được ông gọi là đạo đức học cá nhân và cộng đồng có thể được coi là sợi dây xuyên suốt các nghiên cứu của ông, và có thể được sử dụng để giải thích một loạt khác biệt về các kiểu dữ liệu.

Khi nghiên cứu về các mối liên hệ cấu trúc trong thời đại đồ sắt tại di chỉ Glastonbury, Davis Clarke (1972) đã biện hộ cho trường hợp của mình bằng cách chỉ ra sự lặp lại của cùng một cấu trúc đàn ông:đàn bà trong (Tr. 52) các khuôn viên sống khác nhau, vào những thời kỳ khác nhau. Fritz (1978) đã tìm cách để phát hiện cùng một cấu trúc ở cấp vùng và cấp tiểu vùng. Tilley (1984) đã chỉ ra cách thức quan sát một trừu tượng hoá gọi là “tính giới hạn” để thay đổi đồng thời ở cả trang trí gốm và táng thức. Khi phân tích về thời đại Đá mới Orkney, tôi đã cố thử chứng tỏ rằng các cấu trúc trong cư trú, mộ táng và việc sử dụng các nghi thức không gian có thể tương liên với nhau, mặc dù rất khó có đủ dữ liệu (Hodder 1982a).

Câu hỏi về vấn đề minh xác cấu trúc – có phải các cấu trúc liên quan đến dữ liệu không? – là một câu hỏi mang tính qui ước. Toàn bộ các phân tích KCH đều liên quan đến việc lý giải cái thế giới thực tại trong quá trình quan sát, và sau đó làm cho các lý thuyết thích ứng với các quan sát để tạo ra một lý lẽ thích hợp – ngoài ra khó mà đòi hỏi được gì hơn nữa. Việc phân tích cấu trúc bắt nguồn từ chính những nguyên tắc như vậy. Ví dụ trong việc phân tích nghệ thuật Nuba (xem tr. 39 ở trên) cho thấy tính nghệ thuật càng cao thì càng khác biệt nhau, và cái mà ngữ pháp tạo sinh có thể tạo ra, thì ngữ pháp lại càng hợp lý. Chúng ta có thể hỏi liệu bất cứ mẫu trang trí nào xuất hiện cũng không tương hợp với các qui tắc không. Chẳng hạn có phải “các từ” vẫn kết hợp với nhau theo cạnh chứ không phải theo góc không? Sự thực thì  là hiếm nếu nó đã từng xuất hiện trong nghệ thuật đó. Tương tự như vậy có thể áp dụng cho một ký hiệu khác. Các motif đó không được thừa nhận về phương diện ngữ pháp và việc chúng vắng mặt trong nghệ thuật đã hỗ trợ cho bản thân ngữ pháp.

Việc thừa nhận các cấu trúc phải không được phổ quát là một điều quan trọng, và tính chất phổ quát của chúng không được phép làm thành một bộ phận chính của cái thao tác được hợp lý hoá đó. Tự thân các cấu trúc ấy là hoàn toàn riêng biệt (như trong trường hợp người Nuba sử dụng các mẫu trang trí cắt chéo). Nhưng đó là nội dung ý nghĩa đặc biệt, có thể có tầm quan trọng lịch sử riêng. Vì vậy hình chữ thập Nuba không chỉ là một cấu trúc trang trí – mà nó còn là một biểu tượng gây xúc cảm cao, với một tầm quan trọng lịch sử đặc thù, và tác động mạnh mẽ tới việc sử dụng nghệ thuật Nuba về phương diện xã hội (Hodder 1982a). Vì vậy một phần giá trị của các phân tích cấu trúc trong KCH phải quan tâm tới sự trừu tượng hoá các ý nghĩa riêng biệt gắn liền với các cấu trúc đó.

