Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2010

TÌNH HÌNH QUẢNG CHÂU SAU CUỘC NỔI DẬY CỦA NÙNG TRÍ CAO

Morita Kentaro, Trường Đại học Waseda, Nhật Bản *


Tiểu luận này khảo sát về một giai đoạn lịch sử chi phối vùng Lãnh Nam của nhà Tống sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao.


Vùng Lãnh Nam từ Nam Việt đến thời Đường là phạm vi bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam hiện nay. Nhưng sau thế kỷ X, chính quyền độc lập xuất hiện liên tiếp và xây dụng nhà nước riêng ở miền Bắc Việt như nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê và nhà Lý. Do vậy, nhà Tống bình định nước Nam Hán mà không chiếm được miền Bắc Việt Nam. Sau đó nhà Tống trải qua cuộc xâm lược thất bại năm 980, mới thừa nhận chính quyền Đại Cồ Việt.


Đến thời nhà Lý, thế lực ấy dần dần bành trướng đến lưu vực Tả Giang, Hữu Giang, và có ảnh hưởng đến các thế lực sống ở lưu vực đó. Đến thời Tống Nhân Tông, Nùng Trí
Cao là một thủ lĩnh thế lực ở châu Quảng Nguyên, tiếp sức với cả nhà Lý lẫn nhà Tống để giữ thế lực riêng. Nhưng đến năm 1052, vì không những phải đối diện với nhà Lý mà còn bị nhà Tống cự tuyệt nộp cống của mình, Nùng Trí Cao khởi binh, trước hết đi chiếm Ung Châu, rồi xưng là Nhân Huệ hoàng đế, lập nước Đại Nam và đổi niên hiệu là Khải Lịch, giao cho Hoàng Vị, Hoàng Sư Mật… một chức quan theo chế độ phong kiến Trung Quốc. Cuối cùng, mặc dù không chiếm được thành Quảng Châu và thua quân Tống do Địch Thanh thống lĩnh nhưng cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao không chỉ lan rộng khắp vùng Lãnh Nam mà còn bộc lộ sự yếu kém của chế độ chi phối Lãnh Nam của nhà Tống.


Quảng Châu vừa là trung tâm chi phối Lãnh Nam, vừa là hải cảng quan trọng nhất trong nhà Tống về ngoại thương Nam Hải, và tất cả sản vật vùng Lãnh Nam tập trung ở đó. Nhưng Quảng Châu đã bị quân Nùng Trí Cao phá hủy một cách nghiêm trọng mặc dù không bị đánh chiếm.
Thành Quảng Châu có rất nhiều truyền thuyết liên quan với Nùng Trí Cao. Trong báo cáo này, bằng những truyền thuyết đó, tôi sẽ khảo sát về những đặc điểm trong quá trình khôi phục thành Quảng Châu và quan hệ giữa sự khôi phục Quảng Châu và bang giao Việt – Tống.




1. Sự vây thành Quảng Châu và tín ngưỡng Nam Hải thần


Ngày Quí Sửu tháng 5 năm 1052, Nùng Trí Cao đem quân từ Ung Châu tiến sang phía đông và chiếm được các thành châu bên sông Úc là châu Hoành, Quý, Củng, Tầm,
Đằng, Ngô, Phong, Khang, Đoạn và đến dưới thành Quảng Châu trong vòng 2 tuần. Sở dĩ vậy là vì các châu ở Quảng Nam lộ như trên đều không có binh lực đầy đủ để chống lại. Cho nên hầu hết tri châu đều bỏ thành trốn, trừ 2 người tri châu của Phong và Khang. Từ ngày Bính Dần, Nùng Trí Cao đã bắt đầu vây đánh thành Quảng Châu. Nhưng 57 ngày mà không hạ được thành nên Nùng Trí Cao phải rút về Quảng Tây.
Theo các tài liệu Trung Quốc, lý do mà Quảng Châu không bị quân Nùng hạ thành là nhờ Ngụy Quán, làm tri châu năm 1045, bổ sung thành trì theo sáng kiến của Nhậm Trung Sư là tri châu Quảng Châu trước. Tục tư trị thông giám trường biên (sau này viết tắt là TB) chép rằng “Đầu tiên Ngụy Quán xây thành Quảng Châu, đào giếng để tích trữ nước, làm nỏ to cho [việc] hộ thành. Mặc dù quân Nùng Trí Cao đánh thành một cách nghiêm trọng, thậm chí chắn nước vào thành, nhưng thành vẫn kiên cố, nước giếng không hết, nỏ bắn thì trúng, trúng thì xuyên qua, do vậy thế lực địch dần dần yếu đi [1] ”. Nhưng khi đó thành Quảng Châu vẫn hẹp, hơn nữa không có la thành. Vì thế khi mà quân Nùng Trí Cao đi dưới thành, vô số cư dân ở bên ngoài thành đều muốn vào thành bằng cách hối lộ, rất nhiều người không thể vào được đã gia nhập đội ngũ quân Trí Cao[2].


Sau khi Nùng Trí Cao rút về, Ngụy Quán làm tri Quảng Châu lại và Nguyên Giáng là Quảng Đông chuyển vận sứ cùng tu bổ thành trị để nhằm sự chống lại quân Nùng Trí Cao sang lại. Theo Tống hội yếu tập cảo (sau này viết tắt là THY) chép, Ngụy Quán và Nguyên Giáng đã tuyển mộ các phú hộ và đinh nam cả Hán lẫn Ngoại Man để làm công trình xây thành [3].
Sau đó nhà Tống không chỉ tu bổ thành mà còn tích cực phổ biến tín ngưỡng một vị thần ở Quảng Châu, đó là “Nam Hải quảng lợi vương”, tên tắt là “Nam Hải thần”. Năm
1053, nhà Tống phong cho vị thần ấy thêm hiệu là “Thiều Thuận” vì có linh nghiệm cho việc chống lại Nùng Trí Cao [4]. Theo văn khắc Hoàng Hưu 5 niên điệp (đó là bia kỷ niệm cho phong hiệu thêm đó) chép rằng, Nguyên Giáng nghe những người Quảng Châu nói là nhờ Nùng Trí Cao đến Quảng Châu muộn vì đột ngột bị bão trên đường từ Đoạn Châu, Quảng Châu đã có thời gian chuẩn bị bảo vệ thành. Sau bị Nùng Trí Cao vây thành, Nùng Trí Cao vẫn không thể tuỳ tiện đánh được vì bão, nhưng trong thành người ta có thể giải thoát cơn khát được. Hơn nữa khi nào Quảng Châu bị gặp nguy cơ, thiên biến cũng nổ ra và khiến cho Nùng Trí Cao hoảng sợ và rút về. Nguyên Giáng tin tưởng rằng tất cả linh nghiệm của Nam Hải thần nói trên là không những nhờ tất cả quan viên và nhân dân Quảng Châu cầu kinh mà còn nhờ Tống Nhân Tông rất lo nghĩ tình trạng phương nam, và nài xin triều đình phong cho Nam Hải thần và vợ của Nam Hải thần thêm hiệu [5].
Các quan viên và nhân dân Quảng Châu cầu nguyện cho Nam Hải thần là vì Nam Hải thần vừa là vị thần bảo vệ hàng hải gần gũi nhất đối với người Quảng Châu, vừa là vị
thần chủ quản an ninh phương nam đối với các vương triều phong kiến Trung Quốc. Đời nhà Tống, bất cứ tàu biển nào đi lại Quảng Châu, mặc dù đó là tàu nước ngoài cũng phải đến miếu và thờ Nam Hải thần, thậm chí các quan viên cũng vậy.
Đến thời kỳ Gia Hựu (1056 – 1063), tín ngưỡng Nam Hải thần vẫn thịnh đạt. Năm 1063, miếu Nam Hải thần do Dư Tĩnh là tri Quảng Châu xây dựng lại. Dư Tĩnh là người
Thiều Châu có công lao về cuộc chiến với Nùng Trí Cao. Văn khắc Trùng tu Nam Hải miếu bi chép rằng, khi mà quân Quảng Nguyên xâm lược, nhiều người dân bị chết và người còn lại cũng lưu lạc nên chiến tranh đã kết thúc, sau đó về quê rồi mà người dân không được thu hoạch nhiều như trước. Nhưng đến mùa thu năm 1062 thì thời tiết ổn định, thu hoạch được mùa, những người dân không có dịch bệnh, trên biển không có bão, và trong 9 huyện và 15 châu chỗ nào cũng không bị trộm cướp xâm lược. Cho nên người dân nói với nhau là tất cả điều tốt dạo này đều nhờ chính trị của phủ soái (Dư Tĩnh) và linh nghiệm của Nam Hải thần. Họ đi đến phủ Quảng Châu và kính cẩn yêu cầu về việc miếu thờ Nam Hải thần hiện nay bị cũ rồi nên họ rất mong muốn tự đầu tư và xây dựng lại miếu đó để đáp lễ cho tất cả lịnh nghiệm của vị thần đó. Dư Tĩnh cũng rất đồng lòng [6].


Như vậy, có thể nói là qua mười năm sau sự kiện Nùng Trí Cao, triều đình Tống và người Quảng Châu vẫn tôn sùng Nam Hải thần để cho khu vực Quảng Đông khôi phục lại
và bình yên. Đối với nhà Tống và các quan viên và người dân ở khu vực Quảng Đông, Nam Hải thần không chỉ là vị thần bảo vệ hàng hải mà còn đã hoàn toàn trở thành là vị thần chính chủ quản an ninh phương nam Trung Quốc.
Tóm lại, do cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, nhà Tống tán dương sự linh nghiệm của Nam Hải thần và xây lại miếu thần để lấy lòng người Quảng Châu.




2. Sự phát triển thành Quảng Châu trong thời kỳ Hy Ninh


Trong Thời kỳ Hy Ninh (1068 – 1077), nhà Tống tiến hành xây dựng lại ở Quảng Châu. Đó là việc xây dựng thành trị, châu học và quan Thiên Khánh.




2.1. Xây rộng châu thành


Sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, nhà Tống khiến cho tri Quảng Châu xây dựng la thành. Nhưng trong nhiều năm các tri châu không xây được la thành vì trong đất của Quảng Châu có nhiều vỏ hến, không thích hợp với việc xây dựng.
Nhưng ngày 23 tháng 4 năm 1068, Lữ Cư Giản, là tri Quảng Châu trước, đề nghị xây dựng thành mới ở địa thành xưa, liên kết với bên đông “Thành Tử”. Địa thành xưa là một bộ phận của thành Việt do Triệu Đà nước Nam Việt xây dựng. Vì thế, đến cuối năm ấy thành mới được xây dựng, đó là “Đông Thành” [7] .
Sau đó, tháng 10 năm 1072, Trình Sư Mạnh là tri Quảng Châu xây dựng thành mới thứ hai, đó là “Tây Thành”. Sự nghiệp đó không chỉ do tri Quảng Châu và Giám ty Quảng
Đông cùng làm mà còn do triều đình cũng sai người xây thành giỏi để giúp cho [8]. Như vậy, có thể nhận xét được là sự nghiệp xây rộng thành Quảng Châu là sự việc quan trọng nhất đối với nhà Tống. Thành Quảng Châu được mở rộng qui mô từ cuộc chiến với Nùng Trí Cao, và trở thành một ngôi thành lớn bao gồm 3 ngôi thành nhỏ (Thành Tử, Đông Thành và Tây Thành).


Hơn nữa theo THY chép, Tân Áp Đà La là sứ nộp cống của nước Vật Tuần Đại Thực, muốn hiến tiền bạc để giúp cho sự nghiệp xây lại thành Quảng Châu và xin cho phép
làm quan “Phiên Trường”. Và triều đình trả lời là không cự tuyệt, việc Tân Áp Đà La hiến tiền và làm Phiên Trường thì tùy Quảng Châu xét đoán [9]. Như thế, sự nghiệp xây thành không chỉ nhà Tống tích cực tổ chức mà còn nhiều người Phiên ở Quảng Châu cũng rất quan tâm và muốn cùng tham gia cho sự việc đó.




2.2. Thiết lập châu học




Châu học là một trường học quốc lập ở các châu của nhà Tống. Năm 1044, Tống Nhân Tông ra chiếu chỉ cho các châu trong khắp nước để xây trường. Châu học Quảng Châu được coi là một trung tâm quan trọng giáo hóa các sĩ phu Quảng Châu để nhằm mục đích tăng thêm tiến sĩ và khiến cho văn hóa Nho giáo phổ biến rộng rãi. Vì thế châu học Quảng Châu có quan hệ mật thiết với sự chi phối vùng Lĩnh Nam của nhà Tống.


Châu học Quảng Châu đầu tiên được thiết lập ở miếu Phu tử, miếu này ở chợ Phiên, phía tây của Thành Tử. Nhưng miếu đó không rộng lắm nên không thể thu dụng được nhiều môn sinh. Năm 1050, Điền Du là tri Quảng Châu chuyển trường sang phía đông nam của Thành Tử. Đến đầu năm Hy Ninh (1068) vì sự nghiệp xây lại Đông Thành, châu học mới có kế hoạch xây dựng ở phía tây của Thành Tử, bên đông của chùa Quốc Khánh. Nhưng vì Trương Điền là tri châu đột nhiên qua đời nên sự nghiệp xây trường bị trì hoãn. Sau đó Lưu Phú là người Quảng Châu, tự đầu tư kế thừa việc xây dựng nhưng Quảng Đông chuyển vận sứ là Trần An Đạo không cho phép và cấp tiền tiếp tục xây trường, đến năm 1071 thì làm xong. Trình Sư Mạnh là quan tri châu đã tích cực miệt mài quảng bá châu học và giáo hóa sĩ phu [10].
Về một người Quảng Châu Lưu Phú nêu trên, Học điền ký chép rằng, trong khi Trình Sư Mạnh làm tri châu, Lưu Phú đang làm quan chức Thí tương tác giám chủ bộ. Một hôm,
Lưu Phú chạy đến phủ và nói với tri châu là “Tôi có đất ở bên cạnh thành rất tốt, tôi đã xây lại nhà cửa và kho hàng ở đấy, tiền đã mất tất cả là 1 triệu 5 trăm nghìn, xin phép cho tôi hiến tất cả cho kinh doanh châu học”. Trình Sư Mạnh đã đồng ý [11].
Ngoài ra, những địa phương chí cũng lập truyện cho Lưu Phú. Theo các tài liệu, Lưu Phú từng là tiến sĩ của kỳ thi hương được tổ chức thời Chí Hòa (1054 – 1056) [12]. Còn theo TB chép, năm 1076 nhà Tống ra chiếu sai sứ đến Chiêm Thành và Chân Lập nhằm mục đích khiến cho hai nước tấn công nhà Lý cùng với nhà Tống. Triều Tống cho Hứa Ngạn Tiên và Lưu Sơ tuyển bổ vài người làm ngoại thương để tổ chức đoàn ngoại giao thì Lưu Phú đã làm sứ đến Chân Lạp [13]. Vì vậy, lý lịch của Lưu Phú rất phong phú và đáng chú ý.


Ngoài ra, thời kỳ Trình Sư Mạnh làm tri châu, Tân Áp Đà La cũng yêu cầu xây dựng nhà trường cho người Phiên [14]. Đời nhà Tống đã có kinh nghiệm xây dựng trường học như vậy ở biên giới với nước Tây Hạ. Trong trường học đó có một giáo sư biết rõ ngôn ngữ và chữ viết của khu vực đó giảng dạy kinh thư và kinh phật [15]. Phiên học của Tân Áp Đà La là Phiên học đầu tiên ở Quảng Châu.




2.3. Xây lại quán Thiên Khánh




Quán Thiên Khánh là một ngôi quán quốc lập, bắt đầu xây dựng năm 1009, Tống Chân Tông ra chiếu xây dựng quán đó trong khắp nước. Quán Thiên Khánh ở Quảng Châu đầu tiên đã từng ở phía tây nam bên ngoài Thành Tử nhưng bị quân Nùng Trí Cao phá hủy [16]. Văn bia Quảng Đông trùng tu Thiên Khánh quán ký chép rằng “Hoàng Hựu năm thứ 4 (1052), quân Nùng Quảng Nguyên [nhân quân Tống] không có phòng bị, đi theo sông đến Phiên Ngung – Quảng Châu – một cách thầm vụng, ở ngoài Thành Tử, ngôi điện quán bị tai nạn và đã hoàn toàn cháy thành tro tàn. Hoang phế như vậy thì ai có thể xây lại, nếu một người không phải là người giàu và thích theo đạo, chăm chỉ cầu phúc thì ai dám quan tâm đến đó?” [17]


Mặc dù vậy, theo văn bia Quảng Đông trùng tu Thiên Khánh quán ký tiếp chép, trong thời kỳ Trị Bình (1064 – 1067), sứ giả của Địa Hoa Ca La, là “Địa chủ đô thủ lĩnh”
của nước Tam Phật Tề Chu Liễn Quốc, đi thấy địa điểm quán đó và báo cho Địa Hoa Ca La biết. Địa Hoa Ca La bất ngờ muốn tôn sùng Đạo giáo, đến năm 1067, Địa Hoa Ca La sai sứ đến Quảng Châu và được cho phép, sau đó bắt đầu xây đựng lại quán đó. Còn Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư có một truyện lạ về quá trình mà Địa Hoa Ca La muốn tôn sùng Đạo giáo. Theo truyện đó, khi mà tàu biển sứ giả bị đắm vì bão thì một ông lão xuất hiện giữa mây và bình định sóng gió. Khi đến Quảng Châu, sứ giả đi qua di chỉ quán Thiên Khánh thì bất ngờ phát hiện một bức tượng của Lão Tử, giống như đúc với ông ấy. Sau đó đến năm 1079, sự việc xây dựng xong rồi thì văn bia như trên được làm [18].
Dù truyện đó là sự thật hay không, sự việc xây dựng quán Thiên Khánh chắc chắn là có ảnh hưởng tốt cho nhà Tống đối với Địa Hoa Ca La. Sở dĩ vậy là vì quán Thiên Khánh
vốn là cơ quan tín ngưỡng quan trọng nhất trong thành Quảng Châu đối với nhà Tống. Trải qua sự việc xây lại quán Thiên Khánh, Địa Hoa Ca La chắc chắn tạo mối quan hệ mật thiết được với nhà Tống và được lợi ích nhiều, còn theo nhà Tống, những “Man di” hoài mộ văn hóa Trung Hoa là điều tốt và rất tiện lợi cho sự tuyên bố trên khắp thế giới.


Như đã nói ở trên, thời kỳ Hy Ninh nhà Tống đã cố gắng làm các sự nghiệp lớn như trên và kết quả có thể nói là Quảng Châu không chỉ chống đỡ những vết thương do Nùng Trí Cao tấn công, mà còn phát triển mở rộng hơn so với ngày xưa. Nhưng sự kiện nào đều được những người sống ở Quảng Châu quan tâm đến nhiều và tích cực tham gia, còn các quan viên Quảng Châu cũng hay lắng nghe góp ý của họ chứ không có quan tâm đến nguyện vọng của họ đâu. Trước khi làm ba việc đó, nhà Tống đã làm một sự việc khác, đó là sự chấn hưng tín ngưỡng Nam Hải thần đã nói trên. Sự việc đó cũng là một việc rất quan trọng khi triều đình làm theo ý kiến của người Quảng Châu sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao.
Còn các sự nghiệp nói trên sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao đều có quan hệ mật thiết với người Quảng Châu về ngoại thương Nam Hải.
Lý do thứ nhất là Nam Hải thần vốn là vị thần bảo vệ hàng hải an ninh cho người Quảng Châu. Người dân đều nhớ đến sự linh nghiệm của Nam Hải thần và rất muốn triều
định xưng tụng Nam Hải thần, chấn hưng tín ngưỡng mạnh mẽ hơn trước.


Lý do thứ hai là ba nhân vật nêu trên là Lưu Phú, Tân Áp Đà La và Địa Hoa Ca La. Họ đều làm ngoại thương Nam Hải. Sở dĩ Lưu Phú được tuyển mộ sứ giả đến Chiêm Thành
và Chân Lạp là vì Lưu Phú không chỉ được quan chức trong thời Hy Ninh, mà còn có lẽ vốn là nhà buôn đã có kinh nghiệm đi biển Nam Hải. Còn Tân Áp Đà La là người sứ nước Vật Tuần Đại Thực và có lẽ vừa làm quan chức Phiên Trường. Và Địa Hoa Ca La là thủ lĩnh nước Tam Phật Tề Chú Liễn Quốc.
Cho nên có thể nói là sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, nhờ những người làm ngoại thương Nam Hải cống hiến lớn cho sự thống trị Quảng Châu, triều đình Tống và Quảng Châu mới tổ chức thuận lơi các sự nghiệp quan trọng và làm cho tình hình ngoại thương Nam Hải ở Quảng Châu sôi nổi hơn trước.
Tóm lại, điều đặc điểm quan trọng nhất trong cuộc khôi phục Quảng Châu là nhà Tống gắn liền sự nghiệp khôi phục Quảng Châu với ngoại thương Nam Hải ở Quảng Châu vì ngoại thương Nam Hải có thể nói là sự nghiệp rất quan trọng ở Quảng Châu đối với nhà Tống.




3. Quan hệ giữa chính sách sai sứ sang Chiêm Thành và khôi phục của Quảng Châu




Sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, nhà Tống do sự nghiệp khôi phục Quảng Châu làm cho quan hệ với ngoại thương Nam Hải gắn bó mật thiết. Bởi vậy, ngoại thương Nam
Hải cũng phồn vinh trở lại như trước khi Nùng Trí Cao vây đánh thành Quảng Châu. Vậy thì cuộc khôi phục Quảng Châu có vai trò gì cho quan hệ Việt – Tống?


Do bị Nùng Trí Cao xâm lược, nhà Tống mới tích cực chi phối lưu vực Tả Giang và Hữu Giang một cách mạnh mẽ, ví dụ làm việc huấn luyện các khê động biên giới và dụ
hàng họ và dòng dõi Nùng Trí Cao nội phụ, tên là Nùng Tông Đán, Nùng Thiện Mỹ và Nùng Trí Hội. Trong hoạt động đó, năm 1060, lúc nhà Lý khiến cho Thân Thiệu Thái thống lĩnh quân đội của mình, tấn công vào Ung Châu đánh quân Tống, nhà Tống ra chiếu phong Tiêu Cố là tri Quế Châu tổng binh, chống lại quân Giao Chỉ với Tống Hàm làm chuyển vận sứ và Lý Sư Trung làm Đề điểm hình ngục, bổ nhiệm Dư Tĩnh Quảng Nam Tây lộ thể lượng an phủ sứ xuất binh đánh quân Giao Chỉ. Dư Tĩnh đi đến Ung Châu rồi đề nghị tổ chức cuộc đàm phán cho Giao Chỉ, sau đó Dư Tĩnh hỏi Phí Gia Hựu bộ trưởng nhà Lý về lý do xâm lược của Thân Thiệu Thái và yêu cầu trả lại những người bị bắt trong hội đàm đó. Phí Gia Hựu biện giải nên Dư Tĩnh đã hối lộ Hựu nhiều. Nhưng khi Phí Gia Hựu báo cáo về triều đình nhưng nhà Lý không đồng ý. Nhưng năm 1062, Lý Nhật Tôn báo cho nhà Tống rằng, theo Chiêm Thành báo, Dư Tĩnh sai sứ đến Chiêm Thành để kêu gọi tấn công đến Giao Chỉ với quân Quảng Năm Tây lộ [19].


Hơn nữa, trong thời Hy Ninh, tình hình quan hệ Việt – Tống ngày càng căng thẳng vì Vương An Thạch được cầm quyền, nhà Tống và muốn xâm lược nhà Lý. Vương An Thạch làm cho Lưu Di và Thẩm Khỉ biên chế quân khê động. Nhà Lý quan sát rồi do Lý Thường Kiệt thống lĩnh quân đội và nhân khi nhà Tống không đề phòng, bất ngờ đánh Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu cuối năm 1075. Vì thế, nhà Tống sai Quách Quỳ đi xâm lược Giao Chỉ. Cuộc chiến tranh Tống – Việt rơi vào thế giằng co, đến đầu năm 1077 hai bên ký hoà ước. Trong cuộc chiến tranh đó, nhà Tống dùng thủy quân để tấn công vào Giao Chỉ, và sai sứ lại đến Chiêm Thành, Châu Lạp để yêu cầu cùng đánh Giao Chỉ.
Như vậy, nhà Tống thích dùng sách lược sai sứ đến Chiêm Thành để đối sử với Giao Chỉ sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao. Vậy nhà Tống đã được tin tức về quan hệ giữa Giao Chỉ và Chiêm Thành như thế nào?
Đến thế kỷ 10 sau, tình hình giao thông biển Nam Hải thay đổi nhiều, nhất là giữa Quảng Đông và Chiêm Thành có đường trực tiếp, không cần đi qua vùng duyên hải Giao Chỉ nữa [20]. Vì thế, nhà Tống và Chiêm Thành hai nước cũng có thể tránh qua Giao Chỉ và liên lạc trực tiếp với nhau được.
Từ đầu đời Tống, Chiêm Thành cũng có quan hệ triều cống với nhà Tống như Giao Chỉ. Và hầu hết hàng năm Chiêm Thành sai sứ đến cống ở Quảng Châu. Cho nên nhà Tống do triều cống của hai nước có thể biết tình trạng của quan hệ giữa Giao Chỉ vả Chiêm Thành được. Đôi khi Giao Chỉ báo tin tức về chiến thắng đánh Chiêm Thành. Năm 981, Lê Hoàn xin cho phép hiến 93 người tù Chiêm Thành cho nhà Tống, nhà Tống an ủi họ ở Quảng Châu sau đó trả lại cho Chiêm Thành. Và bởi vì bị Giao Chỉ áp bức, nạn dân Chiêm Thành sang Quảng Nam lộ nhiều lần rồi [21]. Ngoài ra, năm 1045, nhà Tống biết Lý Đức Chính tuyển binh rồi cho Quảng Nam Đông lộ chuyển vận sứ tuyển người lẻn vào Giao Chỉ để thăm dò thực trạng, và năm sau thì nhà Tống kiểm tra tất cả 16 con đường thủy, đường bộ quan trọng đến Giao Chỉ và cho Đỗ Kỷ – Quảng Tây chuyển vận sứ phòng giữ các đường đó [22].


Vì vậy, nhà Tống đã được tin tức về Giao Chỉ và Chiêm Thành từ lập nước thông qua hoạt động của Giao Chỉ. Nhưng nhà Tống tiêu cực chi phối vùng biên giới Lãnh Nam và
không muốn xảy ra vấn đề đến quan hệ với Giao Chỉ mặc dù Giao Chỉ bành trướng đến biên giới. Cho nên khi đó thì nhà Tống đương nhiên không có ý làm Chiêm Thành kiềm chế Giao Chỉ. Nhưng sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, nhà Tống mới tích cực đối xử với Giao Chỉ và theo các ý kiến của người công lao đánh Nùng Trí Cao như Dư Tĩnh.
Năm 1061, Dư Tĩnh được quan chức ở Quảng Châu sau hội đàm với Giao Chỉ. Dư Tĩnh không chỉ làm tri châu mà còn làm quan chức Kinh lược an phủ sứ, bản lộ khuyến
nông sứ, đề cử thị bách sứ, đề điểm bạc đồng trường công sự và Quảng Nam Đông lộ đô kiềm hạt [23]. Như vậy, nhà Tống ủy nhiệm Dư Tĩnh hầu hết tất cả quyền lực thống trị Quảng Đông về chính trị, quân sự, kinh tế, và ngoại thương.
Mặc dù chỉ có một số tài liệu viết về sự nghiệp của Dư Tĩnh ở Quảng Châu, nhưng do đó, ví dụ là tiếp xúc với Chiêm Thành và trùng tu Nam Hải thần miếu, có thể thấy được là Dư Tĩnh chắc chắn có quan tâm nhiều đến giao thông Nam Hải. Theo người Tống, tàu biển nước ngoài đến Quảng Châu thực sự không nhiều lắm [24]. Nhà Tống cho tri Quảng Châu và Quảng Đông chuyển vận sứ cố gắng khuyến khích tàu nước ngoài sang lại. Hơn nữa chế độ Quảng Châu thị bách ty cũng ngày càng mục nát. Vì vậy, trong khi làm ở Quảng Châu, Dư Tĩnh tích cực cải cách chế độ giao dịch, bãi bỏ quan thuế và cấm các quan viên tự mua hàng hóa ngoại lai thoải mái để khuyến tàu ngoại thương sang Quảng Châu [25]. Vậy thì ngoại thương Nam Hải có liên quan với bang giao với Giao Chỉ như thế nào?
Trước nhà Tống, quan hệ đối ngoại của các triều đại Trung Quốc đều được cấu trúc bằng 2 quan niệm, đó là giao dịch triều cống và chế độ sách phong. Đến đời Tống, những
quan niệm đó vẫn tồn tại nhưng tình trạng quốc tế xung quanh nhà Tống đặc biệt khó khăn, nên nhà Tống không thể thực hiện hoàn thành được chức năng của 2 quan niệm đó. Thế kỷ 10~13, chế độ ngoại thương quốc tế chủ yếu được cấu trúc bằng hoạt động hăng hái của “Hải thương”. Cho nên nhà Tống thường tạo quan hệ với nước ngoài nhờ ngoại thương dân gian. Theo nghiên cứu của học giả Nhật, khi nào nhà Tống muốn đi biển để tiếp xúc với các nước trên thì thường tặng quan chức cho người buôn nào giao dịch thường xuyên với nước ấy và uỷ nhiệm người đó làm mối, hay là khiến cho cơ quan nào đó tuyển mộ người buôn rồi tặng quan chức cho người đó và làm người hướng dẫn như Lưu Phú [26]. Vì thế, tình hình phát triển ngoại thương Nam Hải chắc có ảnh hưởng sâu sắc đến bang giao nước ngoài của nhà Tống. Vì vậy, nếu nhà Tống muốn làm quan hệ mật thiết với Chiêm Thành để đánh Giao Chỉ thì không thể không nhờ hoạt động của người buôn Nam Hải được. Vì vậy, các tri Quảng châu như Dư Tĩnh và Trình Sư Mạnh đều tích cực làm khôi phục Quảng Châu và thu hút các người buôn Nam Hải. Khảo sát như thế, sự nghiệp khôi phục Quảng Châu sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao thì không chỉ phát triển thành Quảng Châu mà còn khôi phục tình trạng ngoại thương Nam Hải, do đó nhà Tống mới có chính sách tích cực với Giao Chỉ.


Kết luận




Tóm lại, cuộc vây thành Quảng Châu bắt buộc nhà Tống cải tiến chế độ chi phối vùng Lãnh Nam. Quảng Châu là đô thị hải cảng quan trọng nhất đối với nhà Tống nên nhà Tống phải tích cực khôi phục Quảng Châu cũng như chi phối biên giới Quảng Tây mạnh mẽ. Trong quá trình khôi phục, những người tri châu tổ chức việc xây dựng thì chăm chỉ tham khảo các ý kiến của người sống ở Quảng Châu, nhất là người buôn Nam Hải, thậm chí nhờ họ làm mối với các nước Nam Hải. Như thế, Quảng Châu dần dần trở lại hoạt động ngoại thương thịnh đạt, đóng một vai trò rất quan trọng với bang giao Việt – Tống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đái Duệ Huyên, Khảo thích do Tam Phật Tề trùng tu Quảng châu Thiên Khánh quán bi ký trong đời Tống, Luận tùng lịch sử Đông Nam Á tập thứ 2 (Quảng châu; Sở nghiên cứu lịch sử Đông Nam Á ĐH Trung Sơn), 1979, trang 105-127.
2. Fukami Tadao, Giới thiệu sử liệu Quảng châu trùng tu Thiên Khánh quán ký, Bukkyo geijutsu Ars buddhica. số 287, 2006, trang 74-80.
3. Fukami Tadao, Reexamination of San-fo-ch’i ––– Change of perspective of the Study on Early History of the Western Part of Insular Southeast Asia –––, Tounan Asia Kenkyu Nghiên cứu Đông Nam Á. số 25-2, 1987, trang 205-232.
4. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao & tông giáo triều Lý, Nxb Qquân đội nhân dân, H. 2003, 452 trang.
5. Kondo Kazunari, Bunjin kanryo Soshoku no tai Kourai seisaku Chính sách đối với Cao Lý của Tô Thức quan liêu văn nhân, Shiteki số 23, 2001, trang 2-22.
6. Momoki Shiro, Giao dịch Nam Hải và Việt Nam trong thế kỷ 10-15 ––– một góc nhìn về quan hệ Trung Việt –––, Sekai-shi eno Toi Câu hỏi về lịch sử thế giới. tập 3, Tokyo; Iwanami shoten 1990, trang 225-256.
7. Morita Kentaro, Lưu Phú Và Tân Áp Đà La ––– những diện mạo về thống trị Quảng châu thời kỳ Bắc Tống –––, Shiteki số 23, 2001, trang 23-39.
8. Morita Kentaro, Ảnh thật của tín ngưỡng Tư Hải của triều Tống, Kỷ yếu khoa nghiên cứu Văn học VĐH ĐH Waseda, 2004, trang 67-79.
9. Tan Yeok Seong, The Sri Vijayan Inscription of Canton (A.D.1079), Journal of Southeast Asian History 5(2), 1964, trang 17-24


———-


Chú thích:


1 TB, quyển 173, Hoàng Hựu năm thứ 4 (1052), tháng 7, ngày Nhâm Tuất.
2 TB, quyển 172, Hoàng Hựu năm thứ 4 (1052), tháng 5, ngày Bính Dần.
3 THY, Phương vực 9-27, Phần Quảng châu phủ thành, Hoàng Hựu năm thứ 4 (1052), tháng 10, ngày 29.
4 TB, quyển 174, Hoàng Hựu năm thứ 5 (1053), tháng 6, ngày Ất Muì.


5 Quảng Đông thông chí (Nguyễn Nguyên biên soạn. sau này viết tắt là QĐTC), quyển 206, kim thạch lược 8 tập lục. Thạch bia do Nguyên Giáng lập năm 1054, hiện nay có ở miếu Nam Hải thần, Quảng Châu, Trung Quốc.
6 QĐTC, quyển 206, kim thạch lược 8 tập lục. Thạch bia đó do Lữ Cư Giản lập năm 1067, hiện nay có ở miếu Nam Hải thần, Quảng Châu, Trung Quốc.


7 THY, Phương vực 9-27, Phần Quảng châu phủ thành, Hy Ninh năm thứ 1 (1068), tháng 4, ngày 23. Về khởi nguyên của thành cổ, Dư Tĩnh viết thi Hòa Đổng chức phương kiến thị sơ đáo Phiên Ngung thi chép, “Nghìn năm vẫn tồn tại thành Việt cổ” (Dư Tĩnh “Võ khê tập”, quyển 2, Luật thi).
8 THY, Phương vực 9-27, phần Quảng Châu phủ thành, Hy Ninh năm thứ 5 (1072), tháng 8, ngày 12.
9 THY, Phiên di 4-92, phần Đại Thực, Hy Ninh năm thứ 5 (1072), tháng 6, ngày 21.


10 Vinh Lạc đại điển, quyển 21984, Học 12, Trương Tiết ̣(?) “Quảng châu phủ di học ký” và Trình Sư Mạnh “Học điền ký”.
11 Vinh Lạc đại điển, quyển 21984, Học 12, Trình Sư Mạnh “Học điền ký”.
12 Khánh Hy Nam Hải huyện chí, quyển 5, Tuyển cử chí chép Lưu Phú trở thành “Hương cống tiến sĩ ”.
13 TB, quyển 271, Hy Ninh năm thứ 8, tháng 12, ngày Quí Sửu và quyển 290, Nguyên Phong năm thứ 1 (1078), tháng 7, ngày Đinh Sửu.
14 Vinh Lạc đại điển, quyển 21984, Học 12, Trình Sư Mạnh “Học điền ký”.
15 THY, Sùng nho 2-12, Phần Quảng châu phủ thành, Sùng Ninh năm thứ 4, tháng 8, ngày 28.
16 Theo sử tịch Quảng châu thành phường chí chép, quán Thiên Khánh ở Quảng Châu vốn là một ngôi chùa đổi tên từ
chùa Khai Nguyên mà Đường Huyền Tông ra chiếu xây dựng.


17 Văn bia “Quảng Đông Trùng Tu Thiên Khánh ký” được học giả phát hiện và giới thiệu trong những năm 1960. Tuyên Thống Nam Hải Huyện chí, quyển 12, Kim thạch lược 1 tập lục. Nghiên cứu về văn bia đã có [Tan 1964], [Đái 1977], [Fukami 1987; 2006] v.v..
18 Thiên hạ quân quốc lợi bệnh thư, phần Tam Phật Tề, Quảng châu cựu chí.


19 Về quá trình sự kiện đó xem TB, quyển 192, Gia Hựu năm thứ 5, tháng 8, ngày Ất Hơi, Đại Việt sử lược, quyển 2 và Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 3, năm Canh Tý (1060). Và Lý Nhật Tôn viết thư cho nhà Tống là xem THY, Phiên di 4-34, phần Giao Chỉ, Gia Hựu năm thứ 7, tháng Giêng.


20 [Momoki 1990]
21 THY, Phiên di 4-61~65, phần Chiêm Thành, Kiến Long năm thứ 1 đến Đoạn Củng năm thứ 1. ký lục hiến cống bắt đầu là năm 960. nạn dân đến Quảng Đông là năm 986, 987 và 988
22 TB, quyển 157, Khánh Lịch năm thứ 5, tháng 12, ngày Bính Thìn và quyển 158, Khánh Lịch năm thứ 6, tháng 3, ngày Kỷ Sửu. Và THY, Phiên di 4-32, phần Giao Chỉ, Khánh Lịch năm thứ 6, tháng 3.
23 Võ Khê chí, quyển 15, Biểu, “Quảng châu Tạ Thượng biểu”.


24 THY, Chức quan 44-4, Thiên Thánh năm thứ 6, tháng 7, ngày 16 chép “Chiếu, Quảng châu dạo này ít khi tàu phiên đến. làm cho châu này cùng với chuyển vận sứ chiêu an họ.”
25 Vạn Lịch Việt đại ký, quyển 9, loại quan tích, truyện Dư Tĩnh.
26 [Kondo 2001], [Morita 2001]. Theo [Kondo 2001] , nhà Tống làm quan hệ được với Cao Lệ nhờ người buôn Tuyền
châu.





* Ghi chú của BS:


Tham luận này được phổ biến tại HỘI THẢO QUỐC TẾ VIỆT NAM HỌC LẦN THỨ BA “Việt Nam: Hội nhập và Phát triển”. Mời xem thêm các bài viết về cuộc hội thảo này “Việt Nam học trong thế kỷ 21“; “Thăm ban tổ chức hội thảo VN học lần ba“; “Nghiên cứu Việt học ‘không độc quyền‘”; ” Đánh giá lịch sử mở rộng lãnh thổ của Việt Nam“; ” Kiến giải của một người Nhật về ông Hồ“; ” Chủ tịch VN nói chuyện với học giả nước ngoài“; Hơn 20 bài tham luận trong Hội thảo được đăng trên Ba Sàm, mục Chủ ĐỀ/Hội thảo VN học-3
http://anhbasam.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét