Nghề
chế tác đồ vàng bạc và kim hoàn khác của Champa
Trích
từ ĐTNCKH NAFOSTED
Một
số vấn đề xã hội Champa qua nghiên cứu khảo cổ học
Mã số:
IV.1.2-2012.18
Lâm Thị Mỹ Dung
Tài
liệu thư tịch. Thư tịch cổ cho biết Champa rất giàu có về đồ vàng bạc, đá quý,
miền Trung Việt Nam nhiều mỏ vàng và trong lịch sử nhiều cuộc cướp phá từ bên
ngoài đa phần bắt nguồn từ sự giàu có của vương quốc[1].
Tài liệu văn bia. Trong
các văn bia được phát hiện từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay cũng đã miêu tả một khối
lượng lớn bằng bạc và đá quý được dùng làm đồ trang sức và đồ trang trí. Tài liệu
của Henri Parmentier (1918) cho thấy trên một số văn bia ở Mỹ Sơn (Quảng Nam),
Po Nagar (Nha Trang) đã khắc họa việc sử dụng các kim loại quý như vàng bạc,
các loại đá bán quý, đá quý, ngọc trai để làm Kosa và các vật dụng trang trí
trên Kosa[2]
(Hình 65).
Hình
65. Văn bia miêu tả việc chế tác và sử dụng Kosa bằng vàng bạc và đá quý
(Nguồn:
Nguồn János Jelen, Jean Francos Hubert, Anne Velérie Schweyer, Cao Xuân Phổ và
Ngô Văn Doanh 2008)
|
Tư liệu dân tộc học lịch sử. Theo
thống kê của tác giả Lương Ninh (Lương Ninh 1998: 670-672) thì có 10 địa điểm cất
giữu “kho tàng cổ” của các vua Cham với 53 hiện vật bằng vàng và 259 hiện vật bằng
bạc cùng với hàng trăm hiện vật khác bằng đồng, sắt, thiếc…. Theo đó, có 2 kho ở
Bình Thuận là kho Tịnh Mỹ, Thanh Hiếu và 03 kho ở Ninh Thuận là kho Phước Đồng,
Hậu Sanh, Hữu Đức; 05 kho được lưu trữ bảo quản bởi các tộc người Churu, Lat,
Cơ Ho. Những kho báu này được coi là nơi lưu giữ đồ thờ của các đền Po Klong
Mohnai, Po Klong Gahul, Po Klong Garai, Lavang, Po Nagar với nhiều loại hình hiện
vật như vương miện, hoa tai, vòng, y phục, v.v. Và hiện nay, chỉ còn một bộ sưu
tập ở kho Tịnh Mỹ (kho báu Bà Thiềm) được bảo quản trong nhân dân những cũng
thiếu hụt nhiều hiện vật vàng, bạc, vò, bát, hộp, v.v. Tuy nhiên, thống kê này chưa
thực sự đầy đủ bởi trước đây người Pháp đã công bố nhiều kho báu vật của người Champa.
Các kho tàng này lần đầu tiên biết đến bởi Villaume, P; sau đó Parmentier, H và
Durand, E.M (1905), Clayers, I.Y (1928), Ner, M (1929 – 1930), Dournes, J
(1955) và Nghiêm Thẩm (1957-1960) đã khảo sát 18 địa điểm lưu giữ kho tàng của
các vua Chàm như ở thung lũng Phan Rang (Ninh Thuận, Bình Thuận), một số được
lưu giữ trong cộng đồng của người Cơ Ho, người Chu Ru trên đất Lâm Đồng. Các địa
điểm hay kho báu này có chứa các loại đồ thờ cúng, vũ khí, đồ dùng dụng cụ văn
phòng và đồ gia dụng bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gốm, hòm gỗ, đồ trang sức và cả
các loại y phục, v.v. Các kho báu này nằm trong khung niên đại khoảng đầu thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XVIII. Trong các kho báu này chứa các đồ vật kiểu Việt,
Trung Hoa, Ả rập, kiểu Châu Âu…, song các cồ vật mang đậm truyền thống văn hóa Champa
như các đồ y phục, đồ trang sức hoặc đồ thờ cúng chiếm đa số.
Di vật và di tích khảo cổ học:
Thứ nhất, rất ít di vật kim loại quý
tìm thấy trong các địa điểm khảo cổ học xác định được niên đại và nguồn gốc
chính xác, giống như nhiều đền tháp Hindu giáo khác, đền tháp Champa thường có
hố thiêng nơi chứa những đồ quý, nhưng nhiều hố thiêng đã bị đào trộm trước đó.
Thứ hai, do tính chất của hiện vật,
sau khai quật được cất giữ lập tức vào kho bạc người nghiên cứu không có cơ hội
nghiên cứu sâu, chưa có bất cứ dự án nghiên cứu vàng, bạc Champa nào được tiến
hành như kiểu Dự án Nghiên cứu Vàng cổ trong đó có đồ vàng Sa Huỳnh đã bắt đầu
có kết quả (Reinecke A và nnk.,2014: 52-63).
Mặc dù vậy, trong một vài cuộc khai quật
trước đây của học giả Pháp và sau này của Việt Nam phát hiện một số hiện vật
vàng, bạc... thường là ở những hố thiêng trong các di tích đền tháp.
Việc
khai quật và nghiên cứu các đền tháp Champa ở khu đền tháp Mỹ Sơn cũng đã ghi lại
việc tìm thấy các hiện vật bằng vàng bạc và đá quý, chẳng hạn như một sưu tập
trang sức bằng vàng thu được trong di tích kiến trúc đền thờ C7 bao gồm 01 mũ
Kiritamukuta bằng vàng, 03 đôi vòng vàng ở bả vai, đeo ở cánh tay và lồng vào cổ
chân với bản lề và chốt hãm, 02 chuỗi hạt, 02 bông tai và 02 cánh hoa bằng vàng
có gắn hạt đá ở giữa, 02 bó nhỏ lá vàng, 02 linga nhỏ bằng vàng có gắn trên 01
yoni bằng bạc (Lê Xuân Diệm và Vũ Kim Lộc 1996: 130; Vũ Kim Lộc 2005: 719-734) (Hình
66).
Hình 66. Đồ trang sức bằng vàng ở Mỹ
Sơn
(Nguồn fonds Vietnam EFEO_VIE23053)
Aurousseau
công bố bộ sưu tập hiện vật bằng nhiều
chất liệu trong đó có đồ vàng, bạc, đá quý được chôn dưới nền của 2 di tích
tháp trong khuôn viên ngôi đền Ratna-Loke’s vara (Phật Quan Âm) ở địa phận thôn
Đại Hữu (Quảng Bình) có niên đại cuối thể thế IX đầu thế kỷ X. Các hiện vật đều
được chôn ở độ sâu 4m trong 2 khu tháp phía Bắc và phía Nam với các loại hiện vật
như đồ gốm (vò gốm), vàng (lá vàng cắt hình hoa sen, vò bằng vàng có nắp đậy,
nhẫn hoặc khuyên tai bằng vàng), ngoài ra còn có những viên đá thạch anh và những
vò nhỏ bằng kim loại khác (Aurousseau 1926a: 359-362) (Hình 67).
Hình
67. Một số đồ vàng trong khu đền tháp Đại Hữu
(Nguồn
Aurousseau 1926a, hình 14)
Ngoài
ra, Aurousseu cũng công bố các hiện vật
bằng vàng bạc được tìm thấy trong cuộc khai quật và nghiên cứu di tích đền tháp
Champa ở làng Trung Quán, di tích này có hình chữ nhật, xây bằng gạch, nằm giữa
nền tháp là 01 lá vàng nhỏ dập hình con rùa nhỏ, 01 vò bằng vàng nhỏ có nắp đậy
và trong vò này có 20 viên đá quý màu trắng trong suốt, màu lơ nhạt, màu lục hoặc
màu hồng tím, 02 lá vàng chồng lến nhau và lá vàng ở dưới thì cắt thành hình
hoa sen nở (Arurousseu 1926b:363-365) (Hình
68).
Hình
68. Một số đồ vàng, đá trong khu đền tháp Trung Quán
(Nguồn
Aurousseau 1926b, hình 22)
Trước đó thì Parmentier (1909) cũng đã ghi lại
những kho báu vật được tìm thấy như các kho báu trong nhóm đền tháp Po Nagar
(Nha Trang) vào những năm 1905-1906 cũng phát hiện vài “kho vật thiêng” cất dấu
cẩn thận ở các tháp phía Tây, Tây Bắc và Nam của khu đền trung tâm. Ở các khu
này có chứa các mảnh vàng hình vuông (phía Tây là 260 mảnh, phía Tây Bắc không
có số lượng cụ thể song có nhiều mảnh vàng thuộc loại này), các mảnh vàng hình
chữ nhật (10 mảnh trong đó chạm hình voi đang đi ở cả hai khu vực Tây và Tây Bắc
và 01 mảnh có chạm hình rùa đang bò ở khu vực phía Tây, ngoài ra còn chạm hình
con thằn lằn hoặc cá sâu), 2 chiếc vòng vàng có mặt cắt hình tam giác, 01 mảnh
vàng cắt hình bông hoa 8 cánh, 01 sợi dây bằng vàng dài khoảng 2m (?), 01 mảnh
hình chữ nhật bằng bạc và 04 chiếc vò gốm thô. Niên đại chung vào khoảng nửa đầu
thế kỷ IX và ngoài ra một kho vật thiêng khác được cất dấu trong lớn nền móng
ngôi đền Satyavarman dựng vào cuối thế kỷ VIII (năm 781), trong kho này có 01
bình đồng có nắp bằng vàng, 01 hộp bạc có kiểu dáng Trung Hoa và nhiều hạt đá
quý, đá ngoc, thủy tinh thiên nhiên và 01 hiện vật bằng sắt. Một kho khác nữa
được cất dấu trong tường gạch gần đỉnh tháp được xây vào thế kỷ XII có 02 đĩa bằng
đồng, 01 đĩa bằng sắt, 01 đĩa bằng kim loại màu trắng, 01 đĩa bằng bạc và 03
đĩa bằng bạc có cắt thành hình hoa 8 cánh, có dấu chạm thô ở giữa, ngoài ra còn
01 đĩa bằng vàng, 01 mảnh vàng ở rìa có tạc hình làn sóng với những vảy thô, 01
lá vàng có chạm hình con rùa có vảy thô, 01 lá vàng hình con voi và nhiều mảnh
vàng khác (Hình 69).
Hình
69. Vòng tay và trâm vàng tìm thấy ở tháp Nam, khu đền tháp Po Nagar
(Nguồn
fonds Vietnam EFEO_VIE23038,VIE23039 )
Tại
nhóm đền tháp Hoà Lai khi xử lý những hố thiêng/hố thờ, những nhà khảo cổ học
đã phát hiện những mảnh vàng có khắc hình, dây kim loại vàng, đai đồng, trong
đó có hiện vật hình hoa sen 7 cánh khá giống với những hiện vật ở Đại Hữu và
Trung Quán Quảng Bình, ngoài ra có những mảnh vàng hình rắn, hình voi... (Bùi
Chí Hoàng 2015: 40-41).
Trước
đây người Pháp cũng công bố một sưu tập đồ thờ bằng kim loại quý lưu giữ ở khu
đền tháp Hoà Lai (Hình 70).
Hình
70. Nhóm đồ nghi lễ lưu giữ tại tháp Hoà Lai
(Nguồn fonds Vietnam EFEO_VIEO1059)
Nhóm hiện vật vàng gồm bát nhỏ, cốc bằng
vàng tìm thấy trong khi đào gia cố chân móng phía nam tháp Cổng, nhóm tháp
Pokloong Garai, ở độ sâu 1m so với mặt bằng nền tháp (Hình 71). Những hiện vật này sau đó đã bị chính quyền địa phương
thu giữ trước khi những người khai quật xử lý và thu thập thông tin, số phận của
những đồ vàng này sau đó không ai biết (Nguyễn Hồng Kiên và nnk., 1991: 227), về
chức năng của những đồ vật này cũng khó có thể xác định chính xác, từ vị trí
tìm thấy thì có lẽ đây là những đồ liên quan đến nghi lễ thực hành khi xây dựng
đền tháp.
Hình 71. Hiện vật tháp Pô Kloong
Garai Phan Rang Ninh Thuận 1983
(ảnh chụp của Nguyễn Hồng Kiên)
Trong ngôi mộ Gò Đua (xã Bình Trung, huyện
Bình Sơn, Quảng Ngãi) được đào năm 1987 có chôn theo một số hiện vật bằng vàng
bạc (song đã bị thất lạc) như 01 chiếc mũ đội bằng bạc, 01 mảnh giáp che ngực bằng
bạc, đai bịt mồm ngựa và bàn đạp ngựa bằng bạc, một mảnh vỡ bằng bạc trông giống
như cái muôi có miệng hình bầu dục và có 10 chữ Cham cổ ở gần miệng, 01 mảnh
vàng dát mỏng có hoa văn dập nổi hình vòng xoắn đối xứng nhau, 02 hoa sen bằng
vàng lá trong mỗi bông hoa có hai lớp cánh, mỗi lớp có 06 cánh bằng nhau và ở
giữa có nạm một hạt đá mùa xanh, dưới cánh được màu nhọn, 01 chiếc nhẫn hình
chim công (Đinh Bá Hòa 1988: 220). Đồ trang sức bằng vàng bạc còn được tìm thấy
ở Nhơn Hậu (An Nhơn, Bình Định) trong những năm 90 bao gồm 01 chiếc hộp và 01
chiếc đĩa bằng bạc cùng với 02 mảnh vàng dát mỏng có đục thủng và được xâu với
01 sợi dây vàng nhỏ (Đinh Bá Hòa 2000: 712-713).
Năm 2012 tại cuộc khai quật khu đền
tháp Cấm Mít thôn Cẩm Toại, xã Hoà Phong, huyện Hoà Vang, Đà Nẵng, gồm ba ngôi
đền nằm theo trục bắc nam, cửa quay hướng đông, trong hố thiêng dưới đáy chia
thành các ô khám đã tìm thấy một số hiện vật kim loại vàng, hạt chuỗi thạch
anh, đá cuội và tinh thể thạch anh, những di vật này hiện đang trưng bày tại Bảo
tàng Điêu khắc Champa Đà Nẵng (Hình 72).
Hình 72. Một số hiện vật trong hố
thiêng khai quật năm 2012 ở đền tháp Cấm Mít
Ảnh chụp năm 2015, Bảo tàng Điêu khắc
Champa Đà Nẵng
Trong hố thiêng khu đền tháp Phong Lệ,
phường Hoà Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng khai quật tháng 3 năm 2011 tìm thấy một
số mảnh vàng, tinh thể thạch anh, đá cuội (Hình
73).
Hình 73. Một số hiện vật trong hố
thiêng khai quật năm 2011 ở đền tháp Phong Lệ
Ảnh chụp năm 2015, Bảo tàng Điêu khắc
Champa Đà Nẵng
Tóm lại, từ những dẫn liệu trên đây có
thể thấy đồ trang sức hay các sản phẩm kim hoàn của cư dân văn hóa Champa đã được
ghi chép và lưu giữ từ nhiều nguồn khác nhau như trong sử liệu, trên các văn
bia, trong những phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học, hay trong các sưu tập tư
nhân (Hình 74), trong các bảo tàng hay trong các kho báu của Hoàng gia Cham.
Nghiên cứu về các đồ vật bằng vàng bạc có một lịch sử lâu đời, đồ trang sức và
các sản phẩm kim hoàn được nhắc đến như một đặc trưng của văn hóa Champa song
cho đến nay mới chỉ có một số ít nghiên cứu về cách chế tác các đồ trang sức và
đồ nghi lễ của văn hóa Champa như Kosa.
Hình 73. Đồ trang sức bằng vàng sưu tầm
ở Trà Kiệu
(Hiện vật trong sưu tập của linh mục
Anton Nguyễn Trường Thăng, Trà Kiệu)
Cũng
không có bất kỳ một nguồn tài liệu nào nói về nguồn nguyên liệu dùng trong chế
tác các sản phẩm vàng bạc của cư dân văn hóa Champa, tuy vậy, một khối lượng lớn
vàng bạc được đem làm cống phẩm và được đem nấu thành tượng hoặc một khối lượng
lớn vàng bạc và đá quý được đem để chế tác Kosa ghi trên văn bia cho thấy nguồn
nguyên liệu ở đây chủ yếu là vàng nguyên chất, hoặc là các nguyên liệu bằng bạc
hoặc đá quý dùng cho chế tác các sản phẩm.
Về
kỹ thuật chế tác, cư dân Champa sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, các dụng cụ
như búa, cưa, dũa, cây đánh bóng và nhiều loại mũi nhọn, v.v. Việc chế tạo mỗi
loại hiện vật hoặc loại sản phẩm khác nhau có những quy trình, kỹ thuật khác
nhau dựa vào một số nghiên cứu và thực nghiệm thì đồ kim hoàn mà cụ thể là vàng
bạc đã sử dụng các kỹ thuật như chạm, đúc, hàn gắn, nạm... Nghệ nhân Vũ Kim Lộc
đã nghiên cứu những dấu vết trên một số hiện vật bằng vàng Champa, làm thực
nghiệm và cho rằng chất khằng đã được
sử dụng trong chế tác đồ vàng, bạc (Vũ Kim Lộc 2002 và 2005).
Và
như nhiều văn hoá chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Champa ưa chuộng sử dụng đồ vàng, bạc,
đồng, không chỉ trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng mà cả trong những sinh hoạt
đời thường, vàng bạc là những chỉ định chắc chắn về vị thế xã hội, sự giàu có
và mức độ hào phóng của con người với con người, với thần linh.
[1] Có thể thấy, một khối lượng lớn những
hiện vật vàng bạc và đá quý cũng như đồ trang sức đã được ghi lại trong sử liệu
của Trung Quốc từ rất sớm. Trong thư tịch cổ của Trung Quốc đã miêu tả khá chi
tiết: Vua mặc áo cổ bối, bạch diệp, trên
đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng kết thành chuỗi…; (vợ vua) mặc vải cổ bối
tiêu hà, mình trang sức đầy dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai. Cũng theo sử
liệu Trung Quốc, vào TNK thứ nhất, vương quốc Champa đã trở thành một xứ sở lạ
lùng, có rất nhiều vàng bạc và đồ quý lạ (Maspero 1928: 83). Những cống phẩm đầu
tiên vào năm 137 SCN, thời điểm nước Lâm Ấp chưa được thành lập, người Khu Liên
chịu không nổi ách đô hộ của Trung Quốc đã nổi dậy. Lý Cổ đã thực hiện chính
sách dùng người bản địa trị người bản địa rồi hàng năm cống đồ vàng bạc
(Maspero 1928: 67-68). Sử liệu cũng đã ghi lại việc vua Nghĩa Long sai Đàn Hòa
Chi chinh phạt Lâm Ấp đã thu được một chiến lợi phẩm vô cùng quý giá, trong đó
có rất nhiều vật lạ lùng hiếm có…, toàn bộ đã bị nấu chảy cùng với tượng, tổng
cộng có 10,0000kg cân vàng nguyên chất (Maspero 1928: 72-73). Ngoài những đồ
vàng bạc được đem làm cống phẩm cho Trung Quốc và Đại Việt từ thế kỷ I-II cho đến
khoảng thế kỷ XV, và bên cạnh những cống phẩm cho Trung Quốc thì sử liệu cũng
ghi lại các vua Chàm đã đem vàng bạc làm cống phẩm cho các vua của các nhà Tiền
Lê, Lý, Trần của Đại Việt (Lê Hoàn, Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông,
v.v), các triều đại này đã thu được nhiều đồ vàng bạc qua các cuộc chiến tranh
giữa Đại Việt và Champa. Nhìn chung, đồ kim hoàn và đá quý được cống nạp và thu
giữ có khối lượng lớn với nhiều loại sản phẩm từ đồ trang sức (mũ miện, khuyên
tai, vòng tay, vòng chân, dải thắt lưng bằng vàng và dải vàng được làm đồ trang
trí trên y phục – áo dài, đồ trang sức hay mặt nạ bằng vàng), đồ dùng trong
nghi lễ (Kosa…), vật dụng của hoàng gia (bình bằng vàng bạc, lọ vàng, ấm bạc, lọng
bằng vàng, mâm vàng đựng trầu cau, hộp bằng bạc hình thanh kiếm…), vũ khí bằng
vàng bạc (dao găm với vỏ bao bằng vàng, bành voi bằng vàng hay bàn đạp ngựa bằng
bạc,…), ngoài ra còn những vật trang trí như những đóa hoa bằng vàng bạc có nạm
đá quý, những dải dây vàng được trang trí trên y phục quần áo và cả tiền tệ bằng
vàng bạc (các đĩnh bạc với kích cỡ, trọng lượng khác nhau và bạc vụn…).
[2] Văn bia Mỹ Sơn ký hiệu C.87 ghi lại
rằng vị vua Prakasadharma-Vikrantavarman, một trong những vị vua cuối cùng khắc
trên văn bia Mỹ Sơn vào năm 609 Kasa (tức năm 687) đã dâng một Kosa bằng bạc
cho Isanesvara cùng với một mũ miện bằng vàng cho Bhadresvara. Những đồ dâng tặng
này được đặt trong 2 tháp ở Mỹ Sơn, một cái thuộc nhóm A và kosa thì ở trong một
tòa tháp của nhóm B (B1). Có 03 văn bia khác là C.81, C.85 và C.86 cũng miêu tả
về Kosa cho Isanesvara bằng vàng bạc và có nạm đá quý. Văn bia C.81, niên đại
khoảng thế kỷ VIII tìm thấy gần đài thờ B1 đã ghi lại một món quà tặng là “Kosa với một chiếc mũ miện (makutakosa) gắn
những viên đá quý”. Văn bia ký hiệu C.85
ở Mỹ Sơn có niên đại năm 1163 nằm ở tháp B1 nói về Kosa có 5 mặt được
làm bằng vàng bạc. Theo miêu tả thì trọng lượng bạc được sử dụng là 2.920kg và
vàng là 3.387kg, tổng trọng lượng là 6.307kg vàng bạc, ngoài ra còn gắn 82 viên
đá quý và 67 viên ngọc trai được nạm vào Kosa. Văn bia có ký hiệu C.86 có niên
đại vào khoảng cuối thế kỷ XII – đầu thế kỷ XIII nằm ở tháp B1 cho biết Kosa được
làm bằng bạc và chỉ có một mặt được làm bằng vàng. Ngoài các văn bia trên, thì
các văn bia khác ở Mỹ Sơn có ký hiệu C.90 cũng miêu tả Kosa với 4 mặt được làm
bằng vàng và có gắn những viên đá quý hoặc trong văn bia có ký hiệu C.89 nằm ở
tháp D1 của Mỹ Sơn có niên đại thế kỷ XI là Kosa bằng vàng với 06 mặt, trên đỉnh
của của các kosa là mũ miện có gắn những viên đá “mặt trời” (Sun-stone) trông giống như crystal, và các loại đá quý
khác như hồng ngọc (ruby), kim cương (diamond), topal, sapphire, những viên đá
quý này được gắn ở các phía Đông, Tây, Nam, Bắc của Kosa, được các vị vua Chàm
lựa chon và biểu tượng cho quyền lực của người đó cũng như của hoàng gia, tổng
trọng lượng vàng của Kosa này là 16.677kg. Văn bia C.92 ở Mỹ Sơn cũng ghi chép
lại các Kosa được làm bằng vàng bạc và nạm đá quý. Văn bia C.92A có niên đại thế
kỷ XII thuộc nhóm tháp D ở Mỹ Sơn là một Kosa làm bằng chất liệu hợp kim với
vàng và bạc, nạm đá quý (đá sapphire), tổng trọng lượng là 12.469kg với 7.400kg
bạc và 5.069kg vàng. Văn bia C.92C cho thấy có 01 Kosa bằng vàng với 6 mặt và
trọng lượng của nó không ít hơn 18.870kg. Ngoài các văn bia ở Mỹ Sơn thì văn
bia ở Đồng Dương có niên đại thế kỷ IX (năm 875) cho biết Kosa là linga có
khuôn mặt thần Siva được làm bằng vàng....