Trong một vài trường hợp, có sự liên tục lịch sử với hiện tại thì các ý nghĩa được ấn định cho quá khứ tỏ ra có sức thuyết phục. Vì vậy định nghĩa của Glassie (1975) về các loại công trình xây dựng, các mặt tiền nhà, các không gian trong phòng là “công cộng” hoặc “tư nhân”, hoặc sự (Tr. 53) liên tưởng của ông về tính bất đối xứng giữa “tự nhiên” và “hữu cơ” là có sức thuyết phục, vì nước Mỹ thế kỷ XVIII còn gần gũi với chúng ta. Về phương diện cá nhân, tôi lại càng không tin nếu sự không đối xứng được liên hệ với “cái hữu cơ” ở Kenya hoặc ở Hungari tiền sử. Đó là khi các ý nghĩa được áp dụng theo cách so sánh văn hoá, không có sự qui chiếu vào ngữ cảnh, thì sẽ nảy sinh những bất ổn. Vì vậy trong công trình mới đây, Leroi-Gourhan (1982) đã rất cẩn thận khi xác định các trang trí trong các hang động đá cũ là “đàn ông” hay “đàn bà”. Nhưng giai đoạn tiền sử nào có các dữ liệu mang tính liên tưởng và ngữ cảnh nhiều hơn, thì việc gán nghĩa cần phải được cấu trúc cẩn thận. Vì vậy trong thời đại đá mới châu Âu, tôi đã cho rằng các ngôi mộ có nghĩa là những ngôi nhà dựa trên cơ sở tám điểm tương đồng giữa chúng (Hodder 1984a). Các liên tưởng chức năng và ngữ cảnh cũng cho phép suy luận về tính chất tương đồng ý nghĩa. Rõ ràng chúng ta không thể ấn định với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng nếu một hiện vật được phát hiện trong một ngôi mộ đàn ông thì nó có những “phẩm chất” đàn ông, hay là một hiện vật được phát hiện tại một nơi hành lễ thì nó phải mang ý nghĩa “nghi lễ”, thế mà những ấn định như vậy lại thường được các nhà KCH thực hiện. Các ý nghĩa có thể được lý giải một cách hợp lý khi ngữ cảnh được xem xét cẩn thận và có phê phán. Chẳng hạn như Arnold đã gợi ý rằng việc phân vùng môi trường và trang trí theo mảng trên đồ gốm được liên tưởng với cái ngữ cảnh văn hoá riêng đó, vì cả những chiếc bình lẫn môi trường được phân vùng đều có chung những chức năng quản lý và dự trữ nguồn nước. Bằng cách xây dựng những liên tưởng ngữ cảnh như vậy, Arnold đã làm tăng tính hợp lý trong lập luận của ông, và những lý lẽ đó sẽ được củng cố thêm nếu có thể chứng tỏ được rằng các bình nước chỉ là những thứ được sử dụng trong các môi trường phân vùng theo chiều ngang, hoặc những chiếc bình được sử dụng cho những mục đích khác không hề được trang trí theo cách như vậy.

Vậy là sự phân đôi phải được thể hiện bằng cả lý giải chức năng và cấu trúc, khi ủng hộ cho một lý thuyết nào đó thì cần phải chỉ ra các dữ kiện đã không được lý giải một cách đầy đủ bằng các dữ kiện khác. Chắc chắn McGhee đã biện hộ cho trường hợp của ông khi cho rằng không hề có nhu cầu chức năng trong việc phân biệt ngà voi và gạc hươu thành các loại công cụ và vũ khí khác nhau. Loại lý lẽ này là bất chắc ở chỗ là nó thường giả định tính chất thống trị của thuộc tính chức năng, vật chất: các chức năng được lý giải trước tiên, và tất cả những gì (Tr. 54) còn lại thì đều là “tư duy”. Loại lý lẽ đó cũng xác quyết một cách ảo tưởng rằng có sự phân đôi giữa chức năng và ý nghĩa biểu tượng. Như ví dụ của McGhee đã chỉ rõ, một hiện vật có thể là một phần của một bộ công cụ, nhưng đồng thời nó cũng có thể là một phần của một tập hợp các loại đối tượng được cấu trúc. Là các nhà KCH chúng ta cần phải tính đến các yếu tố trầm tích và hậu trầm tích mà vẫn phát hiện ra các liên tưởng chức năng giữa các đối tượng trong di chỉ của chúng ta. Những liên kết chức năng như vậy đóng một phần vai trò trong ý nghĩa được ấn định cho các đối tượng – phần ý nghĩa nhận thức và biểu tượng của đối tượng xuất phát từ việc sử dụng chúng. Ở chương 2 chúng ta đã thấy rằng việc ấn định chức năng phụ thuộc vào việc ấn định ý nghĩa biểu tượng. Một lần nữa chúng ta quay trở lại với các khái niệm văn hoá vật chất vừa là hiện vật, vừa là ký hiệu, khái niệm ảnh hưởng hai chiều, khái niệm về một sự thống nhất cần thiết.

Vấn đề này có thể được làm sáng tỏ thông qua một ví dụ thuần tuý giả thuyết. Hãy tưởng tượng rằng một số ngôi nhà dài tiền sử được phát hiện trong một khu vực. Tất cả các ngôi nhà này đều được làm theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cửa mở về hướng Đông Nam. Thế là đã xuất hiện hai giả thuyết “xung đột nhau”: việc sắp xếp hướng nhà như vậy là vì gió luôn luôn thổi từ hướng Tây Bắc, hoặc trục Tây Bắc - Đông Nam có ý nghĩa biểu tượng. Cả hai giả thuyết này đều có thể đúng theo những cách khác nhau, trong đó một giả thuyết thì chỉ ra rằng gió thực sự thổi mạnh từ hướng Tây Bắc, còn giả thuyết kia thì bằng cách xác định cùng một cấu trúc nhưng lại thuộc lĩnh vực khác. Chẳng hạn trục Tây Bắc - Đông Nam cũng có thể được người ta chọn đặt hướng mộ, và hướng các công trình nghi lễ. Trục ấy còn phổ biến trong cả những xắp đặt khác khi sử dụng không gian cư trú. Nhưng thực ra thì cả hai giả thuyết này đều không mâu thuẫn với nhau. Khi gán nghĩa cho thế giới xung quanh mình, chúng ta thường sử dụng các vị trí của mặt trời, mặt trăng, các dòng sông, các quả núi, và hướng gió; tương tự như vậy, ý nghĩa biểu tượng gắn liền với gió và hướng gió thổi mạnh nhất sẽ tác động đến quyết định bố trí hướng nhà và nơi cư trú như thế nào. Vậy là việc sử dụng chức năng và các đặc điểm môi trường đều là những bộ phận của quá trình gán ý nghĩa cho thế giới, và thang giá trị của các cấu trúc ý nghĩa có lẽ không tuỳ thuộc vào việc giải quyết các yếu tố như vậy.

Chúng ta đã nhận ra rằng các luận giải cấu trúc hợp lý có thể được thực hiện bằng cách chỉ ra các cấu trúc đó lý giải nguyên do cho nhiều loại dữ liệu khác nhau. Cũng cần phải đặt các cấu trúc vào nội dung ý nghĩa của chúng và trong ngữ cảnh sử dụng chúng. Bằng những cách thức khác nhau ấy, dựa vào dữ liệu người ta có thể chỉ ra (Tr. 55) rằng bất kỳ lý lẽ nào cũng không đứng vững được. Vì vậy một loại hiện vật nào đó được giả định là “đàn ông” lại được phát hiện trong một mộ phụ nữ, hoặc một giai đoạn của các hoạt động “cộng đồng” lại có nhiều đặc trưng “cá nhân”, hoặc quá nhiều đầu mũi tên được làm bằng ngà voi. Tất nhiên người ta có thể lập luận rằng đã xuất hiện “chuyển đổi” cấu trúc trong các trường hợp không “thích hợp”, nhưng ở một giai đoạn nào đó thì tính chất khéo léo trí thức lại trở thành bất hợp lý, chí ít là đối với những trường hợp khác, và những cấu trúc khác nhau đã tìm được cách để lý giải dữ liệu.

Kết luận: Tầm vóc của KCH Cấu trúc

Trong chương này, chúng ta đã chuyển trọng tâm sang các mã biểu tượng và cấu trúc của tư duy. Chương tiếp theo sẽ mô tả những kiểu cấu trúc, xã hội và công nghệ khác. Tầm vóc chủ yếu của toàn bộ công trình như vậy trong KCH là ở chỗ nó đưa chúng ta tới những cấp độ phân tích khác. Chúng ta không còn bị giới hạn vào việc lượng hoá những gì hiện diện, mà còn có thể tiếp cận với việc lý giải cả những gì không hiện diện. Hệ thống không còn là tất cả những gì có ở đó – còn có cả những cấu trúc, thông qua chúng mà hệ thống có được hình thức của nó. Chúng ta vẫn chưa phát hiện đủ cái cá nhân trong một ngữ cảnh lịch sử và văn hoá, như phê phán ở trên đã làm sáng tỏ, nhưng trên con đường đi tới, chúng ta cũng đã đạt được một phương cách nào đó, đặc biệt là trong việc tìm hiểu văn hoá như là một hệ thống được cấu thành để có ý nghĩa.

Cấu trúc luận cung cấp cho chúng ta một phương pháp và một lý thuyết để phân tích các ý nghĩa văn hoá vật chất. Các nhà KCH quá trình đã quan tâm nhiều đến các chức năng của các biểu tượng. Như chúng ta đã thấy, chức năng là một thuộc tính quan trọng của ý nghĩa: việc sử dụng và liên tưởng chiếc bình với những thứ mà nó chứa đựng, với ngọn lửa nấu những thứ đồ ăn trong bình, với đồng nhất tính của bộ lạc,và với hệ thống tôn ty xã hội, tất cả đều quan trọng, mặc dù không phải là những nhân tố quyết định về những ý nghĩa biểu trưng của chiếc bình. Nhưng các nhà KCH quá trình đã không quan tâm đến việc tổ chức các liên tưởng chức năng đó thành các cấu trúc ý nghĩa. Bất kể những hạn chế của cấu trúc luận, nó vẫn đưa lại cho chúng ta một bước đi đầu tiên hướng về một cách tiếp cận rộng lớn hơn.

Tuy nhiên, cấu trúc luận trong bất kỳ cái lốt nào cũng vẫn đóng góp (Tr. 56) cho KCH, về bất kỳ đặc trưng, quan niệm biến đổi nào. Schiffer (1976) đương nhiên đã lưu ý đến tầm quan trọng của các biến đổi văn hoá, nhưng cấu trúc luận lại đem đến cho chúng ta một phương pháp và một cấp độ phân tích sâu hơn. Như Faris (1983) đã chỉ ra, văn hoá vật chất của chúng ta không đại diện cho các mối quan hệ xã hội – nhưng nó lại đại diện cho một lối nhìn chủ quan vào các mối quan hệ xã hội. Từ việc nghiên cứu những đồ phế thải bằng cách chỉ rõ những quan niệm về “cứt” đã nảy sinh từ đồ phế thải và các xã hội (Okely 1979; Moore 1982) đến việc chỉ rõ táng thức là một biến đổi nhận thức của xã hội (Parker Pearson 1982), đã chứng tỏ đóng góp của cấu trúc luận là rất rõ ràng. Có thể tiếp cận các qui luật biến đổi, và điều đó được khẳng định thông qua phân tích hệ thống.

Một đóng góp quan trọng tương tự và có liên quan là ở chỗ những lĩnh vực văn hoá vật chất và hành động của con người (mai táng, cư trú, nghệ thuật, trao đổi) có thể là những chuyển đổi của cùng một sơ đồ cơ bản, hoặc có thể là những chuyển đổi lẫn nhau. Hơn nữa, khi coi mỗi lĩnh vực là một phụ hệ thống riêng biệt, thì mỗi phụ hệ thống đó lại có thể gắn kết với phụ hệ thống khác với tư cách là những biểu hiện vẻ ngoài khác nhau của cùng những hệ thống mã như nhau. Quan niệm văn hoá được tạo thành bởi ý nghĩa có tầm quan trọng to lớn trong việc tập hợp các khuynh hướng khác nhau của các dữ liệu và phân tích KCH.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét